Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Khóa luận tốt nghiệp nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự việt n...

Tài liệu Khóa luận tốt nghiệp nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
111
1
121

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT HÌNH SỰ -----------***------------ TRẦN HỮU KHÁNH LINH MSSV: 1753801013102 NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT Niên khóa: 2017-2021 Giảng viên hướng dẫn: ThS. LÊ THỊ THÙY DƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu do chính bản thân tôi thực hiện theo sự hướng dẫn của Th.S Lê Thị Thùy Dương. Các nội dung được trình bày trong khóa luận là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan của mình. Tác giả Trần Hữu Khánh Linh LỜI CẢM ƠN Tác giả chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban Điều hành Khoa luật Hình sự, quý thầy cô Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện trong việc thực hiện khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”. Đặc biệt, tác giả trân trọng cảm ơn Th.S Lê Thị Thùy Dương đã hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021. Tác giả Trần Hữu Khánh Linh MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI........................................................................................................................ 6 1.1. Khái niệm chung về nguyên tắc suy đoán vô tội.............................................. 6 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội.........................................................6 1.1.2. Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội.......................................................... 7 1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội....................................................13 1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội và các nguyên tắc cơ bản khác của Bộ luật Tố tụng hình sự........................................................................... 16 1.2.1. Mối quan hệ với nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân......................................................................... 17 1.2.2. Mối quan hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án...........................17 1.2.3. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội..........................................................................................................................19 1.2.4. Mối quan hệ với nguyên tắc trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng......................................................................................................... 20 1.2.5. Mối quan hệ với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo....... 21 1.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia..................................................................................................................22 1.3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế................................ 22 1.3.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự của một số quốc gia................................................................................................................25 1.4. Lược sử hình thành và phát triển của nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật Việt Nam...................................................................................................30 1.4.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988........................30 1.4.2. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội từ năm 1988 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2015........................35 CHƯƠNG II: NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH........................................................ 41 2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự42 2.1.1. Chủ thể thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội.......................................... 42 2.1.2. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn.................................................... 47 2.1.3. Thời hạn tố tụng và các quyết định tố tụng...............................................49 2.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn truy tố vụ án hình sự.............. 51 2.2.1. Thời hạn truy tố vụ án hình sự và việc ra các quyết định tố tụng............ 52 2.2.2. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn........................................................... 55 2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự............... 56 2.3.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.......................................................................................................................... 67 2.3.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn Giám đốc thẩm, Tái thẩm vụ án hình sự.............................................................................................................70 CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TẠI VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN.............................................. 73 3.1. Thực trạng áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội tại Việt Nam.....................73 3.1.1. Thực trạng quy định pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc suy đoán vô tội..........................................................................................................................73 3.1.2. Thực trạng áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội.......................................76 3.1.3. Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế và bất cập trong việc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội............................................................................................... 87 3.2. Một số định hướng nhằm hoàn thiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam....................................................................... 91 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về nguyên tắc suy đoán vô tội..........................................................................................................................91 3.2.2. Một số giải pháp khác............................................................................... 94 KẾT LUẬN................................................................................................................99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT SĐVT Suy đoán vô tội TTHS Tố tụng hình sự THTT Tiến hành tố tụng LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế hội nhập quốc tế và tham gia vào quá trình toàn cầu hóa hiện nay, các vấn đề liên quan đến quyền con người đang được thế giới nói chung, cũng như Việt Nam nói riêng đặc biệt quan tâm. Để bảo vệ quyền con người, các quốc gia trên thế giới không ngừng cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tiến tới xây dựng một nền tư pháp dân chủ, trong sạch, vững bền. Trong đó, tố tụng hình sự là lĩnh vực được đặc biệt chú ý, bởi đây là lĩnh vực tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền và lợi ích của người bị buộc tội. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng tố hình sự, cụ thể là người bị buộc tội, một số văn kiện quốc tế quan trọng của Liên hợp quốc đã đặt ra các nguyên tắc cơ bản, trong đó suy đoán vô tội được xem là một trong những nguyên tắc đặc thù và cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự. Đơn cử là, khoản 1 Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948 đã quy định: “ Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành” hay tại khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật…”. Tại Việt Nam, nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận như là một trong các quyền con người (khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013), là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật Tố tụng hình sự (Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), ngoài ra, nguyên tắc suy đoán vô tội còn được các nhà làm luật cụ thể hóa bằng nhiều quy định trong các văn bản pháp luật hình sự khác của nước ta. 1 Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy nguyên tắc suy đoán vô tội vẫn chưa được nhận thức và thực hiện thống nhất, toàn tiện mà còn một vài bất cập, vẫn còn không ít người tiến hành tố tụng có cách hiểu sai lệch mang suy nghĩ chủ quan, coi người bị buộc tội là người có tội. Việc nhận thức và áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội vẫn chưa đồng bộ, thống nhất, tình trạng “án tại hồ sơ” vẫn còn tồn tại gây nên bức xúc trong người dân. Việc nghiên cứu nội dung, vai trò, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội là nội dung có ý nghĩa to lớn về mặt khoa học pháp lý và áp dụng thực tiễn. Áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội một cách thống nhất sẽ làm cho hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm được thực hiện một cách hiệu quả, hoạt động xác định sự thật khách quan vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện một cách chính xác, toàn diện và đầy đủ, hạn chế tình trạng oan, sai. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tại Nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam làm Khóa luận tốt nghiệp 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta, nguyên tắc suy đoán vô tội lần đầu được quyết định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự 1988 - Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam và được các nhà lập pháp không ngừng cải tiến thông qua các văn bản pháp luật như Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015,…Đến nay đã có nhiều bài viết, công trình khoa học, tạp chí pháp lý liên quan về vấn đề này. Có thể kể đến những bài viết được đăng trên các tạp chí nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan đến đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội theo tinh thần Hiến pháp 2013 góc nhìn từ thực tiễn vụ án hình sự (Trương Hồ Hải - tạp chí Nghề luật, số 4, năm 2015), Nguyên tắc suy đoán vô tội nguyên tắc hiến định quan trọng trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 (Đào Trí Úc - tạp chí Kiểm sát, số 02, năm 2017), Mối qua hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc xác định sự thật 2 của vụ án (Nguyễn Duy Dũng - tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 12, năm 2015), Quyền được suy đoán vô tội theo luật nhân quyền quốc tế và những gợi mở cho việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam (Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm - tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 5, năm 2015), Về cơ chế thực thi nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Nguyễn Tất Thành - tạp chí Tòa án nhân dân, số 5, năm 2016), Thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong quy định về đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Vũ Gia Lâm - tạp chí Kiểm sát, số 12, năm 2016), Yêu cầu thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử (Phí Thành Chung tạp chí Tòa án nhân dân, số 12, năm 2017). Bên cạnh đó còn có các công trình nghiên cứu, khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, luận văn thạc sĩ như: “Quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam” (Nguyễn Đức Nguyên Vỵ, Ngô Quang Vũ, Nguyễn Việt Minh Thư - Công trình nghiên cứu khoa học cấp trường lần thứ XVII năm học 2012 - 2013, TP. Hồ Chí Minh), Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực (Phạm Minh Vương - Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 2013), Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (Lâm Anh Tuấn - Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2016). Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã phân tích khá đầy đủ về nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên mỗi công trình chỉ chủ yếu tập trung vào một khía cạnh nhất định, một giai đoạn tố tụng nhất định hoặc nếu nghiên cứu toàn thể nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội thì cũng dựa trên Bộ luật tố tụng hình sự 2003, chưa làm rõ được cái mới của nội dung và tình hình áp dụng thực tiễn hiện nay như: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, (Nguyễn Thành Long - Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2011) hay Quyền được suy đoán vô tội và vấn đề sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Võ Thị Kim Oanh, chủ nhiệm đề tài - Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học, 3 trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 2012). Có lẽ do sự giới hạn về mục tiêu nghiên cứu dẫn đến phạm vi nghiên cứu không thể mở rộng. Dẫu vậy, những cơ sở lý luận, kiến nghị, giải pháp được đề cập và kết quả nghiên cứu của chúng mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong khoa học pháp lý hình sự và trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, là nguồn tư liệu quý báu để tác giả có thể kế thừa và hoàn thiện đề tài nghiên cứu này. Như vậy, đề tài “Nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” tuy không mới nhưng mang ý nghĩa riêng, nghiên cứu về nguyên tắc suy đoán vô tội một cách chi tiết, bao quát trên cơ sở pháp luật hiện hành. 3. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam hướng đến phân tích chi tiết và toàn diện nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời nghiên cứu thực trạng áp dụng nguyên tắc này trên thực tiễn và đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc suy đoán vô tội, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo có giá trị trong việc nghiên cứu nguyên tắc suy đoán vô tội và các vấn đề liên quan. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam dưới góc độ pháp lý, áp dụng thực tiễn và đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện nguyên tắc suy đoán vô tội. Việc nghiên cứu được tiến hành trên phạm vi toàn quốc nhưng trong tình hình dịch bệnh, việc xin số liệu khó khăn nên trong bài chỉ phân tích số liệu của một quận của Thành phố Đà Nẵng. 5. Phương pháp nghiên cứu 4 Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của học thuyết Mác - Lênin kết hợp với các phương pháp như: phương phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp liệt kê,… để giải quyết vấn đề. 6. Bố cục đề tài Đề tài gồm 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung chính và Phần kết luận. Lời nói đầu Danh mục từ viết tắt Phần nội dung gồm 3 chương: - Chương I: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc suy đoán vô tội; - Chương II: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành; - Chương III: Thực tiễn áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội tại Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện. Phần kết luận Danh mục tài liệu tham khảo 5 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI 1.1. Khái niệm chung về nguyên tắc suy đoán vô tội 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội Nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc nền tảng của luật TTHS, chi phối đến các nguyên tắc cơ bản khác của luật TTHS và quyết định tính khách quan, công bằng của việc xác định sự thật vụ án. Để làm rõ khái niệm nguyên tắc SĐVT, trước hết cần hiểu khái niệm “nguyên tắc”. “Thuật ngữ “nguyên tắc” theo tiếng La tinh là “principium” có nghĩa: 1) Luận điểm cơ bản, luận điểm gốc của học thuyết; 2) Niềm tin, quan điểm đối với sự vật; 3) Nguyên lý cấu trúc và hoạt động của dụng cụ, thiết bị” 1. Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, thuật ngữ “nguyên tắc” được hiểu là “điều cơ bản đã được quy định để dùng làm cơ sở cho các mối quan hệ xã hội hay điều cơ bản rút ra từ thực tế khách quan để chỉ đạo hành động”2. “Thuật ngữ “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng La tinh “praesumptino” hay trong tiếng anh “presump” được hiểu là coi vấn đề, hiện tượng nào đó là đúng đắn cho đến khi có lý do bác bỏ vấn đề, hiện tượng đó”3. Cuối cùng, về thuật ngữ “vô tội”. “Vô tội là trạng thái bình thường của một người, của một công dân khi chưa thực hiện hành vi nào mà theo luật TTHS hành vi đó là hành vi phạm tội và họ chưa bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật”4. Theo Từ điển Bách khoa luật học, “Suy đoán vô tội là trạng thái mà theo đó người bị buộc tội được suy đoán vô tội trong khi việc phạm tội của người đó chưa Nguyễn Thành Long, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự (sách tham khảo), 2011, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 20. 2 Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr. 1286. 3 Đỗ Đức Minh, Trần Quang Minh, Nguyên tắc suy đoán vô tội: Khái niệm, nội dung và ý nghĩa, Suy đoán vô tội (Kỷ yếu hội thảo quốc tế), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 591. 4 Nguyễn Thành Long, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự (sách tham khảo), 2011, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 21. 1 6 được chứng minh theo trình tự luật định”5. Khái niệm này đã chỉ rõ một trong những nội dung quan trọng của SĐVT là người bị buộc tội chưa là người có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định. Tuy nhiên khái niệm trên chưa giải quyết được vấn đề chủ thể nào có thẩm quyền kết luận một người là có tội hay không có tội và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về chủ thể nào. Hay theo Từ điển Bách khoa đương đại, “Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc của nền tố tụng dân chủ, theo đó người bị buộc tội được SĐVT trong khi việc phạm tội của người đó chưa được chứng minh theo trình tự luật định và chưa được xác định bởi phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”6. Từ điển Bách khoa đương đại đã khái quát khái niệm nguyên tắc SĐVT một cách khá đầy đủ và toàn diện. Khái niệm trên đã chỉ rõ nguyên tắc SĐVT là một trong những nguyên tắc của nền tố tụng dân chủ, giải quyết được vấn đề chủ thể có thẩm quyền kết luận người bị buộc tội có hay không có tội và việc chứng minh tội phạm phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định. Qua các phân tích trên, theo tác giả, “Nguyên tắc SĐVT là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS, theo đó người bị buộc tội chưa là người có tội và không thể bị đối xử như người có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. 1.1.2. Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội Nguyên tắc SĐVT là một trong những nguyên tắc nền tảng của nền tư pháp tố tụng hình sự, có sự tác động qua lại với các nguyên tắc cơ bản khác của TTHS, đóng vai trò thiết yếu trong việc đảm bảo sự thật khách quan, tính dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch của quá trình TTHS. Nội dung nguyên tắc SĐVT đã được quy định tại Điều 10 BLTTHS năm 1988 và Điều 9 BLTTHS năm 2003 với nội dung: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Tuy 5 https://luatminhkhue.vn/suy-doan-vo-toi-la-gi---khai-niem-ve-suy-doan-vo-toi.aspx (Truy cập ngày 11/6/2021) 6 https://luatminhkhue.vn/suy-doan-vo-toi-la-gi---khai-niem-ve-suy-doan-vo-toi.aspx (Truy cập ngày 11/6/2021) 7 nhiên, việc quy định như vậy chưa thật sự đầy đủ và toàn diện. Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia, đánh giá hiệu quả áp dụng của nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn, cùng với việc tiếp cận và nghiên cứu quyền con người trong Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế trên. Cụ thể, Điều 13 BLTTHS năm 2015 quy định về nguyên tắc SĐVT bao gồm những nội dung sau: * Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật Việc tuyên bố một người là phạm tội và áp dụng các hình phạt đối với họ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, số phận chính trị, pháp lý của họ; do đó chỉ có Tòa án - cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, có thẩm quyền tuyên bố một cá nhân có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt đối với họ. Điều này có nghĩa, một người có thể bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, nhưng người đó vẫn được xem là vô tội cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Các quyết định của các cơ quan THTT khác: Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không có giá trị xác định một người có tội hay không. Nguyên tắc này cũng được khẳng định tại Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789: “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức quá mức cần thiết cho phép đều bị pháp luật xử lý nghiêm khắc”. Hay Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948 quy định: “Bất kỳ người nào bị buộc tội đều được coi là vô tội cho đến khi một tòa án công khai, nơi người đó đã có được tất cả những bảo đảm cần thiết để bào chữa cho mình, chứng minh được tội trạng của người đó dựa trên cơ sở pháp luật”. Mặc dù Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền phán quyết một người có tội hay không, nhưng việc phán quyết phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định7. Bản án kết tội của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, 7 Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 8 tôn trọng quyền bào chữa của người bị buộc tội. Bất kỳ một phán quyết nào của Tòa án được đưa ra mà không tuân theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục đều được xem là không có giá trị. Mọi sự vi phạm trình tự, thủ tục của Tòa án đều có thể dẫn đến hậu quả pháp lý là bản án, quyết định do Tòa án đó tuyên sẽ bị Tòa án cấp trên có thẩm quyền hủy, xét xử lại hoặc hủy, đình chỉ xét xử vụ án. Ngoài điều kiện trên, bản án kết tội phải đáp ứng điều kiện thứ hai, là bản án phải có hiệu lực pháp luật. Tại thời điểm bản án sơ thẩm được tuyên, chưa có hiệu lực pháp luật ngay. Theo đó, người bị buộc tội chưa bị coi là người có tội. Theo BLTTHS năm 2015, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật trong các trường hợp: Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị8; Bản án phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án9. Chỉ khi thuộc một trong các trường hợp trên, người bị buộc tội mới bị coi là có tội. Nội dung này của nguyên tắc SĐVT đòi hỏi cơ quan THTT, người THTT phải đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của bản án kết tội, không được áp đặt, đối xử với người bị buộc tội như người có tội, không được để ý kiến chủ quan ảnh hưởng đến quá trình THTT, không định kiến hay đối xử bất công với người bị buộc tội; ngay cả khi người bị buộc tội bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giam, tạm giữ, họ chỉ bị hạn chế một số quyền nhất định trong giới hạn pháp luật quy định, các quyền con người khác vẫn được tôn trọng và bảo đảm. * Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội Một nội dung quan trọng khác của nguyên tắc SĐVT là trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội10. Cơ sở lý luận của nội Điều 343 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Khoản 2 Điều 355, khoản 1 Điều 395 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 10 Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 8 9 9 dung trên đã được hình thành từ luật La Mã cổ đại: Trách nhiệm chứng minh thuộc về người khẳng định, chứ không thuộc về người phủ định. Các cơ quan THTT khẳng định một người phạm tội, thì các cơ quan đó phải có trách nhiệm chứng minh. “Người bị buộc tội là người phủ định mình không có tội, không có trách nhiệm chứng minh”11. Nội dung trên được thể hiện trong pháp luật TTHS Việt Nam thông qua quy định tại Điều 15, Điều 85 BLTTHS 2015. Việc quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan THTT, người bị buộc tội có quyền nhưng không có buộc phải chứng minh mình vô tội là hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ, mối quan hệ trong TTHS vốn là mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước mà đại diện là cơ quan THTT và bên còn lại là người bị buộc tội. Trong mối quan hệ này, người bị buộc tội luôn ở vị trí yếu thế hơn, có ít tài lực, nhân lực để chứng minh mình vô tội. Do đó, nếu quy định người bị buộc tội buộc phải chứng minh mình vô tội sẽ là một quy định bất khả thi và không phù hợp. Ở phía còn lại, cơ quan THTT có các điều kiện để thực hiện việc chứng minh tội phạm như: Đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo bài bản; có trình độ, chuyên môn, kinh nghiệm trong việc chứng minh tội phạm, xác định sự thật khách quan của vụ án; có sự đầu tư về trang thiết bị, khoa học kỹ thuật phục vụ công tác điều tra và được hậu thuẫn bằng quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, còn việc chứng minh vô tội thuộc về bên bị buộc tội. Đây là quan niệm sai làm và không phù hợp với bản chất của nguyên tắc SĐVT. Mặc dù người bị buộc tội không buộc phải chứng minh mình vô tội nhưng không có nghĩa là họ rơi vào thế bị động trong quá trình THTT. Để người bị buộc tội có thể thực hiện quyền chứng minh vô tội của mình, khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015 quy định người bị buộc có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội,… Nếu pháp luật La Mã mang quan điểm tuyệt đối hóa lời khai của người bị buộc tội với quy định chứng cứ được rút ra từ lời nhận tội của bị cáo được coi là chứng cứ tốt nhất thì theo pháp luật TTHS Việt Nam, cụ thể là khoản 2 Điều 98 BLTTHS 11 Nguyễn Thành Long, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tr. 9-22 10 năm 2015, đã phủ định quan điểm trên với quy định lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án và không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội. Bởi trong thực tiễn THTT có không ít người bị buộc tội khai báo thành khẩn với mục đích nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, che giấu một hành vi phạm tội khác nghiêm trọng hơn, che giấu cho đồng phạm. Hay có thể là do bị ép cung, mớm cung, nhục hình, bị buộc phải nhận tội… Nếu xem lời khai nhận tội của bị can làm chứng cứ duy nhất và chỉ căn cứ vào đó để giải quyết vụ án là không khách quan, toàn diện và rất dễ dẫn đến oan, sai. Trong trường hợp người bị buộc tội nhận tội thì theo nguyên tắc SĐVT, họ vẫn chưa bị xem là người có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. * Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội Nội dung này của nguyên tắc SĐVT được thể hiện thông qua các khía cạnh sau: Thứ nhất, các chứng cứ chứng minh tội phạm phải được thu thập một cách đầy đủ và theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Nếu không thu thập đủ và đúng các chứng cứ chứng minh tội phạm thì không thể kết tội người bị buộc tội. Trong quá trình xác định sự thật vụ án, các cơ quan THTT có trách nhiệm làm rõ mọi vấn đề cần được chứng minh và các tình tiết khác trong vụ án hình sự. Mọi sự nghi ngờ cần phải được giải quyết đúng đắn, khách quan và đúng trình tự thủ tục. Điều 85 BLTTHS năm 2015 đã liệt kê các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự gồm: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; Có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; Có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, 11 miễn hình phạt. Theo đó, tội phạm chỉ được chứng minh khi trả lời đủ và đúng tất cả các vấn đề trên thông qua các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Nếu cơ quan THTT đã chứng minh được tất cả các vấn đề trên nhưng quá trình thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm không được thực hiện theo quy định pháp luật thì mọi tài liệu được thu thập đều không được công nhận là chứng cứ. Hoặc ngược lại, nếu cơ quan THTT không thể chứng minh tất cả các vấn đề cần chứng minh của vụ án hình sự thì cho dù các vấn đề đó được chứng minh theo đúng quy trình pháp luật quy định thì vụ án hình sự vẫn không được giải quyết. Điều 86 BLTTHS năm 2015 quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Theo đó, chứng cứ phải thỏa mãn 03 thuộc tính: Tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Cả ba thuộc tính trên đều quan trọng và không thể tách rời. Các chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự12. Các cơ quan THTT, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng sự thật vụ án, không áp đặt ý chí chủ quan và tuân thủ đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Tuy nhiên trong quá trình xác định sự thật vụ án, ngay cả khi các cơ quan tiến hành tố tụng đã sử dụng tất cả phương pháp, phương tiện được pháp luật cho phép, vẫn có thể có những nghi ngờ không thể loại trừ được theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định thì sự nghi ngờ đó phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Nội dung này của nguyên tắc SĐVT thể hiện sự nhân đạo của pháp luật TTHS. Tòa án sẽ không chấp nhận xét xử đối với những vụ án vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn chưa được giải quyết triệt để. Đây là động lực để cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xác định sự thật khách quan của vụ án. 12 Khoản 1 Điều 108 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 12 Thứ hai, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật thì cơ quan, người THTT phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Như đã trình bày ở trên, một người chỉ bị xem là người có tội khi bị kết tội bởi bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền THTT. Đồng thời sự thật này phải được chứng minh một cách đầy đủ, toàn diện. Vì vậy, cơ quan, người có thẩm quyền THTT khi không đủ căn cứ kết tội phải kết luận người bị cáo buộc phạm tội không có tội. Một trong những mục đích quan trọng của TTHS là phát hiện, xử lý triệt để tội phạm, không làm oan, sai người vô tội. Tuy nhiên, trong thực tế, không ít vụ án có chứng cứ yếu, không đủ để kết luận người bị buộc tội có tội hay không, có khả năng kết tội oan người bị buộc tội và bỏ lọt tội phạm. Trong trường hợp này, nguyên tắc SĐVT theo hướng khi không thể giải quyết mọi nghi ngờ theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định dù cơ quan, người THTT đã áp dụng mọi biện pháp, phương pháp mà pháp luật cho phép thì cơ quan, người THTT phải giải thích nghi ngờ đó theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Bên cạnh đó, Tòa án - cơ quan đại diện Nhà nước - thực hiện vai trò phán quyết một người có tội hay không có tội. Bản án do Tòa án tuyên có ý nghĩa pháp lý vô cùng quan trọng, quyết định sinh mệnh chính trị của một người, đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, nội dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá của hội đồng xét xử. Do đó, Tòa án không thể ra bản án kết tội người bị buộc tội khi chưa làm sáng tỏ căn cứ buộc tội hoặc không tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội Trong lịch sử lập pháp TTHS, việc thừa nhận nguyên tắc SĐVT được coi là thành tựu quan trọng của khoa học pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực TTHS. Việc Hiến pháp và pháp luật TTHS nước ta ghi nhận nguyên tắc 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan