BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỞNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
------------------------------
NGUYỄN HẢI HÀ
KỊCH HỮU ƢỚC
NHÌN TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kiều Anh
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo, TS. Nguyễn Thị Kiều
Anh - ngƣời đã hƣớng dẫn tận tình để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu tr ƣờng Đại học S ƣ
phạm Hà Nội 2, phòng Sau đại học, quý thầy cô đã trực tiếp giảng dạy tôi
trong suốt khóa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô trong Hội đồng chấm luận văn
đã dành thời gian đọc và đóng góp ý kiến.
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ động viên của gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có những cố gắng, tìm tòi nhất định, song chắc chắn luận
văn không tránh khỏi hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận đƣợc những ý kiến
đóng góp của thầy, cô và các bạn để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2016
Học viên
Nguyễn Hải Hà
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn trực tiếp của cô giáo, TS.
Nguyễn Thị Kiều Anh. Tôi xin cam đoan:
- Luận văn là kết quả nghiên cứu tìm tòi của riêng tôi.
- Những tƣ liệu đƣợc trích dẫn trong luận văn là trung thực.
- Những gì đƣợc triển khai trong luận văn không trùng khít với bất kì
công trình nghiên cứu của các tác giả nào đã đƣợc công bố trƣớc đó.
Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2016
Học viên
Nguyễn Hải Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu..............................................................................5
6. Đóng góp của luận văn..................................................................................5
7. Bố cục của luận văn.......................................................................................5
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
Chƣơng 1. XUNG ĐỘT TRONG KỊCH HỮU ƢỚC.....................................6
1.1. Khái niệm xung đột kịch............................................................................ 6
1.2. Một số xung đột cơ bản trong kịch Hữu Ƣớc........................................... 9
1.2.1. Xung đột giữa tình thân và luật pháp............................................... 9
1.2.2. Xung đột ta – địch...........................................................................12
1.2.3. Xung đột giữa cái thiện và cái ác................................................... 15
1.2.4. Xung đột nội tâm.............................................................................19
Chƣơng 2. NHÂN VẬT TRONG KỊCH HỮU ƢỚC...................................25
2.1 Khái niệm nhân vật và nhân vật kịch........................................................ 25
2.1.1 Quan niệm về nhân vật văn học.......................................................25
2.1.2 Nhân vật kịch và đặc điểm của nhân vật kịch..................................28
2.2. Các kiểu loại nhân vật trong kịch của Hữu Ƣớc.....................................30
2.2.1. Bảng thống kê các kiểu loại nhân vật trong kịch Hữu Ước............30
2.2.2. Các kiểu loại nhân vật trong kịch của Hữu Ước............................ 34
Chƣơng 3. NGÔN NGỮ TRONG KỊCH HỮU ƢỚC..................................59
3.1. Ngôn ngữ kịch..........................................................................................59
3.2. Đặc điểm ngôn ngữ trong kịch bản của Hữu Ƣớc.................................. 60
3.2.1. Ngôn ngữ dung dị đời thường.........................................................60
3.2.2. Ngôn ngữ đối thoại với lời thoại dài, giàu triết lí, chiêm
nghiệm, suy tư........................................................................................... 64
3.2.3. Ngôn ngữ độc thoại.........................................................................69
KẾT LUẬN.....................................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................76
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hữu Ƣớc - ngƣời nghệ sĩ đa tài “trƣởng thành từ ngôi nhà báo Công an
Nhân dân”. Trong hành trình sáng tác của mình, Hữu Ƣớc đã thành công ở
rất nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Ông đƣợc coi là tác giả “ bảy trong một”. Đó là:
nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà viết kịch, nhà điện ảnh, nhạc sĩ, họa sĩ. Ở thể
loại nào, Hữu Ƣớc cũng cố gắng thể hiện sâu sắc những mảng sáng - tối của
hiện thực cuộc sống con ngƣời. Các tác phẩm nghệ thuật của ông đã nhận
đƣợc nhiều giải thƣởng văn học - báo chí - sân khấu:
* Giải thƣởng truyện ngắn Báo văn nghệ (1995) với truyện ngắn “Ước
vọng của anh tôi”; giải thƣởng truyện ngắn Tạp chí Tác phẩm mới (1996)
với truyện ngắn “Đám ma hủi”.
* Giải báo chí toàn quốc (1998) với ký sự “Một chặng đường nước
Mỹ”;
* Giải thƣởng Hội nghệ sỹ sân khấu (1999) với vở kịch “Khoảnh khắc
mong manh”; giải thƣởng Hội nghệ sỹ sân khấu (2002) với vở kịch “Vòng vây
cô đơn”; giải thƣởng Hội nghệ sỹ sân khấu (2003) với vở kịch “Vòng xoáy”.
Và trong số nhiều thể loại sáng tác ấy, kịch đƣợc coi là một trong
những thể loại giúp Hữu Ƣớc gặt hái đƣợc nhiều thành công.
Khảo sát các kịch bản của Hữu Ƣớc chúng tôi thấy rằng so với các
kịch gia lớn của Việt Nam nhƣ: Nguyễn Đình Thi, Lƣu Quang Vũ, Nguyễn
Huy
Tƣởng,… Hữu Ƣớc đặt tên tuổi của mình trong nền văn học Việt Nam nói
chung và văn học kịch nói riêng không phải bởi ông có một số l ƣợng tác
phẩm lớn mà bởi sự đặc sắc về nội dung, tƣ tƣởng, nghệ thuật trong sáng tác.
Hầu hết trong các vở kịch của mình, Hữu Ƣớc đều tập trung khai thác vào đề
tài luật pháp hay “tòa án tội phạm” – những đề tài có vẻ nhƣ xa cách, khó gần
thậm chí là “húy kị” nhƣ ngƣời ta thƣờng nghĩ. Qua các vở kịch, nhà văn đã
2
chuyển tải vào đó những bài học giáo dục sâu sắc và thấm thía hơn đối với
mỗi cán bộ, những chiến sĩ công an và mỗi con ng ƣời. Có thể thấy rằng mỗi
vở kịch của nhà văn Hữu Ƣớc không chỉ dừng lại ở tính thời đại, mà sâu sắc
hơn là tƣ tƣởng nhân văn mà ông theo đuổi. Và Hữu Ƣớc dù ở địa vị là
ngƣời chiến sĩ, là nhà văn hay nhà báo đều nhớ lời dạy của một nhà lãnh đạo
nổi tiếng của KGB Đjeczinxki: “Nghề công an cần một trái tim nóng, một cái
đầu lạnh và đôi bàn tay sạch”.
Tuy nhiên, cho đến nay chúng tôi nhận thấy ch ƣa có một công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống về kịch của Hữu Ƣớc. Chính vì vậy, với đề tài
Kịch Hữu Ước – nhìn từ góc độ thể loại, tác giả luận văn mong muốn đóng
góp một phần nhỏ trong tiếng nói chung vừa khẳng định những thành công
trong nghệ thuật viết kịch của tác giả; đồng thời nhằm khẳng định thêm những
giá trị về sự nghiệp văn chƣơng của Hữu Ƣớc trong nền văn học Việt Nam
nói chung và trong phong trào sáng tác của lực lƣợng công an nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Là tác giả có nhiều đóng góp đáng kể cho nền văn học Việt Nam nói
chung và văn học trong lực lƣợng công an nói riêng nh ƣng qua khảo sát,
chúng tôi thấy công trình nghiên cứu về Hữu Ƣớc và các tác phẩm của ông,
đặc biệt là các kịch bản sân khấu còn rất ít, mới chỉ xuất hiện ở một số bài
viết, bài phỏng vấn đăng trên các báo Công an Nhân dân, An ninh thế giới…
Cụ thể nhƣ sau:
Trong bài viết: Nhà văn Hữu Ước viết kịch giữa ấm áp vòng đời, Tiến sĩ
nghệ thuật Nguyễn Thị Minh Thái khi nhận xét về khả năng sáng tác kịch của
Hữu Ƣớc đã viết: Hữu Ƣớc đã “lao vào viết kịch nhƣ bị đồng ốp”. Và nhà
nghiên cứu cũng đã mƣợn ý của nhà thơ Huy Cận: “Có thể rất trẻ ng ƣời ta đã
làm đƣợc thơ hay. Nhƣng phải đã sống nhiều đã từng trải mới viết đ ƣợc kịch
hay” để khẳng định kịch của Hữu Ƣớc mang nặng tính suy t ƣ, đúc kết và sự
3
trăn trở đƣợm màu sắc triết học về vận mệnh, về số phận con ng ƣời, đặc biệt
là những ngƣời chiến sĩ công an. Tất cả điều này đƣợc thể hiện trong một lối
viết hấp dẫn, độc đáo gắn với những mâu thuẫn vừa mang tính thời sự, vừa
mang tính thời đại.
Trong bài báo Với tôi thời sự chỉ là cái cớ đăng trên báo Pháp luật
TP.HCM; khi trả lời phỏng vấn, Hữu Ƣớc đã rất thẳng thắn bày tỏ quan điểm
của mình: “Tôi viết kịch cũng đƣợc 5 - 7 năm nay. Khán giả đánh giá những
vở kịch của tôi rất thời sự. Tôi lại cho rằng thời sự chỉ là cái cớ, cố gắng bám
thời sự nhƣng nó lại mang tính thời đại. Kịch cũng giống nhƣ báo, nếu bạn
đọc chán thì tôi phải thay đổi. Sân khấu của tôi mà khán giả b ƣớc ra khỏi rạp
thì cũng đóng cửa rạp”.
Trong bài phỏng vấn nhà văn đăng trên báo Thể thao và Văn hóa, khi
phóng viên đƣa ra câu hỏi: “Có thể, việc th ƣờng xuyên viết kịch bản từ những
vụ án còn nóng hổi là một chiêu thức rất ăn khách của anh. Nh ƣng để đ ƣa cốt
truyện thật vào hiện thực, tác giả thƣờng phải nghiền ngẫm rất lâu, còn với anh
thì… hơi nhanh?”, Hữu Ƣớc đã trả lời: “Tôi là một ng ƣời làm báo và có
điều kiện tìm hiểu kĩ những góc khuất ẩn sau mỗi vụ án. Chừng đó là đủ để
manh nha làm chất liệu cho một kịch bản mới rồi. Tất nhiên phải kể đến phần
liên tƣởng, sáng tạo của mình nữa…”.
Ngoài những nhận xét của các nhà nghiên cứu, những câu trả lời phỏng
vấn của chính tác giả, qua khảo sát chúng tôi còn nhận thấy còn có một số ý
kiến của các đạo diễn về kịch bản của Hữu Ƣớc.
Nhắc đến vở Tiếng chuông chùa, NSƢT Anh Tú - Trƣởng đoàn kịch I
của Nhà hát Tuổi trẻ, đầy phấn khích: “Nhà hát đặc biệt coi trọng chất l ƣợng
kịch bản nên thật may mắn khi phát hiện "Tiếng chuông chùa". Thời điểm
hiện nay, có đƣợc kịch bản văn học chất lƣợng tốt nhƣ " Tiếng chuông chùa"
là rất hiếm. Vì thế, chúng tôi đã đặt vấn đề dựng vở với tác giả". Những năm
4
qua, với chất liệu cuộc sống đƣơng đại ngồn ngộn trong các tác phẩm đậm
chất văn học, giàu kịch tính, Hữu Ƣớc đã là một kịch tác gia đắt khách. Đọc
kịch bản Tiếng chuông chùa, cả NSƢT Anh Tú lẫn NSƢT Xuân Huyền đều
"say", đến nỗi, đạo diễn Xuân Huyền tài hoa và khó tính cũng không giấu nổi
hài lòng: "Đây là một trong những kịch bản hay nhất về đề tài Công an"…
Trên cơ sở các nguồn tƣ liệu và tham khảo trên chúng tôi nhận thấy:
Mặc dù nhìn vào thực tế, những vở kịch của Hữu Ƣớc đã và đang thu hút và
dành đƣợc nhiều sự quan tâm của bạn đọc, nhà biên đạo kịch, diễn viên…
nhƣng chƣa có tác giả nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống về
kịch của Hữu Ƣớc. Vì vậy, trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi
chọn đề tài Kịch Hữu Ước – nhìn từ góc độ thể loại với hi vọng đóng góp
một phần nhỏ bé của mình nhằm khẳng định những thành công của Hữu Ƣớc
về thể loại kịch, đồng thời có cái nhìn sâu sắc, toàn diện, đầy đủ và chính xác
về các vấn đề mà tác giả đặt ra trong các tác phẩm của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tập trung khảo sát, nghiên cứu những
vở kịch của Hữu Ƣớc trên một số phƣơng diện nổi bật về thể loại: nhân vật,
xung đột, ngôn ngữ. Từ đó khẳng định tài năng sáng tạo và đóng góp của Hữu
Ƣớc đối với sự phát triển của thể loại kịch trong nền văn học Việt Nam hiện
đại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Nghiên cứu kịch Hữu Ƣớc qua một số
phƣơng diện nổi bật: nhân vật, xung đột, ngôn ngữ.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành thống kê,
khảo sát, phân tích và lí giải vấn đề trong phạm vi 7 vở kịch của Hữu Ƣớc.
Cụ thể bao gồm:
- Quả báo (1988)
5
- Khoảnh khắc mong manh (1989)
- Vòng đời (2000)
- Sếp rởm (2000)
- Vòng xoáy (2003)
- Người đàn bà uống rượu (2004)
- Tiếng chuông chùa (2008)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp thống kê
Phƣơng pháp phân tích
Phƣơng pháp so sánh
Phƣơng tổng hợp, hệ thống
hóa Phƣơng pháp loại hình
6. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở lý luận, vận dụng để tìm ra những đặc sắc về nhân vật,
xung đột và ngôn ngữ trong kịch của Hữu Ƣớc để b ƣớc đầu có cái nhìn
tƣơng đối hệ thống , toàn diện về nhà văn và sáng tác của ông.
- Đánh giá những đóng góp của Hữu Ƣớc ở mảng đề tài Vì an ninh Tổ
quốc và bình yên cuộc sống. Qua đó khẳng định những thành công về mặt thể
loại cũng nhƣ vị trí của nhà văn trong nền kịch nói Việt Nam hiện đại.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của luận văn gồm
3 chƣơng:
Chƣơng 1: Xung đột trong kịch Hữu Ƣớc
Chƣơng 2: Nhân vật trong kịch Hữu Ƣớc
Chƣơng 3: Ngôn ngữ trong kịch Hữu Ƣớc
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1
XUNG ĐỘT TRONG KỊCH HỮU
ƢỚC 1.1. Khái niệm xung đột kịch
Kịch là một thể loại văn học, hay nhƣ xƣa kia Aristote nói, kịch là một
thể loại thi ca bởi vì kịch cũng dùng ngôn từ làm chất liệu thể hiện và tạo nên
hình tƣợng. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu: “Kịch không những là một
nghệ thuật tổng hợp mà đúng hơn, một giao h ƣởng những nghệ thuật. Trong
kịch có sự hòa trộn của nhiều loại hình nghệ thuật, nó đƣợc ví nhƣ một cung
đàn với nhiều âm sắc” [15, tr.167].
Với đặc tính riêng của mình (sáng tác để trình diễn trên sân khấu hoặc
đƣa lên màn ảnh, bị chi phối bởi các yếu tố không gian – thời gian thực tế),
kịch khó có thể chứa đựng một dung lƣợng hiện thực rộng lớn nh ƣ trong các
tác phẩm thuộc loại hình tự sự, cũng không bộc lộ những rung động, cảm xúc
nhƣ trong các tác phẩm trữ tình. Kịch chủ yếu khám phá và diễn tả đời sống
bằng việc phát hiện những mâu thuẫn và xung đột, coi đó nhƣ một phƣơng
diện bộc lộ bản chất của đời sống hiện thực. Hay nói cách khác kịch ra đời
trên cơ sở của những mâu thuẫn, xung đột.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Xung đột là sự đối lập, sự mâu thuẫn
đƣợc dùng nhƣ một nguyên tắc để xây dựng các mối quan hệ tƣơng tác giữa
các hình tƣợng trong tác phẩm nghệ thuật” [15, tr.297]. Tuy nhiên không phải
mọi mâu thuẫn đều có thể trở thành xung đột. Theo Hồ Ngọc, mâu thuẫn chỉ
trở thành xung đột khi đáp ứng đƣợc các yêu cầu cơ bản sau:
- Thứ nhất, về nội dung: “Mâu thuẫn phản ánh đƣợc những vấn đề chủ
yếu, cơ bản của cuộc sống, đƣợc nhiều ngƣời quan tâm tới” [31, tr.101].
7
- Thứ hai, về hình thức: “Mâu thuẫn phải đạt tới mức độ không thể
điều hòa đƣợc, có nghĩa là hai mặt đối lập của mâu thuẫn phải phát triển tới
mức va chạm nhau và sự va chạm này chin muồi đến mức đòi hỏi phải giải
quyết” [31, tr.102].
- Thứ ba, về dung lƣợng: “Mâu thuẫn phải chứa đựng đ ƣợc “tiền
nhân hậu quả” nghĩa là phải bộc lộ ra đ ƣợc cả nguyên nhân và điều kiện phát
sinh ra mâu thuẫn phải có quá trình phát triển và kết thúc” [31, tr.104].
Trong văn học, đặc biệt là kịch, những suy nghĩ, đánh giá về nội dung
nhân bản, về chủ nghĩa nhân đạo là rất quan trọng; sự khác nhau về đạo đức,
hoàn cảnh, vị trí, địa vị xã hội, về giai tầng, giai cấp… có thể phát triển lên
thành mâu thuẫn, rồi đến lƣợt mình, những mâu thuẫn đó đạt đến mức độ gay
gắt không thể hòa hoãn. Khi đó, mâu thuẫn đã b ƣớc vào ng ƣỡng cửa của
xung đột.
Trong luận văn nổi tiếng của Aristote, mặc dù ông nói nhiều hơn đến
tính hành động nhƣng chúng ta cũng nhận thấy ông không bỏ qua một đặc
trƣng quan trọng của kịch: tính xung đột. Chẳng hạn, khi bàn đến cốt truyện
kịch, cụ thể là bàn về hai yếu tố trong cốt tuyện là thắt nút và mở nút, Aristote
coi thắt nút là phần kịch bao gồm từ đầu đến sự biến, còn mở nút là phần còn
lại, tức là toàn bộ quá trình từ sự biến đến phinal. Và theo ông, cả hai quá
trình này đều xuất phát từ mối xung đột ban đầu, tức là mối xung đột tạo nên
tình huống ban đầu, tình huống xuất phát của kịch.
Bên cạnh Aristote, Hêghen khi nói đến đối tƣợng xung đột kịch, ông
còn gắn liền với đặc trƣng hoạt động kịch.Trƣớc hết, Hêghen cho rằng kịch
là tổng thể đầy đủ nhất về nội dung và hình thức, nó cần phải đƣợc xem xét là
cấp độ cao nhất của thi ca và nghệ thuật. Xung đột là cơ sở của kịch. Hêghen
phân tích kịch nhƣ là một nghệ thuật có chức năng diễn tả những mâu thuẫn
của đời sống hiện thực ở mức độ căng thẳng cực độ, những mâu thuẫn ấy thể
hiện ở ba hình thái cơ bản, đó là:
8
1. Mâu thuẫn giữa quyền lợi, khả năng, ƣớc vọng, mục đích của con
ngƣời với những khó khăn, trở ngại ngăn cản những quyền lợi, khả năng,
ƣớc vọng, mục đích đó.
2. Mâu thuẫn phát sinh từ sự bất bình đẳng xã hội
3. Mâu thuẫn từ sự đối lập đƣợc tạo nên do hoạt động của chính con
ngƣời đó.
Cũng theo Hêghen, thông qua ngôn ngữ, hành động đƣợc miêu tả trong
mức độ cao nhất đó là kịch, nó không chỉ diễn tả hoàn cảnh bên ngoài mà cả
nội dung bên trong của xung đột – Xung đột trong hành động hay hành động
có kịch tính. Ở đây, chính là hành động của con ng ƣời và qua hành động đó,
con ngƣời đã thể hiện mình một cách rõ ràng nhất. Hành động của cá nhân
này sẽ gây nên sự chống đối cũng thể hiện bằng hành động của cá nhân khác.
Đó chính là bản chất xung đột của hành động.
Lấy xung đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật, nhà
viết kịch đến với hiện thực bằng con đƣờng ngắn nhất “lý giải đ ƣợc những
vấn đề thuộc phạm trù xung đột thông qua hệ thống hành động bằng sức mạnh
riêng của ngôn ngữ nhân vật, có nghĩa là nhà viết kịch đã lí giải đ ƣợc những
vấn đề mang ý nghĩa nhân bản luôn đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại bằng
tiếng nói nghệ thuật riêng của thể loại” [12, tr.61]. Pha-đê-ép cũng từng khẳng
định “xung đột kịch là cơ sở của kịch”.
Bất cứ loại hình nghệ thuật nào cũng mang trong mình những đặc tr ƣng
riêng biệt. Trong văn học, khi ngƣời ta chia văn học làm ba thể loại lớn, khác
nhau, chính là dựa vào những đặc trƣng riêng của chúng. Với thơ là yếu tố cảm
xúc, yếu tố chủ quan của tác giả; với tiểu thuyết là sự mô tả trong tính khách
quan về đời sống xã hội và con ngƣời thì với kịch chính là xung đột. Nhà văn
Leptonxtoi, khi bàn về đặc trƣng của Kịch đã nhấn mạnh: “Kịch là xung đột.
Kịch phải đặt ra những vấn đề lớn trƣớc dƣ luận xã hội. Tác phẩm
9
Kịch bộc lộ rõ nhất bản chất của bất kỳ nghệ thuật nào. Kịch trình bày những
tính cách và những tình huống đa dạng nhất của con ng ƣời, nêu ra tr ƣớc mắt
họ, đặt tất cả bọn họ vào tình thế buộc phải giải quyết mà con ng ƣời ch ƣa
giải quyết và buộc họ hành động, xem xét để tìm hiểu xem giải quyết vấn đề
đó nhƣ thế nào” [14]. Do hạn chế về mặt thời gian và không gian nên kịch
chỉ tập trung vào những mâu thuẫn cơ bản, những vấn đề bức xúc đ ƣợc nhiều
ngƣời quan tâm. Tính hấp dẫn của vở kịch trƣớc hết nằm ở tính chân thật và
điển hình của xung đột kịch. Xung đột là động lực thúc đẩy sự phát triển của
hành động kịch. Thiếu xung đột, tác phẩm kịch sẽ mất đi đặc tr ƣng đầu tiên,
cơ bản của thể loại, sẽ trở thành vô nghĩa (theo cách nói của Aristote) hoặc chỉ
là những “vở kịch tồi” (theo cách nói của Luna Tratxki). Chính vì thế, các nhà
viết kịch luôn luôn cố gắng để tác phẩm của mình có đƣợc những xung đột
làm nên sức nặng cho vở kịch.
Nói cho cùng, xung đột kịch là cái mà không có thì không thành kịch.
Ở mỗi thời kỳ, mỗi tác giả, trong mỗi vở kịch lại có những hình thái xung đột
mang sắc thái khác nhau, nhà viết kịch thực thụ chính là ng ƣời luôn luôn biết
tìm tòi, phát hiện những hình thái xung đột mới cho kịch của mình. Lịch sử
nhân loại do đó, xét về một phƣơng diện nào đó, chính là lịch sử của những
hình thái xung đột kịch và sự phát triển của nghệ thuật kịch do đó cũng chính
là sự mở rộng của các hình thái xung đột.
1.2. Một số xung đột cơ bản trong kịch Hữu Ƣớc
Khảo sát xung đột trong kịch Hữu Ƣớc, chúng tôi nhận thấy có 3 kiểu
xung đột cơ bản: xung đột giữa cái thiện và cái ác, xung đột giữa tình thân và
luật pháp, xung đột nội tâm.
1.2.1. Xung đột giữa tình thân và luật pháp
Viết về hình tƣợng ngƣời chiến sĩ Công an là một niềm đam mê khôn
cùng của Hữu Ƣớc. Ông từng tâm sự: “Công an là một đề tài có thể khai thác
10
đầy đủ và phong phú nhất, cọ xát quyết liệt nhất và hình t ƣợng ngƣời chiến
sĩ Công an dù tốt hay xấu đều rất hay!”. Vì vậy, khi xây dựng hình t ƣợng
ngƣời chiến sĩ an ninh trong cuộc sống hiện nay, Hữu Ƣớc đã gây tạo xung
đột tình thân – luật pháp, hay cũng có thể nói là xung đột giữa những ng ƣời
thân yêu ruột thịt. Đây là một hình thái xung đột có tính kịch rất cao và đặc
biệt có khả năng gây lo sợ và thƣơng cảm cho ngƣời tiếp nhận tác phẩm.
Theo Arixtốt, những ngƣời thân yêu ruột thịt nhƣ cha mẹ, anh em, vợ chồng
nên thân nhau, xung đột nhau, ám hại nhau, đâm chém nhau, tàn sát nhau tóm lại là gây đau khổ bất hạnh cho nhau là hình thái xung đột có tính kịch
nhất. Hình thái xung
đột này là một bƣớc phát triển mới của kịch về đề tài an ninh - ít nhất là trên
phƣơng diện phản ánh hiện thực đời sống. Bởi vì, ng ƣời chiến sĩ an ninh,
ngoài tƣ cách chiến sĩ an ninh còn sống và làm việc, học tập trong những mối
quan hệ của đời sống hàng ngày nhƣ quan hệ vợ chồng, cha con, anh em, bạn
bè, yêu đƣơng, nghĩa là tƣ cách ngƣời cha, ngƣời chồng, ng ƣời anh,
ngƣời bạn, ngƣời yêu,... Và hơn nữa, đôi khi hoạt động an ninh lại thâm
nhập cả vào những mối quan hệ ấy.
Trong vở Tiếng chuông chùa, Hữu Ƣớc đã đi sâu vào khai thác sự phức
tạp của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, khi trong chiến hào xen lẫn ta -
địch và nỗi đau là không phải của riêng ai. Vũ Đức – Giám đốc Công an
Thành phố, vƣớng vào một vụ án đặc biệt, phức tạp: vụ án không chỉ nhập
nhằng, khuất tất về kinh tế, lạm dụng chức quyền, vun vén cá nhân mà còn
luẩn quẩn, nan giải bởi nhiều thứ tình trong ấy. Tình giao kết nhiều năm, ơn
nghĩa giữa hai gia đình, một là gia đình của Giám đốc Công an thành phố Vũ
Đức với gia đình Giám đốc Sở Thƣơng mại Trần Cảnh. Chính ơn nghĩa thâm
sâu này mà cha con Trần Cảnh, Trần Hoạt đã lạm dụng nó để mƣu cầu tƣ lợi.
Trần Hoạt đã dựa hơi cha lập nhiều đƣờng dây chạy quota cho các công ty,
doanh nghiệp để ăn “hoa hồng”; lợi dụng tình cảm của Lệ Hằng – con gái Vũ
11
Đức, làm bức bình phong cho những vụ làm ăn phi pháp; mối quan hệ tình ái
với nàng hoa hậu Quỳnh Nga. Và thêm một lần nữa, ơn nghĩa đã khiến Giám
đốc Công an Thành phố Vũ Đức phải có sự chọn lựa giữa tình thân và luật
pháp khi chồng đơn tố cáo những ngƣời rất thân thiết với gia đình mình ngày
càng dày lên và sự phản đối từ vợ và đứa con gái duy nhất của mình ngày một
gay gắt. Khi sự việc tiêu cực xảy ra, vì ngƣời phạm tội là nhân vật có chức,
có quyền, lại là chỗ bạn bè thân thiết nên tình huống kịch càng trở nên căng
thẳng và đau lòng hơn.
Trong vở Khoảnh khắc mong manh, Hữu Ƣớc lại thành công với việc
khắc họa hình tƣợng ngƣời chiến sĩ an ninh trong hình thức xung đột gia
đình đời thƣờng, đúng hơn là đời thƣờng của các chiến sĩ an ninh.
Câu chuyện kể về nhân vật Hoàng Đảm – một Trƣởng phòng Cảnh sát
điều tra, trong cuộc chiến gay go ác liệt với tội phạm ma túy. Xung đột của vở
kịch bắt đầu khi chuyến hàng lậu có cất giấu ma túy do Tuấn làm chủ bị đội cảnh
sát phòng chống tội phạm ma túy của Trung tá Hoàng Ðảm bắt giữ. Là ng ƣời
tận tụy với công việc, sống hết mình cho lý t ƣởng vì n ƣớc, vì dân, có uy tín
trong việc xử lý nghiêm minh các vụ buôn bán ma túy, đứng tr ƣớc hành vi phạm
pháp của cậu con trai duy nhất, Trung tá Hoàng Ðảm rơi vào mâu thuẫn giằng xé
giữa tình thân và công việc. Những diễn biến tiếp theo của vở kịch, dù nhiều lần
bị rơi vào bẫy do Bàng đen – Bố già mafia, trùm buôn bán ma túy, giăng ra song
trong mọi tình huống, ở khoảnh khắc giữa cái thiện và cái ác, giữa cao cả và thấp
hèn, Trung tá Hoàng Ðảm vẫn luôn phát huy phẩm chất ng ƣời chiến sĩ công an
nhân dân, vƣợt lên những cám dỗ đời thƣờng, xử lý công việc công t ƣ phân
minh. Trong phần cuối vở kịch, Hữu Ƣớc đã khéo léo dàn dựng tình tiết giải
quyết xung đột, kéo câu chuyện ra khỏi lối mòn dễ dãi. Sự hy sinh của Trung tá
Hoàng Đảm để cứu đứa con trai ruột lỡ lầm và con dâu t ƣơng lai khỏi chết
không chỉ đẩy hình tƣợng ngƣời chiến sĩ an ninh
12
lên đài vinh quang mà qua đó nhà văn Hữu Ƣớc còn muốn đƣa ra một thông
điệp: Đời ngƣời ai mà chẳng có những khoảnh khắc mong manh, phải lựa
chọn giữa cái sống và cái chết, đạo nghĩa và phi nghĩa, tình th ƣơng và hận
thù, lƣơng tâm và sự bất lƣơng. Ngƣời sĩ quan công an cũng là ng ƣời nh ƣ
ai, và khi phải lựa chọn, cũng phải có quyết định đúng đắn dù phải hy sinh
mạng sống của mình.
1.2.2. Xung đột ta – địch
Trong các vở kịch viết về đề tài an ninh, xung đột ta – địch luôn th ƣờng
trực. Để khán giả hiểu hơn những gian khổ, hy sinh của ng ƣời chiến sĩ Công
an trong sự nghiệp gìn giữ an ninh, bình yên cuộc sống, Hữu Ƣớc đã đặt nhân
vật của mình trong tình huống xung đột mang hình thái địch – ta, ở đó địch là
những tên tội phạm nguy hiểm, sừng sỏ.
Bàng đen trong vở Khoảnh khắc mong manh đƣợc mô tả là một bố già
mafia, một tên trùm buôn bán ma túy. Hắn có ý định trong thời gian tới sẽ
“làm một quả đậm”, tổ chức một chuyến buôn lậu lớn có cất giấu ma túy.
Nhƣng làm thế nào để chuyến hàng trót lọt, qua mắt đ ƣợc Trung tá Hoàng
Ðảm, ngƣời nổi tiếng triệt phá nhiều vụ buôn bán ma túy lớn là câu hỏi đặt ra
với tên trùm khét tiếng Bàng đen? “Hổ dữ không ăn thịt con”, với suy nghĩ ấy,
biết Tuấn, con trai Trung tá Hoàng Ðảm, ngƣời yêu Cẩm Vân (con gái Bàng
đen) sớm có những bất bình với ngƣời cha, thông qua lời hứa hẹn có cánh
nếu phi vụ lần này trót lọt, Tuấn sẽ đƣợc hƣởng một khoản tiền lớn để làm
ăn, Bàng đen đã lôi kéo đƣợc Tuấn trực tiếp tham gia vụ phạm pháp do hắn
chỉ đạo. Những toan tính, mƣu mô, giảo quyệt của hắn đã đẩy Trung tá
Hoàng Đảm, một con ngƣời liêm khiết, có trách nhiệm rơi vào những mâu
thuẫn, giằng xé giữa tình thân và công việc. Thế nhƣng v ƣợt lên những cám
dỗ đời thƣờng, phát huy phẩm chất của ngƣời chiến sĩ Công an nhân dân,
Trung tá Đảm đã xử lí công việc công tƣ phân minh. Ở phần cuối vở kịch, sự
13
hy sinh anh dũng của Trung tá Hoàng Đảm khi vây bắt Bàng đen không chỉ
khiến ngƣời xem thực sự xúc động mà còn hoàn thiện hơn bức chân dung
ngƣời chiến sĩ Công an “Vì nƣớc quên thân, vì dân phục vụ”.
Bên cạnh đó, ở thời kỳ lịch sử dân tộc và xu thế thời đại đã ở một bến bờ
mới với những hiện tƣợng mới, đối thủ trực tiếp hiện diện của các chiến sĩ an
ninh không còn chỉ là địch, là đế quốc nham hiểm, Việt gian phản động và những
tên tội phạm nữa mà còn là những đồng đội, chiến hữu, là những ng ƣời thân yêu
ruột thịt của mình.Từ việc diễn tả cuộc đối đầu địch - ta, trong hoạt
động của các chiến sĩ an ninh, các vở kịch đã triển khai ra cuộc đối đầu nội bộ
trong hoạt động đầy phức tạp, khó khăn và đầy nguy hiểm của các chiến sĩ an
ninh.
Trong vở Vòng xoáy, hình tƣợng những chiến sĩ an ninh ở đây đƣợc diễn
tả trong một hình thái xung đột mới có giá trị phản ánh những nét mới của hiện
thực xã hội. Các nhân vật nhƣ thiếu tƣớng Bảy Th ƣơng, Hoàng Lê, Hoàng
Dũng và nhất là Hoàng Dũng đƣợc ném vào một tình huống có vẻ rất đời
thƣờng nhƣng lại rất có tính kịch. Hữu Ƣớc đã nhìn thấy tính chất căng thẳng
đến khốc liệt trong cuộc sống và cuộc đấu tranh, trong cuộc đời và sự nghiệp
trong đời thƣờng và trong những biến cố của các chiến sĩ an ninh. Ở xã hội hôm
nay, một xã hội cực kỳ phức tạp và không kém phần tàn bạo, tàn bạo và phức tạp
trong xu thế mới cùng với tấn bi kịch của nó. Từ một cán bộ cấp cao trong ngành
an ninh, trung tá Tƣ Hoàng đã trở thành một nhân vật phản diện - thực thụ Đứng trƣớc Tƣ Hoàng, các nhân vật Sáu Quýt - trùm xã hội đen, Mỹ Uyên ngƣời tình của Sáu Quýt chỉ còn là những cái bóng mờ nhạt. Ấy thế mà T ƣ
Hoàng, một cán bộ chỉ huy cấp cao của các chiến sĩ an ninh, lại phải quỵ lụy, lại
phải nghe theo chúng, bị chúng chi phối - để trở thành tay sai cho chúng. Sự
nghịch thƣờng này có thể đang đƣợc bình th ƣờng hóa trong đời sống chúng ta,
khi mà những kẻ có quyền, nhất là có tiền nh ƣng
14
nhân cách không đáng lấy một xu đang chi phối cả những ngƣời từng là
những anh hùng của thời đại. Nhƣng với con mắt nhà văn, Hữu Ƣớc đã nhìn
thấy cái tính nghịch thƣờng đó và xung đột hóa nó trong vở kịch của mình.
Ta hãy nghe một đoạn đối thoại rất nghịch thƣờng này.
“Bóng đen: Thôi thì chuyện đã trót xảy ra nhƣ vậy rồi, xin anh T ƣ lại
ra tay một phen che chở cho các đàn em. Ôi! thật là con dại, cái mang (Rút ra
một bọc tiền). Xin anh Tƣ lo liệu giúp cho vụ này êm thấm.
Tư Hoàng: Có nghĩa là ông lại bắt tôi làm sai lệch hồ sơ vụ án này sao?
Lần này thì khó đấy, khó đấy.
Bóng đen: Khó mấy tôi tin là anh Tƣ cũng giải quyết đ ƣợc. Pháp luật
trong tay anh mà, anh bẻ cong thì nó cong, anh nắn thẳng thì nó thẳng (Rút ra
thêm một sấp tiền nữa). Xin anh Tƣ lo liệu giúp” [50, tr.49].
Tình tiết này là một quả cân rất nặng ném vào cán cân xung đột của vở
Vòng xoáy, cái vòng xoáy tiền và gái đang cuốn hút con ngƣời chúng ta vào.
Cuộc đƣơng đầu của thiếu tƣớng, của Bảy Dũng, của Hoàng Lê do đó là
cuộc đƣơng đầu trong vòng xoáy, đƣơng đầu với kẻ thù trong chiến hữu...,
nó vô hình nhƣng vì thế mà rất nguy hiểm. Xung đột kịch đ ƣợc đẩy lên đỉnh
điểm khi chính chiến hữu của mình, đồng đội của mình lại giết mình. Có hai
cảnh mà những chiến hữu dùng để giết nhau: Một là trao vũ khí cho kẻ sát
nhân (nhƣ tên Vƣơng chủ trong vở kịch Lãng quên tên Êrôstrat đã trao con
dao cho tên tội phạm để nó đâm chết viên pháp quan anh mình); hai là t ƣớc
vũ khí của đồng đội. Cách thứ hai này dã man hơn và cũng nham hiểm hơn.
Khi thấy Hoàng lê - một trinh sát hình sự - phát hiện ra các âm m ƣu của bè lũ
Sáu Quýt, Mỹ Uyên, những kẻ mà trung tá công an Lê Hoàng đã vì tiền và gái
mà trở thành tay sai; Tƣ Hoàng đã tƣớc vũ khí của Hoàng Lê để cho bọn
chúng dễ dàng giết anh một cách vô cùng uất hận. Đây là một lớp hay của vở
kịch, bởi vì, hình tƣợng ngƣời chiến sĩ an ninh đ ƣợc khắc họa trong một
tình
15
huống xung đột không cân sức đến mức dã man - do chính những chiến hữu
của anh tạo nên.
“Bóng đen 1: Mày còn lạ gì chúng tao. Mặt tao đây, mày nhìn rõ chưa,
cái thằng đã có lần mày kề súng vào mang tai, mày không nhớ à?
Hoàng Lê: Tao nhớ rồi, hôm đó mày lạy van tao. Xin tao tha.
Bóng đen 2: (Cƣời đều cáng) Hôm nay người xin tha không phải là
chúng tao. Mà là mày.
Hoàng Lê: Không đời nào (...) (Nhƣ một phản ứng tự nhiên đặt tay vào
hông tìm súng - cả bọn phá lên cƣời).
Bóng đen 1: Mày tìm cái gì vậy con! Súng à? Thằng thầy mày đã tước
mất của mày rồi, mày không nhớ à!...
Chúng xông vào đâm Hoàng Lê cho đến chết.” [50, tr.65]
Ở đây, Hữu Ƣớc đã có sự chuẩn bị chu đáo cho một tình tiết xung đột
căng thẳng. Sự "treo súng" của tác giả là có mục đích - để "súng nổ" ở một
tình huống vừa bất ngờ vừa hợp lý trong tiếp nhận của ng ƣời xem. Cách gây
tạo xung đột ở điểm cao trào nhƣ thế đã phản ánh hiện thức một cách cô đọng
và ấn tƣợng. Ngày nay tính chất khốc liệt và phức tạp của cuộc đấu tranh mà
các chiến sĩ an ninh đang âm thầm dấn thân vào đã ở một bến bờ mới - bến bờ
của bi kịch.
1.2.3. Xung đột giữa cái thiện và cái ác
Hiện thực là sự vận động đa chiều của các phạm trù thẩm mỹ (cái đẹp cái xấu; cái cao cả - cái thấp hèn; cái thiện – cái ác; cái tiến bộ – cái lạc hậu).
Xung đột kịch thƣờng nằm ở thời điểm cao trào của sự vận động ấy. Từ
những mâu thuẫn tồn tại trong lòng hiện thực, các nhà viết kịch bản đã tiến
hành quá trình chọn lọc, tổng hợp, sáng tạo nên những xung đột vừa mang
tính chất khái quát, vừa mang tính điển hình hoá.
- Xem thêm -