Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP TANG MA CỦA NGƯỜI TAY Ở XÃ CHAU SƠN, HUYỆN ĐINH LẬP, TỈNH ...

Tài liệu KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP TANG MA CỦA NGƯỜI TAY Ở XÃ CHAU SƠN, HUYỆN ĐINH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN

.PDF
79
262
82

Mô tả:

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP TANG MA CỦA NGƯỜI TAY Ở XÃ CHAU SƠN, HUYỆN ĐINH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN
Khóa luận tốt nghiệp                                                    Sinh viên: Nông Thị Linh     TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI KHOA VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU SỐ ------------------------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP TANG MA CỦA NGƯỜI TAY Ở XÃ CHAU SƠN, HUYỆN ĐINH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN Giảng viên hướng dẫn : TH.S NGUYỄN THANH VÂN Sinh viờn thực hiện : NÔNG THỊ LINH Lớp : VHDT HÀ NỘI - 2015 0    Khóa luận tốt nghiệp                                                    Sinh viên: Nông Thị Linh     LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài : “Tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn’’, tôi xin tỏ lũng biết ơn: Thạc sỹ Nguyễn Thanh Vân, người đó trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo, đóng góp ý kiến cho tụi trong suốt quỏ trỡnh làm khúa luận tốt nghiệp. Các thầy cô trong khoa Văn Hóa Dân Tộc Thiểu Số trường Đại học Văn hóa Hà Nội đó nhiệt tỡnh giỳp đỡ tôi trong suốt quá trỡnh học và làm khúa luận tốt nghiệp. Nhân đây xin bày tỏ lũng cảm ơn sâu sắc tới các Chú, các Bác, cỏc Anh, cỏc Chị cụng tỏc tại UBND xó, Phũng Văn hóa xó và thụng tin huyện Đỡnh Lập, Trung tõm Văn hóa và thể thao huyện, Thư viện huyện và toàn thể nhân dân đang sinh sống và làm việc trên địa bàn xó đó nhiệt tỡnh giỳp đỡ tôi trong suốt quá trỡnh khảo sỏt và quỏ trỡnh thực địa tại cơ sở. Do khả năng có hạn nên khóa luận viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp cho khóa luận được hoàn thiện hơn Tôi xin chân thành cảm ơn! Sinh viờn thực hiện Nông Thị Linh 1    Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 2 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 2 2. Lịch sử nghiờn cứu....................................................................................... 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 4 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5 6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 5 7. Bố cục của khúa luận .................................................................................... 6 Chương 1 .......................................................................................................... 7 KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI TÀY Ở XÃ CHÂU SƠN.................................... 7 1.2. Khái quát về người Tày ở Châu Sơn..................................................... 10 1.2.1. Lịch sử tộc người ............................................................................ 11 1.2.2. Đặc điểm văn hóa của người Tày ở xó Châu Sơn .......................... 12 Chương 2 ........................................................................................................ 19 TANG MA CỦA NGƯỜI TÀY Ở XÃ CHÂU SƠN .................................. 19 2.1. Quan niệm của người Tày về cái chết................................................... 19 2.2.Tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn trong truyền thống ................. 19 2.2.1. Công tác chuẩn bị cho một đám tang ............................................. 20 2.2.2. Các nghi thức trong tang ma ........................................................... 21 2.3. Cỏc lễ cỳng sau mai tỏng ...................................................................... 34 2.3.1. Lễ mở cửa mả (khay tu mả) ............................................................ 34 2.3.2. Lễ hũi thang (người chết về thăm lại nhà) ...................................... 35 2.3.3. Lễ cỳng 40 ngày, 100 ngày (lễ tốt khốc là thụi khúc) .................. 35 2.3.4. Lễ Oóc khuốp (Cúng giỗ đầy năm), Lễ Oóc tang (Lễ món tang- ba năm) .......................................................................................................... 36 2.4. Cỏc hỡnh thức tang ma khỏc của người Tày ở xó Chõu Sơn ............... 36 2.5. Sự giống và khác nhau trong tang ma giữa người Tày và người Dao ở xó Chõu Sơn. ................................................................................................ 40 Chương 3 ........................................................................................................ 42 GIÁ TRỊ VĂN HÓA VÀ MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI ĐƯỢC BIỂU HIỆN TRONG TANG MA CỦA NGƯỜI TÀY Ở XÃ CHÂU SƠN ....................... 42 3.1. Những giá trị văn hóa............................................................................ 42 3.1.1. Gía trị đạo đức nhân văn ................................................................. 42 3.1.2. Gía trị văn hóa tộc người ................................................................ 43 3.1.3. Gía trị xó hội ................................................................................... 45 3.2. Các quan hệ xó hội ................................................................................ 47 3.2.1. Quan hệ, ứng xử giữa người sống và người chết............................ 47 3.2.2. Quan hệ ứng xử giữa người sống và người sống ............................ 48 3.2.3. Quan hệ giữa con người với thế giới tâm linh (Các thần, các ma…) ................................................................................................................... 50 3.3. Một số biến đổi trong tang ma của người Tày ở Châu Sơn hiện nay ... 51 3.4. Nguyên nhân biến đổi ........................................................................... 54 3.4.1. Tác động từ cỏc chớnh sỏch phỏt triển kinh tế ............................... 54 0   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh 3.4.2. Tác động từ nhận thức của người dân ............................................ 56 3.4.3. Tác động từ sự giao thoa văn hóa ................................................... 57 3.5. Giải phỏp bảo tồn các giá trị văn hóa trong tang ma ở xó Châu Sơn ... 58 KẾT LUẬN .................................................................................................... 62 1   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc bao gồm 54 dân tộc cùng cư trú trên mọi miền đất nước. Mỗi dân tộc có những giá trị văn hóa riêng, phản ánh truyền thống lịch sử lâu đời. Tất cả các dân tộc anh em trong đại gia đỡnh Việt Nam đó gỡn giữ, bồi đắp và phát huy sắc thái văn hóa riêng của mỡnh. Cỏc sắc thỏi đó đó ảnh hưởng lẫn nhau, bổ sung cho nhau tạo nên bức tranh văn hóa Việt Nam đa dạng và phong phú. Tang ma là một trong những nghi lễ quan trọng bậc nhất trong chu kỡ đời người, của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn. Tang ma phản ánh về nhiều khía cạnh của cuộc sống. Nghiên cứu tang lễ, giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ quan, nhân sinh quan, các quy tắc ứng xử giữa con người với con người trong gia đỡnh, cũng như trong cộng đồng xó hội, cộng đồng tộc người,... Ngoài giá trị giáo dục đạo đức, tập quán tang ma cũn mang trong nú nhiều ý nghĩa và giỏ trị to lớn khỏc. Trong đó có các giá trị về bảo tồn văn hóa truyền thống; giá trị về văn học, nghệ thuật; tác dụng cố kết cộng đồng. Chính v́ thế, nên tập quán tang ma luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu trú trọng nghiên cứu về các tộc người nói chung và nghiên cứu dân tộc Tày nói riêng. Mặc dù vậy, cho đến nay tập quán tang ma của cộng đồng người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu đầy đủ. Đó chính là khoảng trống trong nghiên cứu về cộng đồng người Tày ở Châu Sơn, cần được khỏa lấp. Tập quán tang ma của các tộc người nói chung và của người Tày ở xó Chõu Sơn nói riêng, luôn chứa đựng trong nó các giá trị đích thực, song nó cũng ẩn chứa cả những yếu tố lỗi thời và các hủ tục. Bởi vậy, không chỉ có tác động tích cực, mà nó cũng mang đến nhiều tác động tiêu cực, đối với sự phát triển của địa phương. Để phát huy được các tác động tích cực, hạn chế tối đa các yếu tố tiêu cực, của tập quán tang ma đối với sự phát triển chung của 2   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh người Tày ở Châu Sơn không thể không nghiên cứu tường tận về tập quán tang ma của người Tày ở đây. Trong bối cảnh hôi nhập, giao lưu văn hóa mạnh mẽ như hiện nay, văn hóa truyền thống của người Tày nói chung và người Tày ở Châu Sơn nói riêng cũng đang biến đổi theo nhiều xu hướng, trong đó có phong tục tang ma cũng không ngoại lệ. Phong tục tang ma của người Tày nơi đây vừa hội nhập thêm những giá trị văn hóa mới, nhưng đồng thời cũng làm mai một không ít các giá trị văn hóa truyền thống quý bỏu của tộc người. Với cỏc lý do trờn, tụi chọn “Tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân, ngành Văn hóa dân tộc thiểu số. 2. Lịch sử nghiờn cứu Về văn hóa Tày – Nùng ở Việt Nam hiện nay đó cú nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu về cỏc lĩnh vực văn hóa vật thể, và văn hóa phi vật thể đó được công bố, xuất bản, trong đó phải kể đến các công trỡnh sau: - Ló Văn Lô, Hà Văn Thư: Văn hóa Tày Nùng, Nhà xuất bản văn hóa, Hà Nôi, 1984. - Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Phách, Cung Văn Lược, Vương Toàn: Văn hóa truyền thống Tày Nùng, Nhà xuất bản Văn hóa dân tôc, Hà Nội, 1993. - Hoàng Quyết, Tuấn Dũng: Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1994. - Hoàng Tuấn Nam: Việc tang lễ cổ truyền của người Tày, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999. Qua tỡm hiểu chỳng tụi nhận thấy trong cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu xuất bản văn hóa người Tày, trong phần văn hóa phi vật thể, khi tỡm hiểu về nghi lễ chu kỳ đời người, tang ma chỉ được đề cập khái quát, chẳng hạn: Cuốn Văn hóa Tày Nùng của tác giả Ló Văn Lô, Hà Văn Thư dành 4 trang viết về đám tang, trong mục nghi lễ vũng đời người. Trong đó ngoài việc giới thiệu 3   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh trỡnh tự trong một đám tang, phần cũn lại là bài đăng các bài văn than của con cháu, họ hàng, bè bạn khóc người chết, hương ước của bản đó có những quy định ứng xử với tang ma. Viết về tang ma của người Tày ở Lạng Sơn có luận án tiến sỹ của tác giả Vi Thanh Hoài với đề tài Tang lễ của người Tày ở xó Bỡnh La, huyện Bỡnh Gia, tỉnh Lạng Sơn. Trong cụng trỡnh này tỏc giả viết về cỏc quan niệm cỏi chết, cỏc hỡnh thức cỏi chết và quỏ trỡnh tổ chức trỡnh tự của một đám tang từ khi chết cho đến khi kết thúc của người Tày ở xó Bỡnh La, huyện Bỡnh Gia, tỉnh Lạng Sơn. Như vậy, các nghiên cứu về văn hóa Tày trước đó chưa có công trỡnh nào viết về tang ma, cỏc giỏ trị và cỏc mối quan hệ trong tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn, trong truyền thống cũng như biến đổi hiện nay. Tuy nhiên, những nguồn tài liệu quý bỏu trờn cũng là những tư liệu quý báu để chúng tôi tham khảo, so sánh trong quá trỡnh hoàn thành bài khúa luận này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiờn cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là tỡm hiểu về tập quan tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn, truyền thống và biến đổi, cũng như những giá trị và mối quan hệ xó hội được thể hiện trong đó. Từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa mang bản sắc tộc người trong tang ma của người Tày ở Châu Sơn. Để thực hiện mục đích trên, đề tài khóa luận phải thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Khái quát về người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lõp, tỉnh Lạng Sơn. - Nghiên cứu về tập quán trong tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn trong truyền thống cũng như hiện nay. 4   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh - Khái quát những giá trị văn hóa và các quan hệ xó hội được thể hiện trong tang ma truyền thống của người Tày ở Châu Sơn, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người trong tang ma của người Tày nơi đây. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: dân tộc Tày, tang ma và các vấn đề liên quan đến tang ma của người Tày, từ khi trong gia đỡnh có người già yếu, cho đến khi qua đời, trỡnh tự nghi lễ trong một đám tang bỡnh thường hay những trường hợp tang ma đặc biệt ở xó Chõu Sơn. - Phạm vi nghiờn cứu + Phạm vi thời gian: Khóa luận đi tỡm hiểu và nghiờn cứu về cỏc quan niệm và cỏch ứng xử với người chết do tuổi cao, có đầy đủ con cháu bố mẹ đó qua đời và tang ma của những trường hợp khác, như chết trẻ, chết do tai nạn, chết chưa lập gia đỡnh, chết trước bố mẹ...trong truyền thống cũng như hiện nay. + Phạm vi không gian: đia bàn nghiên cứu tại xó Châu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn. 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành khóa luận này chúng tôi sử dụng 2 phương pháp chủ yếu sau: sưu tầm tài liệu (điền dó dõn tộc học trong đó việc quan sỏt, ghi chộp, là quan trọng nhất: sưu tầm tư liệu đó cụng bố, xuất bản...) và phõn tớch tài liệu, tổng hợp, viết bỏo cỏo. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài bước đầu tập hợp, hệ thống hóa tư liệu về nghi lễ trong một đám tang truyền thống của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn. Đồng thời làm rừ, nổi bật những giỏ trị văn hóa của đám tang trong đời sống tinh thần của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn. 5   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh Từ những kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần định hướng trong việc bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa tiêu biểu của tộc người Tày ở Châu Sơn được thể hiện trong tang ma, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. 7. Bố cục của khúa luận Chương 1: Khái quát về người Tày ở xó Chõu Sơn Chương 2: Tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn Chương 3: Gía trị văn hóa và các quan hệ xó hội thể hiện trong tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn 6   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI TÀY Ở XÃ CHÂU SƠN 1.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội ở xã Châu Sơn Châu Sơn là một xó miền nỳi nằm ở phớa Đông Nam của huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn, cỏch trung tõm huyện 15km, chạy dọc theo Quốc lộ số 4B. Phía Đông giáp xó Hà Lõu, huyện Tiờn Yờn, tỉnh Quảng Ninh Phớa Tõy giỏp xó Đồng Thắng và xó Cường Lợi, huyện Đỡnh Lập Phớa Nam giỏp xó Bắc Lóng, huyện Đỡnh Lập Phớa Bắc giỏp xó Kiờn Mộc, huyện Đỡnh Lập Tổng diện tớch tự nhiờn của toàn xó là 97,277km2, cú 11 thụn bản, tổng số 375 hộ dõn với 1.675 nhõn khẩu. Toàn xó cú 163/375 hộ nghốo, chiếm 43,46% hộ cận nghốo 60/375 hộ, chiếm 16%. Xó cú 5 dõn tộc anh em: Tày, Dao thanh phỏn, Cao Lan, Sỏn Chỉ cùng sinh sống trong đó dân tộc Tày chiếm 70%, chiếm 1.116 nhõn khẩu, dõn tộc Dao chiếm 28%, cỏc dõn tộc khỏc chiếm 2%. Lĩnh vực kinh tế Xó Chõu Sơn vẫn lấy nông nghiệp làm kinh tế trọng điểm. Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo MTTQ và các đoàn thể tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên, nhân dân đẩy mạnh sản xuất vụ đông xuân và vụ mùa. Tổng diện tích các loại cây trồng năm 2014 đạt 157,8 ha, trong đó diện tích trồng lúa là 140 ha, tổng sản lượng cây lúa đạt 555,72 tấn. Cây ngô cú diện tích đạt 57,1 ha, tổng sản lượng ngô đạt 244,97 tấn.Các loại cây trồng khác tổng diện tích đạt 58,8 ha, bao gồm: cây có củ, cây hạt chứa dầu, cây hàng năm khác. Tổng sản lượng cây lương thực có hạt đạt 800,69 tấn đạt 86,2% kế hoạch, bình quân lương thực có hạt đạt 470kg/người/năm. Công tác cung ứng giống, phân bón, chuyển giao khoa học kĩ thuật áp dụng vào sản xuất được 7   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh quan tâm; UBND xã căn cứ thông báo của phòng Nông nghiệp huyện, thông báo cho các hộ dân chủ động đến trạm giống của huyện mua các loại giống lúa, ngô cho nên đáp ứng đủ giống cho cả 2 vụ sản xuất. Vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật được nhân dân tự chủ động đến đại lý phân bón và trạm bảo vệ thực vật mua. Triển khai thành công mô hình cánh đồng mẫu lớn vụ đông xuân tại xứ đồng Nà mù, diện tích 04ha, đạt năng suất 220ha/tạ. Chăn nuôi : Thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh ; phòng chống rét cho gia súc, gia cầm nên không có trâu, bò bị bệnh chết ; đàn trâu theo số liệu thống kê thời điểm 01/4/2014 có 137 con trâu ; đàn bò 82 con ; đàn lợn 430 con ; đàn gia cầm 5.437 con; tổ chức phun tiêu độc khử trùng 11/11 thôn ; tiêm vắc xin phòng bệnh dại ở chó được 86 con. Lâm nghiệp: tuyên truyền, chỉ đạo nhân dân trồng rừng mới năm 2014, trồng rừng được 146ha chủ yếu là cây Keo và cây Thông. Khai thác gỗ rừng trồng 816 mét vuông (gỗ Keo). Công tác chăm sóc bảo vệ rừng, phũng chỏy chữa chỏy rừng được tuyên truyền thực hiện tốt, ý thức bảo vệ rừng của các tầng lớp nhân dân được nâng lên, đến nay trên địa bàn xó khụng cú chỏy rừng xảy ra. Kết quả tổ chức ra quân đầu xuân đạt được: Nạo vét mương được 4.007m dài. Đào đắp được: 52 mét vuông đất, đá. Khơi thông rãnh được: 2.205 m dài, san lấp mặt đường được: 6,5 mét vuông, phát quang hai bên đường 2.900 m dài đảm bảo nước tưới phục vụ cho sản xuất. Lĩnh vực văn hóa xã hội Công tác giáo dục: Thường xuyên lãnh đạo chỉ đạo các trường duy trì ổn định nề nếp dạy và học, thực hiện tốt các quy định của ngành giáo dục đề ra, nâng cao chất lượng đạy và học. Thực hiện tốt phong trào, hoạt động ủng hộ giúp đỡ các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh nghèo vượt khó. Chỉ đạo các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân phối hợp với nhà trường thường xuyên động viên con em đến trường, đầy đủ, duy trì sĩ số học sinh; duy trì được phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ 8   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh sở và phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Kết quả năm học 2013- 2014: Cấp THCS 109 học sinh lên lớp 100%; cấp tiểu học 16 lớp với 155 học sinh, lên lớp 100%; Cấp Mầm non tổng số 115 trẻ, trong đó: Mẫu giáo: 69 trẻ, Nhà trẻ 46 trẻ, trẻ được lên lớp 1 là 24/24 trẻ đạt 100%. Thực hiện chương trình hóa giáo dục về xây dựng Trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia trong năm học 2014, Đảng ủy xã phát động cán bộ và nhân dân trên địa bàn xã quyên góp, ủng hộ bằng tiền mặt để xây dung một số hạng mục chưa đạt. Qua đợt vận động nhân dân ủng hộ được: 43.846.000 đồng. Công tác y tế: Lãnh đạo thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho nhân dân trên địa bàn, tổng số lần khám bệnh và cấp phát thuốc được 1.622 lượt người; kết hợp điều trị y học cổ truyền được 518 người; bệnh nhân chuyển tuyến trên 131 người; Tiêm chủng phòng các loại bệnh cho trẻ được 284 lượt; trong năm trên địa bàn không có dịch bệnh lớn xảy ra. Thường xuyên thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế theo kế hoạch. Công tác DS - KHH gia đình: Luôn được cộng tác viên DS - KHH Gia đình tuyên truyền các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ dùng các biện pháp tránh thai và tiêm phòng vắc xin phòng chống các dịch bệnh nhiễm khuẩn cho các bà mẹ và trẻ em. Tổng số sinh 36 trẻ, trong đó: sinh con thứ 3 trở lên 11 trường hợp = 30,55% so với tỷ lệ. Văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao: Chỉ đạo tổ chức các hoạt động VHVN -TDTT vui chơi trong dịp tết mừng Đảng, mừng xuân, tổ chức giao lưu búng đá giữa các thôn bản. Tổ chức 01 đêm giao lưu văn nghệ trong đợt huấn luyện dân quân cụm 2 năm 2014. Thực hiện các chính sách xã hội: Tổ chức tặng quà cho các đối tượng chính sách, gia đình đặc biệt khó khăn và các hộ gia đình nghèo trong dịp tết được kịp thời đúng đối tượng. Tổng các xuất quà đã trao là 233 xuất; Trong đó: Qùa của Trung ương hỗ trợ các gia đình nghèo 205 xuất. Qùa của Huyện, Tỉnh Lạng Sơn 28 xuất. Xét trợ cấp thiếu đói trong dịp tết cho 19 hộ với 73 9   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh nhân khẩu, tổng số gạo 1.095. Hỗ trợ cứu đói giáp hạt II cho 56 hộ 234 nhân khẩu, tổng số gạo 3.510 kg. Công tác xóa đói giảm nghèo: Được quan tâm chỉ đạo thực hiện ngay từ đầu năm, theo kết quả rà soát năm 2013: Số hộ nghèo 43 hộ = 12%; công tác cấp thẻ BHYT cho các đối tượng đã được quan tâm triển khai thực hiện và kịp thời, tổng số thẻ BHYT 1,289 thẻ; Trong đó đối tượng nghèo 677 thẻ, DTTS 612 thẻ. Hỗ trợ cho hộ nghèo về tiền điện 04 quý số tiền 82.584.000 đồng. Triển khai hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo theo Quyết định 102/2009/QĐ - TTg số tiền 78.100.000 đồng; Quyết định 28/2013/QĐ - UBND ngày 24/3/2013 của UBND tỉnh cho 82 hộ số tiền 82.000.000 đồng. Vốn hỗ trợ 174 triệu, hỗ trợ phân lân tổng hợp được 11.100kg. 1.2. Khái quát về người Tày ở Châu Sơn Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, người Tày có số dân đứng thứ hai sau người Việt (Kinh), là dõn số cú số dân đông nhất trong các tộc người thiểu số 1.626.392 người theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. Địa bàn cư trú chính của người Tày chủ yếu ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang,Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Yên Bái…Ngoài ra còn có một bộ phận sống ở Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai. Gần đây một bộ phận đã chuyển vùng vào các tỉnh Tây Nguyên: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum. Đây là một nét mới trong việc mở rộng địa bàn cư trú của người Tày từ các thung lũng miền núi phía Bắc tới vùng cao nguyên đất đỏ phía nam. Người Tày sinh cơ lập nghiệp ở vùng miền núi, trong những thung lũng có ruộng bậc thang xung quanh, có rừng cây, suối nước, đồi cỏ, khí hậu trong lành, thuận tiện cho việc cấy trồng cây lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm, và các loại hoa màu, các loại cây công nghiệp, cây ăn quả. Như vậy các yếu tố cơ bản của vùng sinh thái cư dân người Tày sinh sống là: rừng, núi, nương, sông, suối. Sống trong điều kiện tự nhiên như vậy, từ lâu người Tày đã hình thành nên những đặc trưng sinh thái tộc người và kho tàng tri thức bản địa rất phong 10   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh phú đa dạng. Sống định cư thành bản từ rất lâu đời, mỗi bản của người Tày đều có tên gọi riêng gắn với địa danh sinh sống, gắn với đặc điểm địa lý, với truyền thống hay gắn với gốc tích của làng bản ấy. Trong một thôn bản số lương nóc nhà từ khoảng 40 đến 100 tùy thuộc vào nơi đất đai thuận lợi, giao thông đi lại thuận tiện. 1.2.1. Lịch sử tộc người Dõn tộc Tày cũn cú cỏc nhúm: Thổ, Ngạn, Phộn, Thu Lao, PaDớ. Tiếng núi người Tày thuộc hệ ngụn ngữ Thỏi, nhúm ngụn ngữ Tày- Nựng (nhúm ngụn ngữ Thỏi phớa đông). Về lịch sử cư trú của dân tộc Tày đó được nhiều nhà dân tộc học đề cập trong nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu khỏc nhau. Nhiều ý kiến thống nhất rằng, người Tày và người Nùng là những cư dân có chung một nguồn gốc lịch sử, cùng thuộc khối Bách Việt xưa. Tày là tên gọi đó xuất hiện từ lõu đời, có thể là vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Người Tày cổ đó tham gia vào việc thành lập nước Âu Lạc, hiệu là An Dương Vương đóng đô ở Cổ Loa, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Mặc dù quốc gia Âu Lạc tồn tại không bao lâu, nhưng có vai trũ quan trọng trong lịch sử hỡnh thành cộng đồng người Tày - sự liên minh ngày càng vững chắc của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam để cùng nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Từ xưa đến nay, cỏc cư dõn thuộc ngụn ngữ Tày - Thái đó giữ được vai trũ rất quan trọng trong lịch sử miền Nam Trung Quốc và cỏc nước ở Đông Nam Á. Những người Tày- Thỏi cổ đó góp phần sáng tạo nên nền văn húa bản địa ở vựng này. Trong lỳc nhà Mạc gặp lúc khó khăn, đó chạy lờn Cao Bằng một thời gian dài nờn một số cứ liệu cho rằng người Tày mang họ Ma, sinh sống ở Cao Bằng, Lạng Sơn, chính là con cháu nhà Mạc ngày xưa. Mặt khác, do người Tày cùng cư trú lâu đời với người Nùng và một số lưu quan người Kinh nờn việc giao lưu kinh tế, văn hóa, quan hệ hôn nhân giữa ba dân tộc này diễn ra mạnh mẽ. Hệ quả là một số người Kinh bị đồng hóa thành người Tày và ngược lại, tựy theo từng vựng. 11   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh Khảo cứu nhiều dũng họ người Tày ở Châu Sơn cho thấy, nhiều dũng họ người Tày tại đây có nguồn gốc khác nhau, có thể là người Tày cổ trước đây, cũn gọi là người Thổ (cư dân bản địa đó sinh sống từ lõu đời), có thể là Tày lưu quan (từ nơi khác lên làm quan và ở lại), cũng có thể là người Kinh từ miền xuôi lên, người Hoa từ Trung Quốc sang, …Điều đó chứng tỏ rằng, người Tày ở Châu Sơn ngày nay cú nhiều nguồn gốc và sinh sống hũa hợp. Những người dân ở xó Chõu Sơn cho biết họ đó đến đây sinh sống được khoảng 6 đời (tức là khoảng 300 năm cỏch ngày nay). 1.2.2. Đặc điểm văn hóa của người Tày ở xó Chõu Sơn *Văn hóa vật chất Nhà cửa: Để thích hợp với vùng địa lý miền núi, mưa lắm, nắng nhiều, độ ẩm dữ, nhà sàn chính là kiểu dạng truyền thống xuất phát từ điều kiện cư trú đầu tiên được người Tày lựa chọn. Nhà sàn có cả ba mặt bằng (gác, sàn, mặt đất), sân phơi trước nhà. Không gian ba tầng bao gồm: Tầng đất, mặt sàn và gác. Tầng đất để nhốt trâu bò, lợn, gà. Mặt sàn là mặt bằng sinh hoạt của cả gia đình, trong đó nơi trang trọng nhất ở gian giữa là nơi thờ cúng tổ tiên, phía bên phải của nhà thờ là nơi ngủ của chủ nhà, phía bên trái ban thờ là nơi tiếp khách và là nơi nghỉ ngơi của khách, có cầu thang phụ dẫn vào bếp. Bếp của người Tày là không gian đầm ấm trong gia đình bởi người Tày có thói quen sau một ngày lao động vất vả, tối đến mọi người quây quần bên bếp lửa để ăn uống, trò chuyện. Gần bếp lửa là buồng ngủ của con dâu. Các sàn là nơi chứa các vật của gia đình. Tuy nhiên hiện nay tập quán nhốt trâu, bò, lợn, gà dưới gầm sàn hầu như không cũn bởi lý do gây mất vệ sinh, đồng bào đã di chuyển vật nuôi ra xa nhà, gầm sàn dùng làm nơi cất giữ dụng cụ sản xuất. Ngoài nhà sàn là ngôi nhà truyền thống, người Tày còn có dạng nhà nửa sàn, nửa đất thường được dựng ở những khu đất bằng phẳng, kiểu nhà nãy đỡ tốn kém trong khi làm và thuận tiện trong công việc hàng ngày. Một kiểu nhà khác có ở vùng người Tày là nhà đất trình tường (bốn bức tường từ đất lên đến nóc bao quanh nhà đều bằng đất sét nện chặt dài hai gang, các 12   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh phòng ngủ trong nhà được ghép bằng ván). Tuy nhiên khoảng 7 năm trở lại đây nhà của người Tày ở Châu Sơn đã dần chuyển qua nhà xây như: nhà cấp bốn, nhà mái bằng, nhà cao tầng… * Trang phục: Trong ngày thường cũng như lễ tết, trang phục truyền thống của người Tày có màu xanh chàm, màu trắng chỉ dùng trong tang lễ. Họ tự dệt vải, tự trồng cây chàm để chế thành thuốc nhuộm vải và tự cắt may trang phục của mình. Trang phục phụ nữ Tày kín đáo với quần (hoặc váy), áo ngắn, áo dài, khăn đội đầu, thắt lưng và cùng các đồ trang sức bằng bạc, làm nổi bật đường nét cơ thể, tạo dáng thanh gọn và đặc biệt làm tôn nước da trắng của người phụ nữ, chiếc vòng bạc óng ánh đeo ở cổ, và vòng tay, xà tích trên nền của màu chàm tạo nên nét độc đáo tinh tế duyên dáng của bộ y phục. Trong cuốn Văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Đức Thịnh nhận xét rằng: “ Bộ nữ phục Tày mang vẻ đẹp thâm trầm, mới đầu không gây cảm giác choáng ngợp, nhưng vẻ đẹp và nét độc đáo của nó cứ dần dà thu hút sự chú ý, âm thầm chinh phục thờm mỹ của người chiêm ngưỡng nó ”. Hiện nay ở nhiều vùng, người Tày không còn nhuộm chàm nữa mà họ mua vải công nghiệp màu xanh để may trang phục cho mình, phụ nữ chỉ mặc trang phục truyền thống vào những dịp lễ tết trọng đại, ngày thường họ thường dùng trang phục may bán sẵn như người Kinh. Đàn ông hầu như đã không còn mặc trang phục truyền thống của người Tày là quần áo chàm mà mặc theo người Kinh, chỉ còn rất ít những người tuổi cao là còn giữ bộ trang phục truyền thống. *Ẩm thực: người Tày chủ yếu ăn cơm tẻ. Hàng ngày, người Tày ăn bốn bữa ăn: sớm, trưa, chiều, tối, trong đó bữa trưa và chiều là bữa ăn chính, hai bữa còn lại gọi là ăn nhẹ, cũng có thể thêm bữa khuya. Lúa nếp cũng được đồng bào chú ý cấy trồng để chế biến thành nhiều loại xôi, bánh khác nhau dùng trong các dịp lễ tết. Các món ăn chế biến từ thịt lợn, gà, vịt, ngỗng, ngan) và cá khá phong phú. Người Tày có nhiều kinh nghiệm trong việc chế biến và bảo quản thịt và cá để ăn lâu ngày như ướp thịt, cá, cá thính, mắm 13   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh chua, mắm ngọt. Các món nướng và phơi khô ở gác bếp dùng để bảo quản thịt trâu, bò, lợn…Các loại rau và măng chế biến thành nhiều món ăn ngon được đồng bào ưa thích . Nói chung do điều kiện sinh sống ở miền núi, ngoài những vật nuôi, cây trồng, cây lương thực là nguồn cung cấp thức ăn chính, đồng bào còn khai thác được trong tự nhiên nhiều loại thức ăn mùa nào thức đó, vừa giàu chất dinh dưỡng vừa có tác dụng chữa bệnh. Người Tày có nhiều món ngon, có món được dùng hàng ngày, có món chỉ có thể chế biến tại thời điểm nhất định trong năm. Trong dịp tết nguyên đán bánh chưng là món ăn đặc trưng. Ngoài ra đồng bào còn chế biến nhiều loại bánh mứt, kẹo từ gạo nếp như khẩu sli, phồng phềnh, thốc théc, bánh khảo, chè lam…và những món ăn được chế biến từ thịt như: Gà sống thiến, từ thịt lợn như: Lợn quay, khâu nhục, lạp xưởng, nem chua, giò thủ, thịt lạp…Nhiều món ăn của đồng bào được chế biến trong dịp tết có thể dùng hết tháng giêng đến tháng hai. Trong tiết thanh minh (tháng ba) có các loại măng trên rừng, lá ngải làm bánh ngải, các loại lá trên rừng chế biến thành xôi ngũ sắc. Dịp tết Đoan Ngọ (5/5) có món bánh tro, rượu nếp. Tháng bảy với rằm tháng bảy đồng bào ăn tết rất lớn với nhiều món ăn như: Vịt, gà, ngỗng, làm bún, làm bánh tải. Tháng tám với trám đen, cùng nhiều loại hoa quả chín trong vườn. Tháng chín với món cốm để mừng cơm mới. Tháng mười với món bánh cóng phù (trôi tàu)… Cơm tẻ được dùng thường ngày nờn lúa tẻ được cấy trên diện rộng, nhưng đồng bào luôn chú ý cấy trồng lúa nếp dể dùng vào các dịp lễ tết, cưới xin, ma chay… Có lẽ xưa kia lỳa nếp là nguồn lương thực chính của đồng bào, được thể hiện qua món cơm lam- cách nấu ăn cổ xưa nhất, nên ngày nay nếp không thể thiếu được trong các nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng tâm linh, lễ nghi nông nghiệp. * Văn hóa xã hội Hiện nay xó Chõu Sơn có 11 thôn, trong đó 3 thôn vùng cao với tổng diện tích toàn xó là 97,277km2 , tổng số 375 hộ dân với 1,675 nhân khẩu. 14   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh Người Tày canh tác không gắn với những cánh đồng nên không cư trú tập trung thành bản lớn mà thường chỉ vài ba chục nóc nhà. Thôn bản thường ở sườn đồi, chân núi hoặc những bói bằng ở ven suối, và dọc theo đường Quốc lộ 4b. Quanh nhà ở của người Tày thường trồng dăm ba loại cây như: lê, mận, đào, cam, quýt…và những đám rau gia vị. Trong thôn thường có nhiều họ khác nhau cùng sinh sống như họ Nông, họ Lý, họ Hoàng, họ Ló… Dự cựng họ hay khỏc họ, người dân bao giờ cũng đoàn kết giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, đặc biệt là trong ma chay, cưới xin. Mỗi thôn thường có một miếu thờ thổ công riêng được dựng ở đầu thôn, dưới gốc cõy to. Trong thụn ở xó Chõu Sơn không có hội hiếu và hàng phe như ở các huyện hoặc xó khỏc của Lạng Sơn. Tuy nhiên trong làng có tang ma, hay cưới hỏi thỡ trong làng, thỡ mỗi gia đỡnh phải cú một người đến tham gia giúp đỡ dưới sự phân công của trưởng thụn. Đây chính là sợi dây giúp từng nóc nhà sống trong thôn luôn đoàn kết, gắn bó hũa thuận với nhau. Về quan hệ dũng họ của người Tày khỏ rừ ràng, đó là con cái luôn lấy theo hộ bố tức là bên họ nội. Trong họ nội và họ ngoại cũn phõn biệt họ gần và họ xa. Tất cả những việc như cưới xin, ma chay,…đều được thông báo đến những người họ gần và có trách nhiệm đến giúp đỡ. Trong họ của người Tày cứ ai nhiều tuổi hơn thỡ được gọi là anh, chị không kể là con chú hay con bác. Họ có thói quen ít khi gọi thẳng tên người ông, người bố mà thường gọi theo tên của cháu đầu hoặc con đầu. Gia đỡnh người Tày ở đây theo chế độ phụ hệ, trong mỗi gia đỡnh thường có từ hai đến ba thế hệ cùng chung sống. Trong gia đỡnh vai trũ của người đàn ông là rất lớn, con trai là người kế thừa tài sản không kể là trưởng hay út. Cũn con gỏi khi đi lấy chồng thỡ được cha mẹ cho của hồi môn thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đỡnh. Xưa kia trong gia đỡnh cũn cú sự phõn biệt giữa con dõu và em dõu với bố chồng và anh chồng. Hụn nhõn: Trước kia thanh niờn nam nữ tỡm hiểu nhau qua cỏc cuộc hỏt Sli, Khi yờu nhau, người con có thể tặng người con gái bao đeo dao để 15   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh mỗi khi người con gái nhớ đến người con trai hoặc cũn cú thể tặng cụ gỏi chiếc giỏ đựng bông (bắp lỳ) và giỏ đựng con sợi. Người con gái có thể tặng người con trai áo, túi thêu. Thế nhưng việc dựng vợ gả chồng do bố mẹ quyết định trên cơ sở môn đăng hộ đối giữa hai gia đỡnh, sự ưng thuận của con cái và lá số của đôi nam nữ. Một đám cưới phải trải qua rất nhiều những nghi lễ, đó là: lễ dạm hỏi(khắm lựa), lấy lỏ số(au mỡnh, lễ bỏo số, lễ khả cỏy, lễ cưới (kin lảu). Sau ngày cưới cô dâu chưa về ở hẳn bên nhà chồng mà chỉ có mặt khi bên nhà chồng có công việc bận rộn, lễ tết và phải có người sang đón. Đến lúc sắp sinh con người phụ nữ mới về ở hẳn bờn nhà chồng. * Văn hóa tinh thần Ngôn ngữ: Người Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái đã có quá trình phát triển lâu dài. Do đó có vốn từ vựng phong phú và tương đối thống nhất nên cho dù ở các địa phương khác nhau người Tày vẫn có thể nghe và hiểu nhau dễ dàng. Chữ viết của người Tày là chữ Nôm Tày. Theo các nhà nghiên cứu thì chữ Nôm Tày được hình thành và phát triển gắn với quá trình truyền bá văn hóa Hán từ người Kinh vào khu vực người Tày, hưng thịnh nhất là vào khoảng thế kỷ 17-18 với sự có mặt của quan quân nhà Mạc ở Cao Bằng …Vì vậy có thể nói chữ Nôm Tày là một trong những sản phẩm thể hiện khá rõ đặc điểm giao lưu văn hóa Kinh- Tày khu vực người Tày Việt Bắc’’. Chữ Nôm Tày hiện nay được phổ biến trong các lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo. Văn học- nghệ thuật : Văn học dân gian của người Tày phong phú bao gồm nhiều thể loại khác nhau như truyền thuyết, cổ tích, truyện thơ, dân ca, ca nghi lễ, ca dao, tục ngữ, thành ngữ…Kho tàng cổ tích Tày kể về các sự tích trong cuộc sống, khuyên bảo con người nên ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, ít đấu tranh. Kho tàng về truyện thơ và thơ ca nghi lễ của người Tày khá đặc sắc, được sáng tạo từ ngàn xưa và lưu truyền từ đời này sang đời khác như một báu vật tinh thần biểu hiện đời sống tâm hồn phong phú. Đối với người Tày, “lượn, sli, hát pụt, hát then, văn than, văn tế, phong slư, quan lang, đồng 16   Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh dao, hát ru…Nhiều như sao trên trời, ý tứ nhiều hơn nước chảy, đó là những lời từ gió mà vọng ra thành tiếng, vọng vào núi, rền vào đá để dội vào lòng người mọi buồn vui sướng khổ ở cõi người’’. Lễ tết, hội hè : Trong năm người Tày có rất nhiều lễ tết, hội hè theo tiết khí, như : Tết nguyên đán; Tết nguyên tiêu; Tiết thanh minh; Tết mùng 5 tháng 5, giết sâu bọ ; Mùng 6 tháng 6 tết cầu mùa màng; Tết Rằm tháng Bảy xá tội vong nhân (đối với đồng bào Tày tết dằm tháng Bảy là tết lớn thứ hai trong năm) Tết Rằm Trung Thu; Mùng 9 tháng 9 Tết mừng lúa mới ; Mùng 10 tháng 10 …Lễ hội tiêu biểu nhất trong năm của người Tày là lễ hội Lồng tồng (xuống đồng) được tổ chức sau Tết nguyên đán, tùy theo từng bản sao cho không trùng ngày để các bản có thể tới dự với nhau cũng là dịp để thăm hỏi gặp gỡ và giao lưu văn hóa. Hội Lồng tông nhằm cầu mong Thần Nông ban cho mưa thuận gió hòa, việc đồng áng được thuận lợi, mùa màng bội thu, người người được mạnh khỏe sống lâu, nhà nhà yên lành hạnh phúc. Trong lễ hội, ngoài phần tế lễ Thần Nông là phần hội với nhiều trò chơi dân gian như: đánh yến, tung còn, kéo co, chơi khăng, thi bắn cung, bắn nỏ, biểu diễn võ thuật dân tộc… đặc biệt còn có hát then, đàn tính, nam nữ thanh niên hát sli, hát lượn giao duyên. Tiểu kết chương 1 Sinh sống trong điều kiện tự nhiên chủ yếu là đồi núi nên từ lâu người Tày ở Châu Sơn đó hỡnh thành nờn những đặc trưng sinh thái tộc người và kho tàng tri thức bản địa rất phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó, “Người Tày có phong cách nhu mỡ giản dị, quý mến bạn bố và rất hiếu khỏch. Đó là những con người ở nhà sàn, mặc áo chàm, nói năng dịu dàng, tính tỡnh kớn đáo, giản dị khiêm nhường, ít khoa trương đặc biệt là tớnh hiếu thảo, mến mộ và tuyệt đối tin cậy khi có niềm tin. Bản sắc ấy chính là yếu tố quyết định sự hỡnh thành những thuần phong mỹ tục ngàn năm của đồng bào”. Đó là khái lược những đặc trưng văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể nhằm phác họa nên bức chân dung của người Tày, từ đó có thể định dạng được văn hóa Tày cho dù ở địa phương khác nhau. Những đặc điểm chung trên đây sẽ là tiền đề 17  
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan