Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Khoá luận vi bằng trong pháp luật việt nam...

Tài liệu Khoá luận vi bằng trong pháp luật việt nam

.PDF
84
1
126

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ -------- HUỲNH THỊ TRÀ GIANG VI BẰNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018 TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ -------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT VI BẰNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM SINH VIÊN THỰC HIỆN KHÓA MSSV GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN : HUỲNH THỊ TRÀ GIANG : 39 : 1453801012067 : NGUYỄN THỊ HOÀI TRÂM TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thị Hoài Trâm, giảng viên Khoa Luật Dân sự Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 5 năm 2018 Sinh viên thực hiện Huỳnh Thị Trà Giang MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1 PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................3 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VI BẰNG ......................................................6 1.1 Khái niệm Vi bằng ............................................................................................6 1.2 Đặc điểm của Vi bằng .......................................................................................8 1.3 Phân loại Vi bằng ............................................................................................13 1.4 Ý nghĩa của Vi bằng .......................................................................................32 1.5 Sơ lƣợc lịch sử hình thành Vi bằng ................................................................36 CHƢƠNG 2: PHẠM VI, THẨM QUYỀN LẬP VI BẰNG ....................................39 2.1 Quy định pháp luật Việt Nam .........................................................................39 2.2 Những bất cập trong quy định pháp luật.........................................................42 2.3 Kiến nghị hoàn thiện .......................................................................................44 CHƢƠNG 3: TRÌNH TỰ, THỦ TỤC LẬP VI BẰNG ............................................48 3.1 Quy định pháp luật Việt Nam .........................................................................48 3.2 Những bất cập trong quy định pháp luật.........................................................54 3.3 Kiến nghị hoàn thiện .......................................................................................60 CHƢƠNG 4: GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VI BẰNG .................................................66 4.1 Quy định pháp luật Việt Nam .........................................................................66 4.2 Những bất cập trong quy định pháp luật và vấn đề thực tiễn .........................68 4.3 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đề xuất hƣớng giải quyết vấn đề thực tiễn ...............................................................................................................................74 KẾT LUẬN ...............................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................77 LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, vấn đề xã hội hóa nhằm tăng cƣờng hiệu quả hoạt động tƣ pháp đang đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm. Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 khẳng định việc sẽ áp dụng thí điểm chế định Thừa phát lại, đó là: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nƣớc để tạo điều kiện cho các đƣơng sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình…từng bƣớc thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải cơ quan nhà nƣớc thực hiện một số công việc thi hành án”; “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại; trƣớc mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phƣơng, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bƣớc đi tiếp theo”. Theo chủ trƣơng ấy, ngày 19/02/2009, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 224/QĐ – TTg phê duyệt Đề án: “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh” và sau đó là Nghị định số 61/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh ra đời ngày 24 tháng 7 năm 2009. Đây là chế định mới mẻ, nhận đƣợc nhiều sự kì vọng, quan tâm của Nhà nƣớc, các cấp chính quyền và nhân dân. Chế định Thừa phát lại ra đời thực sự đáp ứng đƣợc mong mỏi của Đảng về thực hiện cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta: Thừa phát lại là loại hình dịch vụ hoạt động từ nguồn thu từ xã hội mà không phải ngân sách nhà nƣớc; chất lƣợng xét xử, tranh tụng nâng cao một phần nhờ vào hoạt động lập Vi bằng của Thừa phát lại... cùng với các hoạt động bổ trợ tƣ pháp nhƣ công chứng, giám định tƣ pháp, bán đấu giá tài sản chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh đã đem lại diện mạo mới sôi động của việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực pháp luật, tƣ pháp, tạo môi trƣờng pháp lý thuận lợi để xã hội chủ động, tích cực cùng với Nhà nƣớc hỗ trợ ngƣời dân tiếp cận tƣ pháp bình đẳng, an toàn. Bên cạnh đó, việc ra đời chế định Thừa phát lại giúp đầy đủ hơn các thiết chế pháp luật để đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Cùng với sự ra đời của chế định Thừa phát lại, Vi bằng – một trong những đặc thù của nghề Thừa phát lại đƣợc làm cũng chính thức đƣợc ghi nhận trong pháp luật nƣớc ta, trở thành trợ thủ đắc lực cho ngƣời dân trong hoạt động dân sự và cơ quan công quyền trong hoạt động tƣ pháp. 1 Xuất phát từ tình hình nêu trên, hào hứng với sự mới mẻ và ý nghĩa của chế định Thừa phát lại, đặc biệt là Vi bằng đã thôi thúc tác giả chọn đề tài “Vi bằng trong pháp luật Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp cho mình. Trong quá trình thực hiện khóa luận, em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hoài Trâm đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Tuy nhiên do kinh nghiệm còn hạn chế, nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi đƣợc những sai sót nhất định. Em rất mong đƣợc sự chỉ bảo của các thầy cô trong bộ môn Tố tụng Dân sự, Khoa Luật Dân sự. Em xin chân thành cảm ơn! 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tình hình nghiên cứu Hiện nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về Thừa phát lại nhƣng 90% có nội dung về chế định Thừa phát lại nhƣ: đề cập sự cần thiết cho ra đời chế định Thừa phát lại, thực tiễn thí điểm, những vƣớng mắc và hạn chế… có rất ít bài viết phân tích sâu về Vi bằng – lĩnh vực quan trọng trong chế định Thừa phát lại, hoặc nếu có chỉ nêu một vài khía cạnh của vấn đề mà chƣa nghiên cứu toàn diện, chƣa đề ra các giải pháp khắc phục hạn chế hiệu quả. Hơn nữa những bài viết trên hầu hết ra đời trƣớc và trong thời gian Nghị Định 61/2009/NĐ – CP ngày 24 tháng 7 năm 2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi là NĐ 61/2009/NĐ – CP) có hiệu lực, nhƣng hiện nay chế định Thừa phát lại đang đƣợc điều chỉnh bởi Nghị Định 135/2013 ngày 18 tháng 10 năm 2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi là NĐ 135/2013/NĐ – CP). Các công trình nghiên cứu đã có về Thừa phát lại cũng nhƣ Vi bằng có thể kể đến nhƣ: - Nguyễn Đức Chính (2006), Tổ chức Thừa phát lại, Nhà xuất bản Tƣ pháp; (1) - Vũ Hoài Nam (2013), Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay; (2) - Nguyễn Thị Quỳnh Nga (2011), Hoạt động lập Vi bằng của Thừa phát lại, Khóa luận tốt nghiệp; (3) - Võ Thị Trang (2011), Trách nhiệm của Thừa phát lại, Khóa luận tốt nghiệp; (4) - Nguyễn Thị Ngọc Thảo (2011), Chức năng của Thừa phát lại lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp; (5) - … 3 Công trình (1), (2) nội dung chủ yếu nói về Thừa phát lại: các giai đoạn lịch sử của chế định Thừa phát lại, nội dung của chế định, ý nghĩa của chế định, chế định Thừa phát lại ở các nƣớc trên thế giới,… Nội dung về Vi bằng rất ít, chỉ đề cập đây là một trong những công việc mà Thừa phát lại đƣợc làm mà chƣa đƣa ra hệ thống định nghĩa, các đặc điểm của Vi bằng, công trình (2) dù ra đời khi đã có các văn bản quy phạm pháp luật về Vi bằng chƣa phân tích quy định pháp luật hiện hành về Vi bằng ra sao. Công trình (4), (5) đề cập sâu hơn về một khía cạnh của chế định Thừa phát lại nên không có nhiều dung lƣợng dành cho Vi bằng. Riêng công trình (3) là nghiên cứu về Vi bằng, tuy nhiên công trình này chƣa nêu đƣợc hết các bất cập trong quy định pháp luật, chƣa liên hệ thực tiễn và chƣa đƣa ra hệ thống các giải pháp thực sự hiệu quả; bên cạnh đó, đây là công trình nghiên cứu thời điểm NĐ 135/2013/NĐ – CP chƣa ra đời. Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả khác đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Những công trình trên là nguồn tài liệu quý báu để tác giả tham khảo và thực hiện khóa luận này. Tuy chƣa thực sự đầy đủ nhƣng đây là nền tảng vững chắc để tác giả tiếp tục nghiên cứu vấn đề toàn diện hơn. 2. Mục đích của khóa luận Làm rõ các vấn đề pháp lý về Vi bằng, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành, thực tiễn áp dụng và nêu ra bất cấp. Từ đó đề xuất các giải pháp thiết thực giải quyết vấn đề còn tồn động để hoàn thiện chế định Thừa phát lại ở Việt Nam hơn, đƣa chế định đến gần hơn với ngƣời dân. Bên cạnh đó, cung cấp một cách tổng quan các kiến thức về Vi bằng, là nguồn tƣ liệu tham khảo cho các thế hệ sinh viên quan tâm đến vấn đề này. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: Các quy định pháp luật Việt Nam trƣớc đây và hiện nay về chế định Thừa phát lại nói chung và Vi bằng nói riêng. Quy định pháp luật nƣớc ngoài về vấn đề trên. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về Vi bằng, những vấn đề khác phát sinh trên thực tiễn. 4 Phạm vi nghiên cứu: Do đề tài là “Vi bằng trong pháp luật Việt Nam” phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở các quy định pháp luật Việt Nam. Có mở rộng phạm vi nghiên cứu các quy định pháp luật nƣớc ngoài để tạo sự so sánh, minh họa thêm cho nội dung bài viết. 4. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, thu thập tài liệu từ nhiều nguồn thông tin đi đến phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu. Phƣơng pháp luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật; quan điểm của Đảng về nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chủ trƣơng xã hội hóa một số hoạt động tƣ pháp của nhà nƣớc ta. Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: Phƣơng pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, phân tích các quy phạm pháp luật, thống kê. 5. Ý nghĩa khoa học Làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về Vi bằng. Góp phần hoàn thiện các quy phạm pháp luật về Vi bằng. Giải quyết các bất cập còn tồn động. Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động lập Vi bằng của Thừa phát lại, từ đó bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi của ngƣời dân. 6. Kết cấu của khóa luận Chƣơng 1: Lý luận chung về Vi bằng Chƣơng 2: Phạm vi, thẩm quyền Vi bằng Chƣơng 3: Trình tự, thủ tục lập Vi bằng Chƣơng 4: Giá trị pháp lý của Vi bằng. 5 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VI BẰNG 1.1 Khái niệm Vi bằng Trong thủ tục tố tụng hiện hành, Tòa án thiếu những yếu tố đảm bảo cho chất lƣợng xét xử. Một trong các yếu tố đó là hệ thống chứng cứ chƣa đầy đủ. Việc lập chứng cứ theo yêu cầu công dân không có những thủ tục đảm bảo sự chính xác, độ tin cậy cần thiết. Nguồn cung cấp chứng cứ của Tòa án và các cơ quan giải quyết những tranh chấp dân sự, kinh tế, tài chính… hiện nay chủ yếu dựa vào lời khai của các bên, dựa vào những giấy tờ, văn kiện do các cơ quan chức năng cung cấp, mà nhiều trƣờng hợp là không đầy đủ, không tuân theo một trình tự hình thức, thủ tục pháp lý thống nhất. Do vậy tính xác thực, tính trung thực của chứng cứ không đồng đều, không có sự đảm bảo chắc chắn. Ví dụ có những tờ di tặng do đƣơng sự lập ra, ký tên, nhƣng hơn hai tháng sau Ủy ban nhân dân xã lại xác nhận. Hoặc có những văn kiện do một ngƣời lập, ngƣời khác viết hộ, nhƣng không ký tên và không có nhân chứng… Khi xảy ra tranh chấp liên quan những sự kiện trong những loại giấy tờ nhƣ vậy, mỗi cấp có thẩm quyền giải quyết theo mỗi cách, không nhất quán. Một xác suất không có độ an toàn cao nhƣ vậy là đáng lo ngại1. Theo pháp luật tố tụng dân sự, khi có quyền lợi bị xâm phạm, các bên có quyền khởi kiện để đƣợc bảo vệ và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Trƣờng hợp đƣơng sự có nghĩa vụ đƣa ra chứng cứ để chứng minh mà không đƣa ra đƣợc chứng cứ hoặc không đƣa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập đƣợc có trong hồ sơ vụ việc2. Trong lĩnh vực dân sự, xét về nguồn gốc chứng cứ thì có chứng cứ do cơ quan nhà nƣớc lập hoặc chứng cứ do đƣơng sự lập nhƣng đƣợc cơ quan nhà nƣớc xác nhận (tạm gọi là công chứng thƣ); và loại chứng cứ do đƣơng sự tự tạo ra (tạm gọi là tƣ chứng thƣ). Loại công chứng thƣ có giá trị pháp lý cao hơn vì đƣợc mặc nhiên thừa nhận, chỉ có thể bị bác bỏ nếu có kết luận từ cơ quan có thẩm quyền là giả mạo sau quá trình điều tra đúng trình tự, thủ tục. Tƣ chứng thƣ do đƣơng sự tự tạo để bảo vệ quyền lợi cho chính mình nên có thể bị cho là không 1 Nguyễn Đức Chính (2014), Thừa phát lại “ông” là ai?, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề Thừa phát lại, Nxb Tƣ pháp, tr17, 18. 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. 6 khách quan, không tin cậy, đó là chƣa kể đến trình tự thủ tục để có đƣợc loại chứng cứ này. Có một loại văn bản chỉ do Thừa phát lại lập, là một trong những loại công chứng thƣ, đóng vai trò là nguồn chứng cứ rất quan trọng. Có nhiều quan điểm xoay quanh vấn đề tên gọi của văn bản này. Quan điểm thứ nhất cho rằng nên sử dụng tên gọi “Vi bằng”. Thuật ngữ này đã đƣợc sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp lý về dân sự, tố tụng dân sự ở miền Nam trƣớc năm 1975. Theo đó, nội hàm của thuật ngữ “Vi bằng” là biên bản do Thừa phát lại lập nhằm ghi nhận các sự kiện, hành vi xảy ra trong xã hội theo yêu cầu của đƣơng sự và có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi xét xử. Ngoài ra, tên gọi “Vi bằng” vừa ngắn gọn vừa dễ nhớ. Quan điểm thứ hai ủng hộ việc dùng tên gọi “công chứng thƣ”. Thuật ngữ này thể hiện giá trị chứng cứ của một văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý. Quan điểm thứ ba cho rằng nên sử dụng thuật ngữ “biên bản ghi nhận sự kiện pháp lý”. Mặc dù tên gọi này dài nhƣng dễ hiểu, thể hiện đƣợc ý nghĩa, mục đích của văn bản. Đây là một trong những yếu tố góp phần đƣa pháp luật đi vào cuộc sống một cách dễ dàng để ngƣời dân tuân thủ, thực hiện3. Theo khoản 2 Điều 2 NĐ 61/2009/NĐ – CP đƣợc sửa đổi theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP thì: “Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác”. Trên đây là những quan niệm khác nhau về tên gọi Vi bằng. Riêng tác giả tán thành tên gọi Vi bằng theo nhƣ quy định pháp luật hiện hành. Do đây là tên gọi đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử, đƣợc sử dụng phổ biến trong đời sống ngƣời dân lúc bấy giờ; tên gọi Vi bằng vừa ngắn gọn lại vừa dễ nhớ; phù hợp với nội hàm của thuật ngữ này; đƣợc sử dụng ở hầu hết các quốc gia áp dụng mô hình Thừa phát lại. Trong khi đó thuật ngữ “công chứng thư” không thể hiện đƣợc tính chất “tƣ” trong hoạt động lập Vi bằng – loại hình dịch vụ pháp lý lập theo yêu cầu của ngƣời dân, không phải do một cơ quan nhà nƣớc thực hiện. Mặt khác, thuật ngữ này còn gây 3 Võ Trung Hậu (2017), Đăng ký Vi bằng tại Sở Tư pháp – một trong những thủ tục lập Vi bằng của Thừa phát lại, Tạp chí Nghề luật số 3/2017, tr.77. 7 khó hiểu, nhầm lẫn với văn bản công chứng của những cơ quan có chức năng công chứng hoặc những loại văn bản khác cũng đƣợc xem là công chứng thƣ. Đối với tên gọi “biên bản ghi nhận sự kiện pháp lý” thì dài nhƣng cũng chƣa bảo đảm thể hiện rõ đƣợc hết tính chất của văn bản này. Tính khoa học của tên gọi này không cao vì trong cuộc sống hằng ngày xảy ra rất nhiều sự kiện pháp lý4 và theo đó có rất nhiều loại văn bản ghi nhận lại, không riêng gì Vi bằng. Quyết định, bản án của tòa án; hợp đồng; di chúc; giấy đăng ký kết hôn cũng có thể đƣợc coi là biên bản ghi nhận sự kiện pháp lý. Nhƣ vậy, tên gọi này chƣa nêu đƣợc bản chất của văn bản, gây nhầm lẫn khi sử dụng. Tóm lại, Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi đƣợc dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác. Qua định nghĩa về Vi bằng nêu trên, có thể hiểu Vi bằng là một văn bản (có thể đính kèm hình ảnh, video, âm thanh) thì nội dung của văn bản phải bao gồm những sự kiện, hành vi đƣợc ghi nhận một cách chi tiết, rõ ràng. Những sự kiện, hành vi này phải có thật và đƣợc Thừa phát lại tận mắt chứng kiến, ghi nhận một cách khách quan, trung thực. 1.2 Đặc điểm của Vi bằng Thứ nhất, Vi bằng là văn bản được lập bởi Thừa phát lại. Theo Khoản 1 Điều 2 Nghị định 61/2009/NĐ - CP đƣợc sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 135/2013/NĐ – CP: “Thừa phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan”. Thừa phát lại là ngƣời đƣợc nhà nƣớc trao quyền, nhân danh nhà nƣớc để thực hiện những công việc nhất định. Theo Điều 3 NĐ 61/2009/ NĐ – CP, những công việc Thừa phát lại đƣợc nhà nƣớc trao quyền làm là: thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc Cơ quan thi hành án dân sự; lập Vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đƣơng 4 Sự kiện pháp lý là những tình huống, hiện tƣợng, quá trình xảy ra trong đời sống có liên quan tới sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật nhất định. 8 sự; trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định5 của Tòa án theo yêu cầu của đƣơng sự. Ở Pháp, Nhà nƣớc chuyển giao cho Thừa phát lại trọng trách thi hành các bản án, quyết định về dân sự và thƣơng mại của nhiều Tòa án khác nhau, trừ việc thu nợ thuế - thuộc thẩm quyền của công chức khác. Ở Pháp không tồn tại cơ quan Thi hành án dân sự, Thừa phát lại là cơ quan thi hành án độc quyền ở đất nƣớc này. Thừa phát lại ở Pháp cũng thực hiện công việc tống đạt văn bản tƣ pháp hoặc giấy tờ pháp lý thông thƣờng. Bên trên là hai hoạt động đặc thù mà chỉ có Thừa phát lại đƣợc phép tiến hành. Ngoài ra Thừa phát lại còn thực hiện các hoạt động không chuyên biệt nhƣ: soạn thảo văn bản (văn bản ký tự nhƣ hợp đồng thuê nhà ở, hợp đồng thuê trụ sở kinh doanh hoặc biên bản Vi bằng); thu hồi nợ theo thỏa thuận hoặc bằng thƣ từ; đại diện cho khách hàng trƣớc tòa; tiến hành thủ tục buộc trả tiền; lập Vi bằng. Nhƣ vậy, các công việc mà Thừa phát lại đƣợc làm ở Pháp phong phú hơn ở Việt Nam, nếu nhƣ ở Việt Nam chức năng lập Vi bằng chuyên biệt của Thừa phát lại thì ở Pháp chức năng này chỉ là chức năng phụ trợ nhằm đảm bảo cân đối tài chính trong quá trình hoạt động của văn phòng Thừa phát lại6. Công việc của Thừa phát lại khá phong phú ở các nƣớc khác trên thế giới, nhƣ ở Mỹ, Thừa phát lại là ngƣời giám sát an ninh trật tự tại phòng xử án, hỗ trợ cho các Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn, tiến hành các công việc thu giữ, bán tài sản; ở Hồng Kông – Trung Quốc, Thừa phát lại có quyền bắt giữ tàu thuyền theo thủ tục Admiralty; ở Anh, Thừa phát lại có thể truy đuổi và bắt giữ ngƣời. Theo quy định tại Điều 10 Nghị định 61/2009/NĐ – CP thì để làm Thừa phát lại, cá nhân cần có các tiêu chuẩn nhƣ là công dân Việt Nam, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt; không có tiền án; có bằng cử nhân luật; đã công tác trong ngành pháp luật trên 05 năm hoặc đã từng là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sƣ; Chấp hành viên, Công chứng viên, Điều tra viên từ Trung cấp trở lên; có chứng chỉ hoàn thành lớp tập huấn về nghề Thừa phát lại do Bộ Tƣ pháp tổ chức; không kiêm nhiệm hành nghề Công chứng, Luật sƣ và những công việc khác theo quy định của pháp luật. Ngƣời có thẩm quyền bổ nhiệm Thừa phát lại là Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp, 5 Trừ các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trƣởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án. 6 Nguyễn Thị Hảo (2014), Giới thiệu về nghề Thừa phát lại ở Cộng hòa Pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Chế định Thừa phát lại, Nxb Tƣ pháp, tr. 131, 132, 133. 9 trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Sở Tƣ pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng nơi thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại. Tiêu chuẩn để bổ nhiệm Thừa phát lại ở nƣớc ta khá tiệm cận với tiêu chuẩn của các nƣớc trên thế giới. Tại Pháp, để trở thành Thừa phát lại, học viên phải tham gia kỳ thi theo đuổi nghề nghiệp mở cho các ứng viên từ 25 đến 45 tuổi, những ngƣời có bằng cử nhân luật hoặc trình độ tƣơng đƣơng. Các ứng viên phải vƣợt qua kỳ thi thành công sau khi đƣợc đào tạo 2 năm, trƣớc khi bắt đầu hành nghề phải qua khóa tập sự 6 tháng tại các tòa án và các văn phòng Thừa phát lại để vƣợt qua kỳ kiểm tra tập sự7. Ở Bungrary, để có thể đƣợc bổ nhiệm làm Thừa phát lại cần đáp ứng các yêu cầu nhƣ: Có trình độ đào tạo về pháp lý; có năng lực pháp lý theo Luật về hệ thống tƣ pháp; có 03 năm hành nghề luật; không phạt tù vì phạm tội, bất kể đã đƣợc xóa án hay chƣa; không bị thu hồi giấy phép hành nghề Thừa phát lại; không bị cấm hành nghề hoặc kinh doanh; không bị phá sản; đã thi đỗ vào Thừa phát lại8. Ở Mỹ, yêu cầu để trở thành Thừa phát lại ở mỗi bang khác nhau, nhƣng đều chung một số yêu cầu sau: ít nhất phải 21 tuổi; phải là công dân Hoa Kỳ; đáp ứng các yêu cầu giáo dục tùy mỗi bang; có kinh nghiệm thực thi pháp luật; theo một Thừa phát lại tập sự hành nghề; có tinh thần, thể chất phù hợp; vƣợt qua bài kiểm tra sát hạch9. Tuy nhiên Thừa phát lại ở một số quốc gia không do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp bổ nhiệm mà do Chánh án hoặc Thẩm phán bổ nhiệm nhƣ ở Úc, ở Anh, ở Hungary. Thừa phát lại không phải là cán bộ, công chức, viên chức nhà nƣớc, nên không có biên chế và không đƣợc hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc, Thừa phát lại đƣợc hƣởng thù lao từ nguồn chi phí thực hiện công việc của Thừa phát lại do bên thuê dịch vụ chi trả, tự cân đối về tài chính. Khác với công chức tƣ pháp, Thừa phát lại thực hiện một số công việc theo yêu cầu của khách hàng hoặc theo đề nghị của Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự trong phạm vi trách nhiệm đƣợc pháp luật 7 Hà Thị Lan Anh (2012), Thừa phát lại: vai trò pháp lý và nhu cầu đào tạo phát triển, Tạp chí Nghề luật số 4/2012, tr.14. 8 Dƣơng Văn Hậu, Luật về Thừa phát lại của Bungary, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Thừa phát lại, Nxb Tƣ pháp, 2014, tr. 138. 9 Vũ Hoài Nam (2013), Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam, Nxb Tƣ pháp, tr.35. 10 quy định. Hoạt động của Thừa phát lại cũng không theo chế độ công vụ, thời gian và địa điểm hành nghề linh hoạt10. Thứ hai, Vi bằng chứa đựng nội dung thể hiện sự ghi nhận, mô tả, phản ánh khách quan, trung thực, sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến và không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong sự kiện, hành vi được ghi nhận, phản ánh, mô tả trong nội dung Vi bằng. Vi bằng là một đoạn ghi âm, ghi hình bằng chữ viết, nó phản ánh hết những diễn biến, sự kiện, hành vi đã xảy ra mà Thừa phát lại chứng kiến một cách chân thực và khách quan. Thừa phát lại không đƣợc mô tả những gì họ không nhìn thấy, không đƣa ý kiến chủ quan của mình vào Vi bằng, Vi bằng chỉ ghi nhận những hành vi, sự kiện đang diễn ra mà không ghi nhận những hành vi, sự kiện qua lời kể của một ngƣời khác. Những hành vi, sự kiện đƣợc nêu trong Vi bằng phải là những thứ có thật, đang diễn ra trƣớc mắt Thừa phát lại. Thừa phát lại chỉ là ngƣời chứng kiến những hành vi, sự kiện nêu trong Vi bằng, ở đây Thừa phát lại nhƣ là một ngƣời làm chứng. Lí giải một cách dễ hiểu thì việc có hay không “ngƣời làm chứng đặc biệt” này thì sự kiện ấy vẫn sẽ diễn ra một cách khách quan nên việc có Thừa phát lại lập Vi bằng không làm phát sinh thêm bất kì quyền và nghĩa vụ nào của hai bên. Để làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên thì đó phải là một thỏa thuận, trong khi đó theo định nghĩa của Vi bằng thì đây là văn bản có nội dung là ghi nhận sự kiện, hành vi mà không có nội dung thỏa thuận nào giữa các bên. Bên cạnh đó, việc một công chứng thƣ can thiệp vào nội dung thỏa thuận, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên là đặc trƣng của văn bản Công chứng. Vi bằng và văn bản Công chứng là hai loại công chứng thƣ khác nhau, vì vậy Vi bằng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong sự kiện, hành vi đƣợc ghi nhận, phản ánh, mô tả trong nội dung nhƣ văn bản Công chứng. Việc lập Vi bằng của Thừa phát lại khác hoàn toàn với việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch của công chứng viên. Công việc của công chứng viên là 10 Xuất phát yêu cầu thực tế của công việc mà đặc biệt là việc lập Vi bằng, ví dụ đối với Vi bằng ghi nhận hành vi giao tiền thì có thể làm việc ngay tại văn phòng nhƣng đối với Vi bằng ghi nhận hiện trạng công trình xây dựng thì địa điểm làm việc là nơi có công trình xây dựng cần ghi nhận, bên ngoài văn phòng. Làm việc không phụ thuộc vào giờ hành chính cũng xuất phát từ yêu cầu thực tế công việc, Thừa phát lại chọn thời điểm ngoài giờ hành chính để tống đạt văn bản vì đây là thời điểm đƣơng sự thƣờng có mặt ở nhà, đều này tạo thuận lợi cho công tác tống đạt. 11 xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch, văn bản công chứng có giá trị thi hành đối với các bên liên quan; còn công việc của Thừa phát lại là mô tả lại những gì Thừa phát lại chứng kiến, tức là xác nhận một sự việc có thật, và Vi bằng của Thừa phát lại đảm bảo một nội dung duy nhất: tính khách quan của sự việc mà Thừa phát lại chứng kiến. Thứ ba, Vi bằng là văn bản theo mẫu, việc lập Vi bằng phải tuân theo quy định pháp luật về hình thức, nội dung, Thừa phát lại phải trực tiếp ký tên vào Vi bằng mà không được ủy quyền cho người khác ký thay. Dù các sự kiện, hành vi cần lập Vi bằng rất phong phú nhƣng khi đƣa chúng vào Vi bằng lại cần tuân theo mẫu nhất định. Vì đây là văn bản làm chứng cứ, nguồn chứng cứ tại tòa, vì vậy phải có hình thức, nội dung thống nhất để đảm bảo tính chuẩn mực, “chuyên nghiệp” nhất định, tránh thiếu sót, qua loa, sơ sài. Quy định mẫu Vi bằng còn tạo sự đồng bộ, giúp dễ dàng trong công tác kiểm tra, lƣu trữ. Bên cạnh đó tránh sự lúng túng cho Thừa phát lại trong việc soạn thảo Vi bằng. Chữ ký của Thừa phát lại bên dƣới Vi bằng là một sự yêu cầu hợp lý, bởi trong trƣờng hợp này Thừa phát lại giữ vai trò nhƣ là một ngƣời làm chứng, việc ký tên tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho lời cam đoan về sự khách quan, trung thực của Thừa phát lại. Ngoài Thừa phát lại thì những ngƣời chứng kiến khác (nếu có) không đủ hiểu biết chuyên môn để làm chứng và chịu trách nhiệm cho hành vi, sự kiện pháp lý diễn ra, vì vậy Thừa phát lại không đƣợc ủy quyền ngƣời khác ký thay mình. Trƣờng hợp có từ hai Thừa phát lại trở lên chứng kiến hành vi, sự kiện thì cũng chỉ duy nhất một ngƣời ký tên vào Vi bằng, để khi có vấn đề xảy ra, đòi hỏi có Thừa phát lại đứng ra giải trình trƣớc tòa cũng nhƣ chịu các trách nhiệm pháp lý (nếu có) mà không đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau. Thứ tư, Vi bằng có thể được xem là chứng cứ và có giá trị chứng minh khi đáp ứng đầy đủ các quy định pháp luật về trình tự thủ tục lập Vi bằng. Theo quy định của các quốc gia có chế định Thừa phát lại thì Vi bằng là loại công chứng thƣ, không thể bị bác bỏ bằng một chứng thƣ khác mà chỉ có thể bị phủ nhận sau khi đƣợc điều tra theo đúng thủ tục và có kết luận của cơ quan có thẩm 12 quyền là công chứng thƣ đó giả mạo11. Chính giá trị cũng nhƣ là độ tin cậy cao của công chứng thƣ – Vi bằng mà trình tự thủ tục lập ra nó đƣợc pháp luật quy định cụ thể, chỉ khi đáp ứng đầy đủ các quy định pháp luật về trình tự thủ tục lập Vi bằng thì Vi bằng ấy có thể đƣợc xem là chứng cứ. Trình tự, thủ tục cần thiết phải trải qua có thể kể đến nhƣ: Bƣớc 1, tiếp nhận yêu cầu lập Vi bằng, tại đây, khách hàng cung cấp thông tin về sự kiện, hành vi muốn lập Vi bằng. Thừa phát lại là quyết định có hay không việc lập Vi bằng và tiến tới thỏa thuận lập Vi bằng. Bƣớc 2, tiến hành lập Vi bằng, Vi bằng có thể đƣợc lập tại Văn phòng Thừa phát lại hoặc tại nơi mà khách hàng yêu cầu. Bƣớc 3, thanh lý Vi bằng, ở giai đoạn này, khách hàng sẽ ký tên vào biên bản thanh lý thỏa thuận lập Vi bằng và sổ bàn giao Vi bằng trƣớc khi nhận bản chính Vi bằng. 1.3 Phân loại Vi bằng Các hành vi, sự kiện cần lập Vi bằng trong thực tế là khá rộng , tuy nhiên dựa vào nội dung hành vi, sự kiện đƣợc lập Vi bằng, có thể phân loại một số loại Vi bằng cơ bản nhƣ sau12:  Nhóm Vi bằng ghi nhận một sự kiện. o Vi bằng ghi nhận việc giao nhận tiền, giao nhận giấy tờ trong các giao dịch dân sự: Theo quy định của pháp luật thì một số giao dịch dân sự bắt buộc phải công chứng mới có hiệu lực (hợp đồng mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất…). Nhƣng công chứng chỉ xác nhận nội dung hợp đồng là hợp pháp còn việc thực hiện nghĩa vụ (cụ thể là nghĩa vụ giao nhận tiền) thì công chứng viên không có trách nhiệm chứng nhận. Những hợp đồng ký tại văn phòng công chứng thƣờng ghi rõ “việc giao nhận tiền các bên tự thực hiện và chịu trách nhiệm” nên không ít tranh chấp phát sinh từ nghĩa vụ thanh toán. Hoặc trƣờng hợp cho vay tiền giữa những cá 11 Nhà pháp luật Việt – Pháp (1997), Tài liệu tham khảo về Thừa phát lại và Thi hành án, Hà Nội, tr. 27. Cách phân loại và tên gọi các nhóm Vi bằng chỉ mang tính chất tƣơng đối 12 13 nhân, giao dịch tặng cho có điều kiện bằng lòng tin họ không ký hợp đồng vay nên nhiều trƣờng hợp xảy ra tranh chấp khi một bên không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhƣng không có gì chứng minh đã có giao dịch dân sự này. Trƣớc đây nhiều ngƣời tìm đến dịch vụ thanh toán qua ngân hàng để có bằng chứng, nay họ đã có thêm sự lựa chọn. Việc lập Vi bằng ghi nhận quá trình giao nhận tiền, giấy tờ giữa các bên cũng đồng thời là căn cứ cụ thể phân định những lỗi vi phạm về thời hạn trả tiền, thời hạn giao nhà, các giấy tờ khác…Vi bằng ghi nhận việc giao tiền, giấy tờ tạo cơ sở pháp lý để các bên tuân thủ và thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng đã ký kết. Trƣờng hợp có tranh chấp xảy ra, Vi bằng có thể đƣợc xem là chứng cứ chứng minh cho việc giao nhận tiền, giấy tờ đã đƣợc thực hiện nhằm bảo vệ lợi ích cho bên bị vi phạm. Ví dụ Vi bằng số 1037/2017/VB-TPLQ.1013: “ Vào hồi 14 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 11 năm 2017, tại Văn phòng Thừa phát lại X, Chúng tôi gồm: Ông: N.V.T Chức vụ: Thừa phát lại Với sự tham gia của: Ngƣời yêu cầu lập Vi bằng: Bà: N.T.T.V Sinh năm :1967 CMND số: 022482xxx Nơi cấp: C .TP.HCM Thƣờng trú tại: 10xx/25 Trần Xuận Soạn, Khu phố 3, phƣờng Tân Hƣng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngƣời tham gia khác: Ông: L.Q.T Sinh năm :1967 CMND số: 023272xxx Nơi cấp: C .TP.HCM Thƣờng trú tại: 10xx/25 Trần Xuận Soạn, Khu phố 3, phƣờng Tân Hƣng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. 13 Đây là Vi bằng có thật trên thực tế, thông tin cá nhân của những cá nhân, tổ chức liên quan đã đƣợc tác giả ẩn đi; những nội dung không tiêu biểu cho nội dung cần minh họa này nhƣ: quốc hiệu, tiêu ngữ, số Vi bằng, chữ ký các bên,… đã đƣợc tác giả lƣợc giản. 14 Tiến hành lập Vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi sau đây: Ghi nhận hành vi giao nhận tiền giữa các ông T.Q.B, N.Q.H. Nội dung của sự kiện, hành vi lập Vi bằng: Theo yêu cầu của bà N.T.T.V, Thừa phát lại đã chứng kiến sự kiện các ông (bà) T.Q.B, N.Q.H tổ chức cuộc họp. Vào thời gian và địa điểm nói trên, trƣớc sự chứng kiến của Thừa phát lại, các ông (bà) T.Q.B, N.Q.H đã tổ chức cuộc họp. Nội dung cuộc họp theo “Biên bản họp lập ngày 13/11/2017”. Sau đó, ông T.Q.B có giao cho ông N.Q.H số tiền 370.000.000 đồng, ông N.Q.H xác nhận đã tự kiểm đếm và nhận đủ số tiền. Thừa phát lại cam kết ghi nhận trung thực, khách quan sự kiện, hành vi nêu trên trong Vi bằng này.” o Vi bằng ghi nhận thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng: Phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng, hoặc ghi nhận thỏa thuận của vợ chồng khi ly hôn (để thuộc trƣờng hợp thuận tình ly hôn khi ra tòa). Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành cho phép các cặp vợ chồng đƣợc quyền chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân14. Tuy nhiên nếu vì một lí do nào đó mà trong thỏa thuận có tài sản là bất động sản chƣa đƣợc đăng ký quyền sử dụng mang tên của vợ chồng thì không thể công chứng bản thỏa thuận này đƣợc nhƣ vậy thỏa thuận này chƣa có giá trị. Do đó, nếu muốn hạn chế và tránh đƣợc phần nào hạn chế rủi ro xảy ra, thì Vi bằng là giải pháp. Mặc dù Vi bằng ghi nhận việc phân chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không có giá trị thay thế văn bản công chứng, chứng thực nhƣng đây đƣợc xem là chứng cứ trƣớc Tòa và các quan hệ pháp lý khác, dùng để chứng minh việc các bên đã thực hiện phân chia tài sản làm cơ sở 14 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: 1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trƣờng hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận đƣợc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. 2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này đƣợc công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. 15 để các bên tiếp tục thực hiện thỏa thuận, hoàn thiện thỏa thuận theo quy định của pháp luật, hoặc là cơ sở để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Có trƣờng hợp vợ chồng muốn thủ tục giải quyết ly hôn tại tòa nhanh chóng, tiết kiệm nên tự thỏa thuận phân chia tài sản, thỏa thuận cấp dƣỡng và nuôi con khi ly hôn để rơi vào trƣờng hợp “thuận tình ly hôn”15 khi ra tòa. Lúc này, các thỏa thuận sẽ không đƣợc đƣa vào bản án – không có cơ sở cƣỡng chế thi hành. Vì vậy, các cặp vợ chồng nhờ Thừa phát lại lập Vi bằng để ghi nhận sự thỏa thuận này của mình, đây đƣợc xem là bằng chứng khi có tranh chấp xảy ra, buộc các bên thực hiện đúng nhƣ đã thỏa thuận. o Vi bằng xác nhận việc tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của công ty cổ phần: Cuộc họp Đại hội đồng cổ đồng là cuộc họp quan trọng trong hoạt động của công ty, nơi quyết định các vấn đề lớn nhƣ16: thông qua định hƣớng phát triển của công ty; quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại đƣợc quyền chào bán; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên; quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; thông qua báo cáo tài chính hằng năm; quyết định tổ chức lại, giải thể công ty;… Điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông đƣợc quy định tại Điều 141 Luật doanh nghiệp 2014 nhƣ sau: Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông đƣợc tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết; Trƣờng hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành theo quy định thì đƣợc triệu tập họp lần thứ hai trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ nhất, Cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông triệu tập lần thứ hai đƣợc tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 33% tổng số phiếu biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. Điều 144 quy định về điều kiện để nghị quyết đƣợc thông qua: Nghị quyết về nội dung quan trọng đƣợc thông qua nếu đƣợc số cổ đông đại diện ít 15 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Thuận tình ly hôn Trong trƣờng hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận đƣợc hoặc có thỏa thuận nhƣng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn. 16 Khoản 2 Điều 135 Luật Doanh nghiệp năm 2014. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan