Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Khoá luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra...

Tài liệu Khoá luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra

.PDF
68
1
88

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ MAI XUÂN KHÓA: 42 MSSV: 1753801011238 GVHD: ThS. LÊ HÀ HUY PHÁT TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ MAI XUÂN KHÓA: 42 MSSV: 1753801011238 GVHD: ThS. LÊ HÀ HUY PHÁT TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Hà Huy Phát, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả (Ký tên) Nguyễn Thị Mai Xuân DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BTTH Bồi thường thiệt hại BLHS Bộ luật Hình sự BLLĐ Bộ luật Lao động MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................6 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA ...........6 1.1 Khái niệm, bản chất..................................................................................... 6 1.1.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ................6 1.1.2 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra ...............................................................................................................18 1.1.3 Các trường hợp không phải bồi thường thiệt ngoại do người của pháp nhân gây ra .........................................................................................................23 1.2 Đặc điểm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do ngƣời của pháp nhân gây ra..................................................................................................................... 28 1.2.1 Do con người gây ra, cụ thể là người của pháp nhân ..........................28 1.2.2 Căn cứ phát sinh ...................................................................................28 1.3 Nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại ............................................................... 36 1.3.1 Bồi thường toàn bộ và kịp thời .............................................................36 1.3.2 Cho phép giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc lỗi vô ý và thiệt hại lớn hơn so với khả năng kinh tế của mình ...................................................38 1.3.3 Thay đổi mức bồi thường khi không còn phù hợp ................................39 1.3.4 Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra ....................................................39 1.3.5 Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình .....................................................................................41 1.4 Chủ thể có trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại .......................................... 42 Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................45 CHƢƠNG 2: NHỮNG BẤT CẬP CỦA QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .......46 2.1 Xác định “ngƣời của pháp nhân” ........................................................... 46 2.2 Chủ thể bồi thƣờng khi ngƣời pháp nhân A nhƣng lại đang cho pháp nhân B mƣợn làm việc cho pháp nhân B........................................................... 50 2.3 Giảm mức hoàn trả cho ngƣời của pháp nhân ....................................... 54 Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................59 KẾT LUẬN ..............................................................................................................60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................61 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự. Đây là một chế định lớn và tồn tại lâu đời. Chế định này ra đời nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm của các cá nhân, tổ chức; đảm bảo ổn định trật tự xã hội. Hiện nay, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định cụ thể, chi tiết trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và ngày càng hoàn thiện. Theo đó, chế định này gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con người gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Những loại trách nhiệm này rất phổ biến trong cuộc sống. Việc phân tích, khai thác chi tiết chế định này sẽ góp phần chi tiết hóa các quy định của pháp luật cũng như tìm ra những lỗ hổng của pháp luật đang hiện hữu khi áp dụng vào thực tiễn. Chính vì sự phổ biến và phức tạp của nó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định khá cụ thể trong BLDS năm 2015. Những quy định này giúp người dân có thể tiếp cận và hiểu rõ tình huống mình đang gặp phải trên thực tế cũng như cách giải quyết, bồi thường như thế nào. Tuy nhiên không phải quy định pháp luật nào cũng giải quyết triệt để các vấn đề mà quan hệ xã hội đang phát sinh, thậm chí có những quy định pháp luật không rõ ràng, quy định nước đôi hoặc không dự trù hết tình huống xảy ra khiến cơ quan hành pháp bế tắc trong việc thực thi. Điều này xảy ra hầu hết trong tất cả các bộ luật, các văn bản quy phạm pháp luật đi kèm và cũng không ngoại trừ Bộ luật Dân sự năm 2015. Một trong những chế định quan trọng trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – một chế định rất rộng và phổ biến trong cuộc sống. Chính vì vậy, thông qua việc nghiên cứu và tìm hiểu sâu về các vấn đề liên quan, sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật; giúp cho các văn bản pháp luật hoàn thành đúng nhiệm vụ của nó “điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh”. Việc nghiên cứu và đưa ra những kiến nghị về việc khắc phục một phần bất cập còn mang lại ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Ngoài việc hoàn thiện pháp luật như trình bày ở trên, nó còn tạo ra sự đa chiều trong quan điểm và những góc nhìn mới, là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo trong học tập, giảng dạy và nghiên cứu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp, công ty được thành lập ngày càng nhiều với mô hình sản xuất, kinh doanh đa dạng và phong phú. Theo đó, những vấn đề phát sinh trong quá trình vận hành ngày càng phức tạp. Một trong những vấn đề hiện nay không những làm cho các nhà làm luật mà cả những người đứng đầu doanh nghiệp phải suy nghĩ phương án giải quyết đó chính là chế định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra”. Ngoài việc xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có tình huống pháp lý xảy ra, 1 mức bồi thường,… ảnh hưởng lớn đến người gây thiệt hại cũng như pháp nhân quản lý của người đó. Hiện nay, BLDS năm 2015 có quy định về chế định nêu trên. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật cho thấy có nhiều điểm bất cập dẫn đến sự lúng túng, không thống nhất giữa các Tòa án cũng như các cấp xét xử. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn chế định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra” làm đề tài khóa luận cho mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra là vấn đề đã được nhiều tác giả nghiên cứu, thể hiện thông qua các bài viết đăng trên các tạp chí, sách chuyên khảo, khóa luận tốt nghiệp và luận văn thạc sĩ, có thể kể đến như sau: 2.1 Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo Giáo trình “Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của Trường Đại học luật TPHCM. Trong giáo trình này, nêu chi tiết và rõ ràng hai chế định lớn “Hợp đồng” và “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Theo đó, giáo trình cũng đề cập một trong những chế định nhỏ “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại đồng của pháp nhân gây ra” tại Điều 597 BLDS năm 2015. Tuy nhiên, tài liệu dừng lại ở việc phân tích các quy định pháp luật hiện hành, chưa phân tích rõ ràng và cụ thể cũng như mở rộng vấn đề trong chế định này. Sách chuyên khảo “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự (năm 2015) và những tình huống thực tế” của tác giả Trương Hồng Quang. Sách chuyên khảo “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của tác giả Phùng Trung Tập. Hai tác giả phân tích chi tiết vào các căn cứ pháp sinh, đặc điểm, các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như các chế định nhỏ (bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, bồi thường thiệt hại do con người gây ra,…) và các tình huống thực tế. Tác giả đi vào phân tích các quy định pháp luật hiện hành, có sự so sánh với BLDS năm 2005 và các tình huống xảy ra, có sự bình luận, đưa ra những bất cập. Tuy nhiên, do phần phạm vi phân tích rất rộng (toàn bộ chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng) nên hai tác giả vẫn chưa khai thác triệt để các khía cạnh liên quan đến “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra”. Sách chuyên khảo “Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án” của tác giả Đỗ Văn Đại – tài liệu phân tích sâu và kĩ các vấn đề liên quan đến chế định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra. Tác giả phân tích các quy định pháp luật, bình luận các bản án và có sự so sánh với pháp luật nước ngoài. Theo đó, cuốn sách nêu rõ các bất cập trên thực tế và hướng hoàn thiện cụ thể. 2.2 Nhóm các khóa luận, luận văn 2 Hiện nay, có khá nhiều khóa luận, luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Hầu hết các khóa luận, luận văn xoay quanh một trong những khía cạnh nhỏ của chế định như khóa luận tốt nghiệp “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - lý luận, thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật” của tác giả Phạm Thị Thu Thùy; luận văn thạc sỹ học “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005” của tác giả Lê Hà Huy Phát,… Tuy nhiên, đây là những chế định nhỏ thuộc chế định “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” chứ chưa phân tích các vấn đề liên quan đến “Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra”. 2.3 Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí Bài viết “Lỗi căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 02(57)/2010. Bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người thi hành công vụ gây ra theo quy định của pháp luật dân sự” của tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải (2019) đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân dân tối cao. Bài viết “Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của tác Ngô Thu Trang (2019) đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân dân tối cao. Có thể thấy hiện nay các sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu trên chủ yếu phân tích trên cơ sở lý luận mà chưa đi sâu vào nghiên cứu thực tiễn, một số vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa có kết luận cụ thể. Hơn nữa, khi bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước và thế giới có nhiều thay đổi thì vấn đề “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra” cần được nhìn nhận, phân tích và đánh giá ở những góc độ khía cạnh phù hợp hơn. Vậy nên, việc tiếp tục nghiên cứu đề tài này là cần thiết. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu sâu hơn về chế định, đồng thời đưa ra những bất cập và kiến nghị hoàn thiện 3.1. Làm rõ được khái niệm, bản chất của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra nói riêng. Theo đó, bài nghiên cứu sẽ chia tách các khái niệm, chế định liên quan để làm rõ vấn đề từ khái quát đến cụ thể. 3.2. Phân tích, nghiên cứu về đặc điểm, căn cứ phát sinh, hậu quả… trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra theo quy định BLDS năm 2015. 3 3.3. Đưa ra các bất cập khi áp dụng các quy định pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Căn cứ vào thực tiễn áp dụng, những quyết định, bản án đã có, những quan điểm, lý luận chung,… bài nghiên cứu tìm ra những điểm hạn chế đang tồn tại cũng như dự trù những tình huống có thể xảy ra để hoàn thiện những quy định của pháp luật. 3.4. Đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật: Thông qua việc chỉ ra những bất cập, bài nghiên cứu sẽ nêu ra những định hướng, những giải pháp để khắc phục và hoàn thiện pháp luật. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra theo quy định của BLDS năm 2015 là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong bài nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu các vấn đề xoay quanh Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra, cụ thể khái niệm, căn cứ phát sinh, chủ thể có trách nhiệm bồi thường, nguyên tắc bồi thường, các trường hợp không phải bồi thường, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật, những bất cập trên thực tế, nguyên nhân dẫn tới các bất cập và kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật. 5. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau: 5.1 Các quy định của BLDS năm 2015 về trách nhiệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra nói riêng. 5.2 Thực tiễn áp dụng và bất cập xảy ra trên thực tế. 5.3 Kiến nghị hoàn thiện những quy định của BLDS năm 2015 liên quan đến chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để làm sáng tỏ các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật, bài nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 6.1 Phương pháp liệt kê: Phương pháp này sử dụng tại chương 1. Bằng việc chia tách, liệt kê các khái niệm, thuật ngữ pháp lý để đi sâu hơn vào các chế định pháp luật đang nghiên cứu. 6.2 Phương pháp so sánh: Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh trong quá trình đưa ra các quan điểm khác nhau về một khái niệm, thuật ngữ pháp lý của các tác giá. Bằng việc so sánh giữa các quan điểm đó, tác giả rút ra, đúc kết một khái niệm chung nhất, đầy đủ nhất. Ngoài ra, tác giả còn so sánh những 4 quy định của pháp luật Việt Nam về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra với các quy định của pháp luật nước ngoài. Theo đó, tác giả phân tích được nét tương đồng và khác biệt; xem xét những bất cập của pháp luật Việt Nam thông qua sự so sánh. Từ đó học hỏi kinh nghiệm và đưa ra hướng hoàn thiện phù hợp với pháp luật hiện hành. Tác giả so sánh BLDS 2005 và BLDS 2015 xem xét các điểm mới cũng như ưu và nhược điểm của từng BLDS ở từng giai đoạn khác nhau. Hiểu được tinh thần và sự thay đổi của pháp luật cũng như hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước. Từ đó, tác giả đề xuất hướng hoàn thiện phù hợp. 6.3 Phương pháp bình luận, phân tích: Đây là phương pháp quan trọng và tác giả sử dụng hầu hết trong bài nghiên cứu. Sử dụng việc bình luận, phân tích các khái niệm, các quy định của pháp luật nhằm làm rõ, chi tiết hóa chế định đang nghiên cứu. Hơn nữa việc phân tích và bình luận các bản án trên thực tế sẽ góp phần giúp tác giả có thể hiểu kĩ, hiểu sâu hơn cũng như thấy được những bất cập của quy định pháp luật đang hiện hữu. Bình luận, phân tích các quan điểm của các tác giả khác và pháp luật nước ngoài, làm tài liệu tham khảo cho các đề xuất, hoàn thiện quy định pháp luật. 6.4 Phương pháp tổng hợp: sau khi tiến hành phân tích, bình luận, chia nhỏ vấn đề bài nghiên cứu sẽ tiến hành tổng hợp của mỗi tiểu mục để tiện theo dõi và khái quát hóa vấn đề. Từ cơ sở tổng hợp ý và đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật. 7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng trên thực tế 7.1 Việc nghiên cứu đưa ra cái nhìn toàn diện, đa chiều và sâu sắc về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra. Ngoài việc làm rõ, phân tích các khái niệm, quy định của pháp luật còn đưa ra những dẫn chứng thực tế cuộc sống cũng như các kiến nghị hoàn thiện. 7.2 Cung cấp tài liệu tham khảo trong quá trình học tập, giảng dạy và nghiên cứu. Từ việc đưa ra góc nhìn, quan điểm cá nhân sẽ làm đa dạng hóa hệ thống quan điểm, là hướng gợi ý cho các bài nghiên cứu sau phát triển hơn. 7.3 Đưa ra các kiến nghị, giải pháp, hướng hoàn thiện BLDS 2015, điều chỉnh phù hợp, áp dụng hiệu quả trên thực tế. 8. Bố cục tổng quát của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra Chương 2: Những bất cập về của quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra trong Bộ luật dân sự 2015 và kiến nghị hoàn thiện pháp luật 5 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA 1.1 Khái niệm, bản chất 1.1.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Về phương diện lý luận pháp luật, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu là phải gánh chịu những hậu quả bất lợi1. Trong thực tiễn, chúng ta chỉ nhắc đến từ “trách nhiệm” khi ta có nghĩa vụ, bắt buộc phải thực hiện một điều gì đó và gánh chịu những hậu quả phía sau hành vi, lời nói của mình hoặc của người khác. Công việc đó có thể là lời hứa, là thỏa thuận lời nói và lớn hơn là bằng hình thức bằng văn bản. Và phần “trách nhiệm” có thể có hoặc không được quy ước. Tùy thuộc vào tình huống, điều kiện cụ thể cũng như những quy định của pháp luật mà giới hạn trách nhiệm cũng như chủ thể gánh chịu có sự khác nhau. “Trách nhiệm” có thể được hiểu “sự nghiêm khắc với bản thân” đối với thỏa thuận hay thậm chí không có thỏa thuận nhưng nó phát sinh từ lời nói, hành vi của mình. Khi làm bất cứ việc gì, cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng về mọi thứ và dự trù cả hậu quả có thể xảy ra dù muốn dù không; dù bất lợi đến đâu. Chúng ta bắt gặp thuật ngữ “trách nhiệm” rất nhiều, đặc biệt trong lĩnh vực pháp lý. Và cách hiểu của thuật ngữ này chưa được thống nhất trên thực tế. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, tình huống khác nhau mà cách hiểu của “trách nhiệm” không giống nhau. “Nghĩa thứ nhất được hiểu là nghĩa vụ và nghĩa thứ hai là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt). Trách nhiệm được hiểu theo nghĩa nghĩa vụ là nói đến những điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và trong tương lai”2. Mặc dù vậy nhưng cách hiểu phổ biến nhất hiện nay thì “trách nhiệm là nguy cơ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì những việc đã làm. Đó là những phản ứng của Nhà nước đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội”3. Khi trách nhiệm được hiểu dưới góc độ pháp lý sẽ mang tên gọi là trách nhiệm pháp lý. Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật chỉ ra rằng, trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi mà chủ thể pháp luật phải gánh chịu do pháp luật quy định vì hành vi vi phạm pháp luật của mình (hoặc của người mà mình bảo lãnh hoặc giám hộ). Khác với các loại hình trách nhiệm khác, trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với sự cưỡng chế nhà nước, với việc áp dụng chế tài do pháp luật quy định. 1 Trường Đại học Luật TPHCM (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.374. 2 Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.473. 3 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (2), tr.473. 6 Dựa trên cách phân loại phổ biến hiện nay, trách nhiệm pháp lý bao gồm các loại sau: một là trách nhiệm hình sự: loại trách nhiệm nghiêm khắc nhất do toà án áp dụng đối với người phạm tội; hai là trách nhiệm dân sự: loại trách nhiệm pháp lý do toà án áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật dân sự; ba là trách nhiệm pháp lý hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan nhà nước áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật hành chính; bốn là trách nhiệm pháp lý kỉ luật là loại trách nhiệm do thủ trưởng cơ quan, tổ chức áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, công nhân của cơ quan, tổ chức mình khi họ vi phạm kỉ luật lao động. Theo đó, trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm nghĩa vụ dân sự phải gánh chịu. Trong bất kì một thời điểm ở bất kì xã hội nào thì việc xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, gây thiệt hại cho các chủ thể khác là rất phổ biến và ngày càng có nhiều tình tiết phức tạp và cách để đưa lại sự công bằng đó chính là áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Đó là trách nhiệm và là hậu quả pháp lý mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại phải chịu. Một hành vi có thể phải gánh chịu nhiều loại trách nhiệm pháp lý khác nhau, tùy thuộc vào mức độ, tính chất, mối quan hệ xã hội bị xâm phạm. Ví dụ: A cố ý gây thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 20%. Như vậy, ngoài việc chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; thì A còn phải chịu trách nhiệm dân sự, cụ thể là trách nhiệm bồi thường thiệt do hành vi của mình gây ra. Ta có thể thấy được, pháp luật sẽ là khuôn mẫu cho việc áp dụng “trách nhiệm” khi loại trách nhiệm đó là “trách nhiệm pháp lý”. Và đối với giới hạn nghiên cứu, là trách nhiệm bồi thương thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự. Sẽ phát sinh khi có quan hệ xã hội xâm phạm tới các quy định của ngành luật dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vỉ gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Có thể thấy trách nhiệm là mang tính “đương nhiên”. Người gây thiệt hại phải bồi thường. Cuộc sống thường nhật đang diễn ra nhưng có ai đó bước vào làm xáo trộn sự bình thường đó, gây thiệt hại vật chất lẫn tinh thần thì phải có trách nhiệm bồi thường và đưa chúng về sự vẹn nguyên ban đầu. Tất nhiên, luật pháp không quá tuyệt đối hóa giá trị bồi thường. Vì có những thứ bị thiệt hại, chủ thể gây ra có thể bồi thường nguyên vẹn. Nhưng có những thứ lại không thể để nó vẹn nguyên và trả lại như cũ. Hiến pháp 2013 khẳng định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội 7 được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”4 và “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”5. Theo đó, công dân được bảo hộ về sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm,... Bất kì chủ thể nào xâm phạm đến những giá trị được pháp luật bảo vệ thì phải gánh chịu hậu quả tương ứng theo quy định của pháp luật, đây là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo nghĩa khách quan là một chế định của Luật Dân sự. Trong chế định BTTH còn có hai tiểu chế định là BTTH do vi phạm hợp đồng và BTTH ngoài hợp đồng. Bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại suy cho cùng cũng để bù đắp lại những thiệt hại đã xảy ra cho bên bị thiệt hại chứ không hẳn là một chế tài đơn thuần6. Theo quan điểm của TS. Nguyễn Minh Oanh – giảng viên khoa pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra”7. Mỗi cá nhân sống trong xã hội đều phải tôn trọng các quy tắc xử sự chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội, lợi ích của Nhà nước, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định trách nhiệm BTTH với tư cách là một chế định độc lập nhằm khôi phục lợi ích bị xâm phạm và bù đắp những thiệt hại xảy ra cho người bị thiệt hại. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm BTTH thường được phân thành trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Như vậy, có thể nói, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một dạng phổ biến của trách nhiệm BTTH. Đối với BTTH ngoài hợp đồng, hiện nay BLDS năm 2015 không đưa ra khái niệm cụ thể và thống nhất về vấn đề này. Theo tác giả Đỗ Chinh: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm 4 Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp 2013 Khoản 1, Điều 20 Hiến pháp 2013 6 Lê Hà Huy Phát (2015), Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra theo quy định của bộ luật dân sự 2005, Luận văn Thạc sĩ Luật học, khoa Luật Dân sự – Trường Đại học Luật TP.HCM, tr.26. 7 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người thi hành công vụ gây ra theo quy định của pháp luật dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân dân tối cao. 5 8 nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra”8. Quan điểm khác lại cho rằng: “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự của bên có lỗi (cố ý hoặc vô ý) gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, thân thể, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác. Trong đó, bên vi phạm và gây thiệt hại có nghĩa vụ bù đắp toàn bộ thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu”9. Khác với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng có căn cứ phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào đó có hành vi vi phạm nghĩa vụ ngoài hợp đồng do pháp luật quy định, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải BTTH do mình gây ra.10 Đối với mức bồi thường hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bên trong hợp đồng đã được ấn định từ trước. Theo đó, nếu các bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì bên vi phạm phải tuân thủ mức bồi thường đã thỏa thuận. Mặc dù, BLDS năm 2015 tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên nhưng sự thỏa thuận này phải tôn trọng các nguyên tắc cơ bản BLDS năm 2015 và các quy định của pháp luật chuyên ngành khác11. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác nhau cơ bản ở “hợp đồng”. Một bên có hợp đồng và một bên không. Cuộc sống rất đa dạng, các tình huống xảy ra chúng ta không thể lường trước được. Đối với những quan hệ pháp luật có hợp đồng làm kim chỉ nam thì hai bên an tâm trong vấn đề bồi thường, quy kết trách nhiệm. Tuy nhiên pháp luật đã đặt ra một giả định khác, đó là một bên xâm phạm đến lợi 8 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người thi hành công vụ gây ra theo quy định của pháp luật dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân dân tối cao. 9 Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người thi hành công vụ gây ra theo quy định của pháp luật dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân dân tối cao. 10 Phạm Thị Hương (2014), Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.13. 11 Xem Điều 3 BLDS năm 2015 “Điều 3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự 1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản. 2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. 3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. 4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. 5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”. 9 ích của đối phương nhưng giữa hai bên không tồn tại hợp đồng hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng hai bên chưa dự liệu tình huống xảy ra. Điều đó sẽ gây khó khăn trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mức bồi thường vì giữa các bên không có hợp đồng để định hướng, quy định vấn đề đó. Để nhanh chóng xử lý những tình huống trên, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ra đời. Nó đã giải quyết không ít những trường hợp nêu trên. Theo đó, nhà nước là chủ thể đưa ra nguyên tắc bồi thường thiệt hại, quy kết trách nhiệm cho chủ thể cụ thể,… tất cả mọi khía cạnh liên quan đến chế định ngoài hợp đồng. Đối với những quan hệ BTTH ngoài hợp đồng thì việc xác định trách nhiệm sẽ khá phức tạp. Theo đó, khi trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh, cơ quan nhà nước phải tiến hành nhiều bước kiểm tra, thẩm định để đưa ra mức bồi thường thiệt hại tương ứng với thiệt hại xảy ra trên thực tế và làm sao cho mức bồi thường hợp tình, hợp lý, khách quan, công bằng với cả hai bên. Tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hình thành giữa các chủ thể bất kì mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không xuất phát từ thực hiện hợp đồng12. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng gồm các loại trách nhiệm như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra; trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra; trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra,… Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tồn tại một số đặc điểm như sau: Thứ nhất, sau khi bên có trách nhiệm bồi thường thiệt hại thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại thì đương nhiên chấm dứt quan hệ nghĩa vụ giữa hai bên và không phụ thuộc vào sự thỏa thuận. Vốn dĩ, khi áp dụng chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, điều đó có thể hiểu là giữa các bên không tồn tại hợp đồng hoặc hợp đồng không thể điều chỉnh trường hợp đang xảy ra trên thực tế nên phải áp dụng các quy định của pháp luật. Mục đích cuối cùng mà trong quan hệ bồi thường thiệt hại là người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm và người bị thiệt hại nhận được mức bồi thường “xứng đáng” so với thiệt hại xảy ra trên thực tế. Một khi các bên đã không có hợp đồng để ấn định việc bồi thường theo đúng thỏa thuận hoặc không thể sử dụng hợp đồng làm kim chỉ nam giải quyết vấn đề thì bắt buộc phải tuân thủ các chế định của pháp luật. Có thể nói, quan hệ pháp luật dân sự là quan hệ pháp luật đề cao tính tự do thỏa thuận giữa các bên nhất – đó cũng là 12 Trường Đại học Luật TPHCM, tlđd (1), tr.374 – tr.375. 10 một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định cụ thể, rõ ràng tại BLDS năm 2015. Tuy nhiên, sự thỏa thuận tự do đó chỉ được pháp luật công nhận khi không đi ngược với chuẩn mực xã hội, đạo đức, không mâu thuẫn với các quy định pháp luật… hay còn gọi là “tự do trong khuôn khổ” pháp luật. Chính vì vậy, khi hai bên thỏa thuận hợp pháp các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì pháp luật hoàn toàn cho phép họ thi hành, áp dụng. Trường hợp thỏa thuận đó trái với quy định pháp luật hoặc không thỏa thuận được thì họ mới sử dụng tới quy định pháp luật. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai bên, thuận tình vừa ý thì họ mới giao kết. Tại đó, họ thấy được sự công bằng về quyền và nghĩa vụ. Và đôi khi những quy định của pháp luật có thể không cho họ điều đấy. Khi một bên vi phạm nghĩa vụ, đương nhiên chế tài đã thỏa thuận từ trước sẽ được áp dụng. Đặt trường hợp họ chưa thỏa thuận hoặc thỏa thuận rồi nhưng không hợp pháp thì thỏa thuận đó coi như không thể giải quyết mâu thuẫn hiện tại và bắt buộc sử dụng lại pháp luật. Và một khi sử dụng các chế định về bồi thường thiệt lại được pháp luật quy định thì đương nhiên không được sử dụng những thỏa thuận trong hợp đồng. Khi pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đã có sự cân nhắc rất kĩ về tính hợp tình, hợp lý và công bằng cho cả hai bên nếu các bên áp dụng. Nếu bên vi phạm phải bồi thường hai mức bồi thường: cả trong thỏa thuận và theo quy định của pháp luật ở cùng một chế tài thì chưa thật sự thỏa đáng. Chính vì vậy, một khi bên vi phạm đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại thì đương nhiên họ chấm dứt quan hệ nghĩa vụ. Lúc này, bên vi phạm đã phải hứng chịu hậu quả tương ứng cho hành vi của mình và bên bị thiệt hại cũng đã được “hoàn trả xứng đáng” do hành vi của đối phương gây ra. Thứ hai, người gây thiệt hại có thể bồi thường cả thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần xảy ra trên thực tế. Nếu xét theo cách phân loại phổ biến thì có bốn loại thiệt hại: thiệt hại về thể chất, thiệt hại vật chất, thiệt hại về tinh thần; thiệt hại tính mạng. Trong đó: Thiệt hại thể chất là thiệt hại liên quan đến sức khỏe, được đo tính bằng % thương tật trên cơ thể. Sức khỏe của con người khó có thể xác định bằng một khoản tiền. Vì vậy, bồi thường thiệt hại về sức khỏe thực chất có ý nghĩa đền bù một phần thiệt hại, tạo điều kiện cho nạn nhân hay gia đình họ khắc phục khó khăn do tai nạn gây nên và trong có ý nghĩa là một trợ cấp cho nạn nhân, gia đình nạn nhân. Xác định thiệt hại về sức khỏe bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại (tiền thuốc, tiền viện phí và các dịch vụ chữa bệnh, tiền bồi dưỡng, tiền tàu xe đi viện, tiền thay thế các bộ phận giả nếu có). Nếu do yêu cầu chăm sóc nạn nhân thì chi phí trực tiếp cho người phải chăm sóc nạn nhân theo yêu cầu của cơ sở chữa bệnh; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng 11 mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; và các thiệt hại khác do luật quy định, cụ thể: thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và sau khi điều trị. Những thu nhập này phải là những thu nhập thường xuyên, hợp pháp thực tế của họ; Tổn thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu. Đây là khái niệm trừu tượng và không thể tính được thành tiền một cách chính xác. Việc xác định tổn thất tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm phụ thuộc vào từng cá nhân của người bị thiệt hại (tình trạng gia đình, độ tuổi, nghề nghiệp, mức độ thiệt hại và tùy thuộc vào bộ phận nào của cơ thể bị thiệt hại,…)13. Về mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần pháp luật cho phép các bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe xâm phạm không quá 50 lần mức tháng lương cơ sở do nhà nước quy định. Thiệt hại vật chất hay còn gọi thiệt hại tài sản: Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thiệt hại do tài sản bị xâm hại được bồi thường bao gồm tài sản:“bị mất, bị huỷ hoại hoặc hư hỏng”, “lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút”, “chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại”. Như vậy, thiệt hại về tài sản bao gồm thiệt hại trực tiếp nhằm phục hồi tình trạng tài sản ban đầu của người bị thiệt hại và thiệt hại gián tiếp liên quan đến việc khai thác và sử dụng tài sản trong thời gian từ khi xảy ra thiệt hại đến khi bồi thường. Thiệt hại về tài sản có thể tính toán được thành một số tiền nhất định bao gồm các khoản sau14: Thiệt hại trực tiếp bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị mất (có tính đến tình trạng tài sản, thời giá thị trường tại thời điểm tài sản bị mất); Tài sản bị huỷ hoại là những tài sản không thể phục hồi chức năng ban đầu; tài sản bị hư hỏng là những chi phí hợp lý, cần thiết để phục hồi tài sản, bảo đảm tính năng sử dụng ban đầu như trước khi bị thiệt hại; Những chi phí phải bỏ ra bao gồm chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại hoặc khắc phục thiệt hại. Thiệt hại gián tiếp bao gồm: Lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản (không thể khai thác tài sản trong suốt thời gian sửa chữa, khắc phục thiệt hại); những hoa lợi, lợi tức chắc chắn thu được nếu không có thiệt hại xảy ra và những chi phí cần thiết để hạn chế thiệt hại. 13 14 Xem thêm Điều 590 BLDS năm 2015 Xem thêm Điều 589 BLDS năm 2015 12 BLDS năm 2015 cũng bổ sung thêm quy định về “thiệt hại khác do luật định”. Quy định này cũng hợp lý, bởi vì khi tài sản xâm phạm có thể chủ thể sẽ mất đi những lợi ích mà lẽ ra họ được hưởng. Ví dụ: con trâu đang mang thai tới tháng thứ 9 thì bị ô tô lao tới và đâm chết. nếu theo quy định của BLDS năm 2005 thì “con nghé sắp được sinh” sẽ không tính đến giá trị của nó. Nhưng theo quy định BLDS năm 2015 thì giá trị của con nghé có thể được xác định là những thiệt hại khác do pháp luật quy định15. Thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là loại thiệt hại không thể xác định cụ thể. Xét về mặt bản chất của loại thiệt hại này là việc xác định những tổn thất về vật chất do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm... nhằm phục hồi tình trạng ban đầu của người bị xâm hại16. Trong khi thiệt hại vật chất là yếu tố khách quan có thể dễ dàng nhận biết và đo lường thì thiệt hại về tinh thần lại thiên về mặt chủ quan, trừu tượng, rất khó xác định và quy đổi thành giá trị kinh tế. Ngoài quy định tại BLDS năm 2015 thì Nghị quyết số 03/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngày 08 tháng 7 năm 2006 hướng dẫn Tòa án cần xem xét đến các tình tiết cụ thể chẳng hạn như mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm, mức độ giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm, thời gian chịu đựng tổn thất, mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm17. Những chi phí đó bao gồm: chi phí phải bỏ ra và thu nhập bị mất (thu nhập chứng cứ, thời gian phải bỏ ra để khiếu nại, đăng báo cải chính...); người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị xâm phạm phải gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá 10 lần mức tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định. 15 Trương Hồng Quang (2018), Trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng trong bộ luật dân sự năm 2015 và những tình huống thực tế, NXB Chính trị Quốc gia (Hà Nội), tr.48 – tr 49. 16 Xem Điều 592 BLDS năm 2015 “Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm 1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm: a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; c) Thiệt hại khác do luật quy định. 2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”. 17 Ngô Thu Trang (2019), “Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân dân tối cao. 13 Tính mạng của con người là vô giá không thể tính thành tiền. Vì vậy, bồi thường thiệt hại về tính mạng thực chất là bồi thường vật chất phải bỏ ra liên quan đến cái chết của người bị thiệt hại18. Những chi phí phải bỏ ra bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc nạn nhân trước khi chết, chi phí hợp lý cho việc mai táng phù hợp với phong tục, tập quán; Tiền cấp dưỡng cho những người mà người chết có nghĩa vụ phải cấp dưỡng (con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động...); Một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá 100 lần mức tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định. Theo đó, ta có thể thấy một hành vi gây thiệt hại của chủ thể có thể xâm phạm, gây thiệt hại đến nhiều khía cạnh khác nhau. Và trên nguyên tắc bồi thường toàn bộ, thì chủ thể gây thiệt hại phải bồi thường tất cả các thiệt hại xảy ra trên thực tế một cách tương ứng, phù hợp với quy định của pháp luật. Thứ ba, các căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (xét trong trường hợp thiệt hại do người gây ra). Đây là đặc điểm dễ nhận biết nhất. Nếu một tình huống xảy ra trên thực tế và thỏa mãn các căn cứ phát sinh dưới đây thì sẽ áp dụng chế định này. Một là, có thiệt hại xảy ra trên thực tế. BLDS năm 2015 không tồn tại định nghĩa về thiệt hại. Trong khoa học pháp lý, có ý kiến cho rằng “thiệt hại” được hiểu là sự thay đổi biến thiên theo chiều xấu đi của tài sản, của các giá trị nhân thân do pháp luật bảo vệ19. Thiệt hại trong trường hợp này có thể là thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần. Đây là điều kiện tiên quyết để pháp sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: có thiệt hại, có bồi thường. Như phân tích ngay từ đầu, sở dĩ chế định này không tồn tại hợp đồng hoặc hợp đồng không thể điều chỉnh chúng nên mới áp dụng các quy định của pháp luật. Nhằm đảm bảo quyền lợi cho chủ thể bị thiệt hại, pháp luật quy định các nguyên tắc bồi thường. Chính vì vậy, chỉ khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế thì mới có thể bồi thường, mới mang lại sự công bằng cho chủ thể bị thiệt hại được, mới khôi phục lại tình trạng ban đầu được. 18 Xem Điều 591 BLDS năm 2015 Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, NXB. Đại học quốc gia, tr.471. 19 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan