BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRÀ THẢO VÂN LINH
NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRÀ THẢO VÂN LINH
NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
GVHD: THS. PHAN NGUYỄN BẢO NGỌC
TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - 2021
LỜI CẢM ƠN
Con cảm ơn ba, mẹ đã luôn yêu thương, động viên và ủng hộ con trong suốt
hành trình cuộc đời.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ths. Phan Nguyễn Bảo Ngọc – Giảng
viên khoa Luật Dân sự, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã luôn tận
tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ em hoàn thành Khóa luận. Được sự hướng dẫn
của cô là niềm vinh dự và may mắn đối với em. Em chúc cô sức khỏe, có thật nhiều
niềm vui trong cuộc sống và thành công hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục.
Ngoài ra, em cũng xin cảm ơn quý thầy, cô trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã giúp em hoàn thành Khóa luận này.
Và cuối cùng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả các bạn đã luôn động viên
và hỗ trợ, giúp đỡ Linh nhiệt tình trong việc tìm kiếm tài liệu, thu thập số liệu trong
suốt thời gian thực hiện Khóa luận.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Trà Thảo Vân Linh, tôi cam đoan rằng Khóa luận tốt nghiệp này là kết
quả của quá trình nghiên cứu nghiêm túc của tôi, dưới sự hướng dẫn của Ths. Phan
Nguyễn Bảo Ngọc. Các thông tin, dữ liệu, luận điểm được trích dẫn đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về chú thích tài liệu tham khảo. Tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả khóa luận
Trà Thảo Vân Linh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Nội dung đƣợc viết tắt
Chữ viết tắt
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
HĐXX
Hội đồng xét xử
PTST
Phiên tòa sơ thẩm
TAND
Tòa án nhân dân
TTDS
Tố tụng dân sự
TTHS
Tố tụng hình sự
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC CUNG CẤP
CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ........................6
1.1. Khái quát về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố
tụng dân sự ............................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm về nguyên tắc .........................................................................6
1.1.2. Đặc điểm về nguyên tắc ...........................................................................9
1.1.3. Ý nghĩa về nguyên tắc ...........................................................................13
1.2. Mối liên hệ giữa nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh với các
nguyên tắc khác trong Tố tụng dân sự .............................................................17
1.2.1. Mối liên hệ với nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp ....................................................................................................17
1.2.2. Mối liên hệ với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự ..........................................................................................................19
1.2.3. Mối liên hệ với nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố
tụng dân sự ......................................................................................................19
1.2.4. Mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử .............20
1.3. Nội dung của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ...................................................21
1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập, giao nộp chứng
cứ và chứng minh ............................................................................................23
a. Trong giai đoạn khởi kiện, yêu cầu và thụ lý vụ việc dân sự .....................24
b. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm...................................................27
c. Tại phiên tòa sơ thẩm .................................................................................29
d. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm .............................................................31
e. Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm ..................................................33
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác .......................................................................................35
1.3.3. Trách nhiệm của Tòa án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ ....38
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................42
CHƢƠNG 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG
CỨ, CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN ......................................................................................................................43
2.1. Đảm bảo quyền và nghĩa vụ của ngƣời khởi kiện, đƣơng sự khi thu
thập, giao nộp chứng cứ và chứng minh ...........................................................44
2.1.1. Tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện ..........................................44
a. Thực tiễn .....................................................................................................44
b. Kiến nghị ....................................................................................................47
2.1.2. Phương thức thực hiện nghĩa vụ thu thập, cung cấp tài liệu chứng cứ
của người khởi kiện, đương sự .......................................................................49
a. Thực tiễn .....................................................................................................49
b. Kiến nghị ....................................................................................................51
2.1.3. Thời hạn giao nộp tài liệu chứng cứ ....................................................52
a. Thực tiễn .....................................................................................................52
b. Kiến nghị ....................................................................................................53
2.2. Đảm bảo trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đƣơng sự thu thập,
xác minh chứng cứ ..............................................................................................54
2.2.1. Thực tiễn ................................................................................................54
2.2.2. Kiến nghị ................................................................................................57
2.3. Đảm bảo quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, giao nộp tài
liệu chứng cứ của đƣơng sự và Tòa án .............................................................58
2.3.1. Thực tiễn ................................................................................................58
2.3.2. Kiến nghị ................................................................................................60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................63
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của pháp luật Việt Nam
nói chung và pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam nói riêng, Nhà nước ta luôn hướng
đến việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể. Theo đó, khi cá nhân,
pháp nhân hay chủ thể khác cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm thì được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ. Việc khởi kiện này phải
thông qua phương tiện là trình tự, thủ tục Tố tụng dân sự. Và để thực hiện tốt nó cần
đảm bảo nhiều yếu tố khác nhau, song một trong những yếu tố quan trọng là yêu
cầu các chủ thể phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự,
trong đó có nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh. Đây được xem như là
nguyên tắc cơ bản, mang tính chất nền tảng và có tính chỉ đạo xuyên suốt trong toàn
bộ quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Trải qua quá trình tồn tại, phát triển cùng với từng thời kỳ của đất nước, pháp
luật Tố tụng dân sự nói chung và quy định về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh nói riêng đã có những điều chỉnh theo hướng ngày càng tiến bộ và gắn
liền với thực tiễn hơn. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được thông qua tại kỳ họp
thứ 10 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 được xem như là “bước
chuyển mình” quan trọng của pháp luật Tố tụng dân sự nước nhà. Xét ở góc độ bảo
vệ quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan tổ chức, có thể thấy rằng trải qua hơn 05
năm được đưa vào thực tiễn, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có những đóng
góp quan trọng, đơn cử như: trình tự, thủ tục tố tụng đã theo hướng công khai, đơn
giản hóa hơn những quy định cũ, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia tố tụng
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong hoạt động Tố tụng dân sự đã được đề cao,...
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân
sự nói chung và chế định về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố
tụng dân sự nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc. Nhiều yêu cầu giải quyết
tranh chấp của người dân phải “chết” ngay bước nộp đơn vì gặp khó khăn trong
việc thu thập, cung cấp chứng cứ. Hậu quả là đơn khởi kiện bị trả lại với lý do
không đầy đủ tài liệu, chứng cứ trong khi họ đã thực hiện hầu như tất cả các biện
pháp để thu thập. Thậm chí còn có những trường hợp vụ việc đã được thụ lý, giải
quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án nhưng quyền lợi của
1
đương sự cũng không được đảm bảo thực thi khi các vụ án bị xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm nhiều lần do liên quan đến việc không tuân thủ nguyên tắc
cung cấp chứng cứ, chứng minh.
Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân xuất phát từ việc pháp luật Tố tụng
dân sự còn nhiều hạn chế. Bởi lẽ, dù đã hoàn thiện hơn so với quy định cũ và được
ghi nhận thành nguyên tắc cơ bản tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản
hướng dẫn hoàn chỉnh nào để chi tiết hóa nguyên tắc này. Do đó nhằm tạo điều kiện
cho việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về chứng cứ và chứng
minh, việc nghiên cứu làm rõ một số quy định là cần thiết.
Trên cơ sở đi sâu nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng quy định về
nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự hiện nay kết
hợp liên hệ, đối sánh với pháp luật một số quốc gia, tác giả đã chọn đề tài “Nguyên
tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự” làm Khóa luận tốt
nghiệp của mình với mong muốn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề còn vướng
mắc, từ đó kiến nghị giải pháp khắc phục để hoàn thiện hệ thống pháp luật Tố tụng
dân sự Việt Nam nói chung và pháp luật về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong Tố tụng dân sự nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự nói chung và
nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự nói riêng là
mảng đề tài đã được nhiều nhà khoa học, tác giả quan tâm, nghiên cứu theo nhiều
góc độ và hình thức khác nhau từ khái quát đến cụ thể:
- Trương Việt Hồng (2015), “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án sơ
thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Hiểu (2015), “Hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại hai công trình này, các tác giả đã nghiên cứu quy định của pháp luật về
hoạt động thu thập chứng cứ do Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện trong giải quyết vụ án
dân sự. Qua đó đã làm rõ và đưa ra các kiến nghị về trách nhiệm thu thập chứng cứ
của Tòa án như Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa thống nhất như thế nào là
trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ; trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án
chưa rõ ràng; Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện đầy đủ việc thu thập chứng cứ,
2
dẫn đến nhiều trường hợp vụ án bị xem xét một cách phiến diện, bản án được tuyên
không chính xác, chưa đảm bảo công bằng xã hội, bị cấp phúc thẩm hay giám đốc
thẩm hủy án để xét xử lại; Về thời hạn thu thập chứng cứ; Vấn đề thu thập chứng cứ
thông qua xem xét, thẩm định tại chỗ; yêu cầu tổ chức, cá nhân giao nộp chứng cứ
cho Tòa án. Ngoài ra, các Luận văn đã làm rõ quá trình hình thành và phát triển các
quy định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong pháp luật Tố tụng dân
sự, nghiên cứu pháp luật Tố tụng dân sự một số quốc gia để tham khảo, hoàn thiện
quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Đinh Quốc Trí (2012), “Nguyên tắc nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự”, Đại học Quốc gia Hà
Nội; Tăng Hoàng My, “Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố
tụng dân sự” (2012), Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Thu Sương (2020),
“Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng Dân sự”, Luận văn
Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là những công trình luận văn có liên hệ trực tiếp đến nguyên tắc cung
cấp chứng cứ và chứng minh. Các công trình đã phân tích, làm rõ các vấn đề liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập, giao nộp chứng cứ và
chứng minh; trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ. Đặc biệt,
trong các nghiên cứu còn có sự bình luận, so sánh giữa hệ thống pháp luật Tố tụng
dân sự Việt Nam với hệ thống pháp luật Tố tụng của một số nước như Pháp, Nga,
Trung Quốc,…Ngoài ra, còn đưa những quy định hạn chế của luật như: giao nộp
chứng cứ, giám định chứng cứ, yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu,
chứng cứ, bảo vệ chứng cứ. Qua đó, các tác giả đã đưa ra một số kiến nghị hoàn
thiện.
- Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Bình luận về nguyên tắc cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, số 10 (362).
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số nội dung trong quy định về
nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, qua đó khẳng định ý nghĩa của hoạt động chứng minh và cung cấp chứng
cứ trong Tố tụng dân sự (có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc dân sự và tạo điều
kiện cho đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình).
- Phan Thị Thu Hà (2015), “Những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về chứng cứ, chứng minh và một số đề
3
xuất, kiến nghị”, Tạp chí Tòa án nhân dân Tối cao; Đinh Tuấn Anh (2016), “Quy
định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về chứng cứ và chứng minh”, Tạp
chí Kiểm sát, số 18; Võ Văn Hòa (2020), “Một số bất cập về chứng cứ, chứng minh
trong tố tụng dân sự và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19,20;…
Các công trình nêu trên đã phân tích những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc
khi thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về chứng cứ và chứng
minh, qua đó đưa ra một số kiến nghị liên quan đến các vấn đề như: Thời gian giao
nộp, gửi tài liệu chứng cứ; quyền xác minh, thu thập chứng cứ của cá nhân, cơ
quan, tổ chức; Biện pháp thu thập chứng cứ; Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công
khai chứng cứ và hòa giải,…
Như vậy, chế định chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự nói chung
và nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự nói riêng đã
được nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm và mỗi tác giả lại chọn cho mình một
hướng đi riêng. Mặc dù cho đến thời điểm hiện tại chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh
song những kết quả đạt được từ các công trình nghiên cứu nêu trên ít nhiều đều
mang những giá trị khoa học nhất định. Tạo điều kiện cho tác giả có sự hình dung
rõ ràng hơn về vai trò, ý nghĩa, nội dung của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong Tố tụng dân sự và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả
trong suốt quá trình thực hiện Khóa luận này.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ Khóa luận, tác giả chỉ giới hạn ở phạm vi nguyên tắc cung
cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 với các nội dung cụ thể như sau: những vấn đề cơ bản về
nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố tụng dân sự theo quy định
của pháp luật Việt Nam và quy định pháp luật một số quốc gia; làm rõ việc áp dụng
các quy định này trong thực tiễn, rút ra những hạn chế, bất cập. Qua đó đưa ra
những kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành và việc
áp dụng luật của cơ quan xét xử.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp, như phương pháp phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh, bình
4
luận, phương pháp logic, phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp liệt
kê,… Những phương pháp này được vận dụng một cách phù hợp với mục đích và
nội dung nghiên cứu của Khóa luận, được thể hiện cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, phương pháp chứng minh, phương pháp diễn giải,
phương pháp tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong Khóa luận để làm rõ các
khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội dung nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, hay trình bày thực tiễn
áp dụng pháp luật nhằm đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.
- Phương pháp bình luận: được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 qua việc phân
tích, đánh giá việc áp dụng các quy định có liên quan đến nguyên tắc trong thực
tiễn. Là cơ sở để tác giả đưa ra các đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện một số
quy định hiện hành.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng rải rác ở các mục của các chương,
không chỉ làm rõ điểm khác biệt và mối liên hệ chặt chẽ giữa nguyên tắc cung cấp
chứng cứ và chứng minh với các nguyên tắc khác trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 mà còn làm sáng tỏ một số điểm tương đồng và khác biệt trong quy định của
pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia về nguyên tắc cung cấp chứng cứ
và chứng minh.
5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái quát về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong Tố
tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về nguyên tắc
Theo từ vựng triết học Hy Lạp, thuật ngữ nguyên tắc được dịch thành “Archê
(hê)” và được Platon1 định nghĩa là “cái không được sinh ra (agênéton); …cái hiện
hữu đầu tiên hết và sản sinh ra một loạt các tồn tại khác”2. Còn trong từ điển tiếng
Việt, thì “nguyên tắc là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt
việc làm”3.
Từ các khái niệm trên, có thể thấy rằng nguyên tắc chính là những điều cơ
bản, cốt lõi đã được định ra hoặc được quy định mang tính bắt buộc phải tuân theo
trong những hoạt động cụ thể của con người. Do vậy, nếu muốn đạt được kết quả
trong bất kỳ hoạt động có mục đích nào thì đòi hỏi chủ thể tham gia phải xác định
được các nguyên tắc đang tồn tại trong hoạt động đó và đồng thời phải tuân thủ,
chấp hành triệt để nó.
Tương ứng với mỗi lĩnh vực khác nhau tất yếu sẽ có những nguyên tắc khác
nhau và đó chính là kim chỉ nam mang tính chỉ đạo, định hướng chung trong việc
xây dựng và thực hiện lĩnh vực mà nó điều chỉnh. Điều này cũng không ngoại lệ
trong lĩnh vực pháp luật nói chung và ngành luật Tố tụng dân sự (sau đây gọi là
TTDS) nói riêng. Đối với một ngành luật thì nguyên tắc là những tư tưởng pháp lý
chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện các quy định của nó. Tuy
nhiên, trên thực tế, “các tư tưởng, pháp lý chỉ có giá trị bắt buộc nếu được thể hiện
dưới hình thức quy phạm pháp luật. Do vậy, các nguyên tắc của một ngành luật
thường được quy định trong các văn bản pháp luật về ngành luật đó làm cơ sở cho
1
Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, hay còn được Anh hóa là Plato, 428/427 hay 424/423 - 348/347 TCN) là
nhà triết học người Athen trong thời kỳ Cổ điển ở Hy Lạp cổ đại, người sáng lập trường phái tư tưởng Platon,
và Học viện, cơ sở giáo dục đại học đầu tiên ở thế giới phương Tây. Ông được coi là nhân vật quan trọng
trong lịch sử triết học phương Tây và Hy Lạp cổ đại, cùng với người thầy của ông, Socrates, và học trò nổi
tiếng nhất của ông, Aristotle.
2
Platon (245 TCN), Phèdre, http://triethoc.edu.vn/vi/thuat-ngu-triet-hoc/thuat-ngu-chuyen-biet/thuat-ngu-hy-
lap-arche-he-nguyen-tac-nguyen-ly_200.html, truy cập ngày 22/4/2021.
3
Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.694.
6
việc thực hiện và được quy định dưới dạng quy phạm chung”4. Luật TTDS cũng là
một ngành luật của hệ thống pháp luật Việt Nam nên sẽ mang những đặc điểm
tương tự. Theo đó, nguyên tắc của ngành luật TTDS Việt Nam là những tư tưởng
pháp lý chỉ đạo cơ bản, mang tính xuất phát điểm, định hướng cho việc xây dựng,
thực hiện, áp dụng pháp luật TTDS và được ghi nhận trong văn bản pháp quy, cụ
thể là Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây gọi là BLTTDS)5. Mỗi một nguyên tắc cơ
bản trong bộ luật đều được ghi nhận tại một điều luật riêng biệt, thể hiện mỗi nội
dung và ý nghĩa đặc trưng của nguyên tắc đó.
Mặt khác, khi nghiên cứu ngành luật TTDS Việt Nam, có thể nhận thấy quan
hệ lợi ích cần được giải quyết cấp thiết là quan hệ giữa các đương sự, cho nên
đương sự hoàn toàn có quyền và nghĩa vụ chứng minh cho Tòa án và những người
tham gia tố tụng khác thấy được yêu cầu của mình là đúng, là có thật để từ đó bảo
vệ được quyền và lợi ích chính đáng, cũng như sự phản đối yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp. Nhưng để thực hiện được điều đó, các chủ thể chứng minh bao
giờ cũng phải chỉ ra được cơ sở và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự. Nó có thể
là những quy định pháp luật, những tin tức hay những dấu vết về các tình tiết, sự
kiện được thể hiện dưới nhiều hình thức do Tòa án sử dụng làm cơ sở để xét xử, mà
tựu chung lại chính là chứng cứ. Chính vì có tầm quan trọng như vậy nên cung cấp
chứng cứ và chứng minh cũng được xem là một trong những nguyên tắc cơ bản của
ngành luật TTDS Việt Nam.
Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh quy định trong BLTTDS
được kế thừa từ các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm
19896, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 19947 và Pháp lệnh thủ tục
giải quyết tranh chấp lao động năm 19968. Tuy nhiên, tại quy định của các pháp
lệnh này dường như đã có sự đồng nhất nghĩa vụ chứng minh với nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ. Khái niệm chứng minh chỉ bao hàm một ý nghĩa là đương sự phải xuất
4
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân,
tr.35.
5
Giáo trình luật Tố tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội do Nxb. Công an nhân dân xuất
bản năm 2017 đưa ra khái niệm: “Nguyên tắc của luật tố tụng dân sự Việt Nam là những tư tưởng pháp lý chỉ
đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật tố tụng dân sự”.
6
Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Số 27-LCT/HĐNN8) ngày 07/12/1989.
7
8
Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế (Số 31-L/CTN) ngày 29/3/1994.
Điều 5 Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động (Số 48-L/CTN) ngày 11/4/1996.
7
trình các chứng cứ khi đưa ra yêu cầu từ đó chứng tỏ cho Tòa án thấy rằng yêu cầu
của họ đúng, còn ngược lại thì coi như họ không “chứng minh” được yêu cầu của
mình. Vậy, điều quan trọng ở đây không phải là chứng minh mà là chứng cứ. Đồng
nghĩa với việc, nếu đương sự chỉ xuất trình chứng cứ một cách khách quan thì
không cần phải chứng minh, bằng hoạt động của mình, Tòa án cũng có thể tìm ra
được sự thật khách quan của vụ án (quá đề cao vai trò của Tòa trong việc điều tra,
xác minh, thu thập chứng cứ).
Rõ ràng, việc đồng nhất hai nghĩa vụ với nhau là không hợp lý và không có
cơ sở, bởi lẽ việc cung cấp chứng cứ chỉ là một phần trong hoạt động chứng minh.
Trong khi, chứng minh trong tố tụng lại là một quá trình gồm thu thập, cung cấp, sử
dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tế các yêu cầu
của các bên trong vụ án9. Chính vì vậy mà trong một thời gian dài, vai trò thu thập,
cung cấp chứng cứ của đương sự không được chú trọng và đề cao, dẫn đến vai trò
chứng minh của đương sự không được nhận thức đầy đủ cũng như không thể tạo ra
những cơ chế hữu hiệu để đương sự có thể chủ động hoàn thành nghĩa vụ của mình,
từ đó làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Cùng với sự phát triển của trình độ lập pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây gọi là BLTTDS 2004) và BLTTDS năm
2015 lần lượt ra đời đã khắc phục được những hạn chế trước đó. Trách nhiệm điều
tra, xác minh, thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự không còn là “câu chuyện”
của riêng Tòa mà thay vào đó quy định đương sự có lẫn quyền và nghĩa vụ chủ
động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình
là có căn cứ, hợp pháp; thậm chí còn được cụ thể hóa thành nguyên tắc tại Điều 6
BLTTDS10. Qua đó ghi nhận cung cấp chứng cứ và chứng minh dưới hai góc độ:
vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của đương sự cũng như của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Bàn về nguyên tắc này, tác giả nhận thấy rằng pháp luật TTDS của Cộng hòa
Pháp cũng theo hướng xác định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của
đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTDS. Theo nghiên cứu cho
thấy trước thời Pháp thuộc, pháp luật Việt Nam dường như không có sự phân biệt
rạch ròi giữa dân sự và hình sự. Các quy định về thủ tục TTDS với tư cách là thủ
9
Ngô Vĩnh Bạch Dương (2015), “Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7
(282) T4/2015, tr.22.
10
Điều 6 BLTTDS 2015 và Điều 6 BLTTDS 2004.
8
tục tố tụng riêng biệt có lẽ chỉ chính thức được du nhập vào miền Nam Việt Nam
dưới thời Pháp thuộc bằng Nghị định ban hành ngày 16/3/191011; tiếp theo đó là Bộ
dân sự tố tụng Bắc Kì ban hành năm 1917 và Bộ hộ sự thương sự tố tụng Trung
Việt năm 1942 áp dụng tại Bắc Kì và Trung Kì. Do vậy, các quy định về TTDS của
Việt Nam mới chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật TTDS Pháp và dẫn đến sự giao
thoa giữa hai nền pháp luật. Trong BLTTDS Pháp, chế định cung cấp chứng cứ và
chứng minh được quy định tại Mục 4 Chương I Thiên 1 Quyển thứ nhất với nội
dung là những quy tắc chỉ đạo hoạt động TTDS. Theo đó, chương này quy định
những nguyên tắc định hướng, làm cơ sở nền tảng mà chủ thể tiến hành tố tụng
cũng như chủ thể tham gia tố tụng bắt buộc phải tuân thủ.
Từ những phân tích trên, có thể nhận diện nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong TTDS là nguyên tắc cơ bản của BLTTDS, mang tính chỉ đạo
xuyên suốt, định hướng cho việc xây dựng, chi tiết hóa các quy định khác của
BLTTDS và có giá trị bắt buộc tuân thủ đối với chủ thể tham gia tố tụng và chủ thể
tiến hành tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án dân sự.
1.1.2. Đặc điểm về nguyên tắc
Từ khái niệm nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS, có
thể rút ra một số điểm đặc trưng của nguyên tắc này như sau:
Thứ nhất, chính vì là một trong những nguyên tắc cơ bản của ngành luật
TTDS Việt Nam nên nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh cũng được xây
dựng dựa trên cơ sở các nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, nguyên tắc này là tư tưởng pháp lý cơ bản mang tính nền tảng yêu cầu các
chủ thể có thẩm quyền phải chấp hành trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy
phạm pháp luật cụ thể cũng như bắt buộc các chủ thể tiến hành tố tụng, chủ thể
tham gia tố tụng và các chủ thể khác tuân thủ triệt để trong quá trình tham gia giải
quyết vụ việc dân sự12.
Thứ hai, cung cấp chứng cứ và chứng minh là hai hoạt động có mối liên hệ
mật thiết với nhau, được xem như là hai mặt không thể tách rời trong một chỉnh thể.
Nói cách khác, mục đích của việc thu thập, cung cấp chứng cứ nhằm tạo tiền đề cơ
11
Nguyễn Huy Đẩu, Nguyễn Văn Lượng (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Sài Gòn, Nxb. Bộ Tư pháp,
tr.20. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Đẩu thì văn bản này được gọi tên là Bộ luật dân sự tố tụng hiện
hành tại Nam Việt.
12
Nguyễn Thị Thu Sương (2020), Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng Dân sự, Luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.13.
9
sở vật chất quan trọng cho việc chứng minh tính hợp pháp và có căn cứ đối với yêu
cầu đưa ra của các chủ thể. Ngược lại, nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động chứng
minh là việc tái hiện lại sự thật khách quan, làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc
dân sự bằng những luận cứ, lập luận logic dựa trên các chứng cứ. Xét cho cùng, quá
trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ đúng đắn (thỏa
mãn ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp), bao gồm bốn
giai đoạn khác nhau là thu thập, cung cấp, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Các giai
đoạn này gắn kết chặt chẽ với nhau, có giai đoạn trước mới có giai đoạn sau, và giai
đoạn sau sẽ là cơ sở để đánh giá tính đúng đắn, triệt để của giai đoạn trước. Phải có
hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động kiểm tra, đánh
giá chứng cứ và kết quả của hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ sẽ làm phát sinh
những nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và toàn
diện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc thu thập, cung cấp chứng cứ có đầy
đủ và đúng hay không.
Có ý kiến cho rằng: “Hai yếu tố cấu thành vụ án dân sự là yếu tố chủ quan
(đương sự) và yếu tố khách quan (bao gồm đối tượng – mục đích khởi kiện và
nguyên nhân – cách thức bảo vệ quyền của các chủ thể trước Tòa án). Hoạt động
chứng minh được xếp vào các yếu tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này có
nghĩa là yếu tố cấu thành vụ án đã vốn có, vốn đã tồn tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt
lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất”13; “dùng chứng cứ để chứng minh không
chỉ là nguyên tắc tố tụng mà còn thể hiện sự văn minh, tính logic và khoa học mà
con người đã đạt được trong lĩnh vực khoa học pháp lý nói chung, khoa học xét xử
nói riêng”14. Thiết nghĩ những ý kiến này đã phản ánh khá rõ về mối liên hệ giữa
cung cấp chứng cứ và chứng minh. Theo đó, nếu việc cung cấp chỉ dừng lại ở khía
cạnh đơn thuần là một hoạt động tố tụng độc lập mà không sử dụng để chứng minh
cho yêu cầu hoặc phản đối, hay có chứng minh nhưng chỉ là lời nói suông mà không
có chứng cứ thì đã đi ngược lại với nguyên tắc tại Điều 6 BLTTDS 2015, khi đó
13
Quách Mạnh Quyết, “Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự - Vấn đề cơ bản nhất của tố
tụng dân sự Việt Nam hiện nay”, Công trình dự thi giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học” Đại học
Luật Hà Nội năm 2009, https://luatminhkhue.vn/duong-su---chu-the-dau-tien-va-quan-trong-nhat-cua-hoatdong-chung-minh-trong-to-tung-dan-su.aspx, truy cập ngày 23/4/2021.
14
Trịnh Thị Oanh (2017), Nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong Tố tụng dân sự từ thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã
hội, tr.9.
10
đương sự phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc không đảm bảo quyền và
nghĩa vụ. Đồng thời, Tòa án cũng không có cơ sở để tìm ra sự thật của vụ án, thậm
chí có thể là trả đơn khởi kiện.
Thứ ba, nội hàm chính của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh là
đảm bảo quyền tham gia tố tụng của đương sự thông qua hoạt động cung cấp chứng
cứ và chứng minh. Đầu tiên, xuất phát từ quyền tự định đoạt đối với việc khởi kiện,
người khởi kiện phải nộp đơn khởi kiện kèm theo các tài liệu, chứng cứ liên quan để
được Tòa án có thẩm quyền xem xét thụ lý. Đơn khởi kiện chính là biểu hiện rõ nét
nhất của quyền đi kiện (tố quyền) của cá nhân, cơ quan, tổ chức; là hình thức duy
nhất được quy định tại pháp luật TTDS Việt Nam để người khởi kiện có thể sử dụng
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, trong khi “việc bắt
đầu vụ kiện tại Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp tại Pháp có thể được thực hiện dưới
nhiều hình thức như thông qua việc gửi giấy tống đạt ra Tòa hoặc các bên tự nguyện
đến trình diện trước Tòa để yêu cầu xét xử tranh chấp của họ hoặc nếu giá ngạch vụ
kiện không vượt quá thẩm quyền sơ thẩm thì Tòa án có thể thụ lý vụ án trên cơ sở
tờ khai của đương sự gửi phòng lục sự”15.
Khi được thụ lý, đơn khởi kiện sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ được
quy định cụ thể trong BLTTDS, buộc nguyên đơn không thể tự xử để bảo vệ quyền
lợi của mình, buộc bị đơn dù không muốn cũng phải chịu xét xử đồng thời và cả
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng bị “cuốn” vào. Theo đó sẽ diễn ra nhiều
hoạt động đi kèm như: hoạt động cung cấp chứng cứ của nguyên đơn để chứng
minh cho tính hợp pháp và có căn cứ đối với yêu cầu mà mình đưa ra; hoạt động
cung cấp chứng cứ và chứng minh của bị đơn để bác yêu cầu của nguyên đơn hay
cho yêu cầu phản tố của họ (nếu có); hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu mà nguyên đơn, bị đơn
đưa ra hoặc củng cố cho yêu cầu độc lập của mình (nếu có).
Thứ tư, chủ thể của hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh rất đa dạng.
Đây chính là điểm khác biệt cơ bản, đặc thù giữa ngành luật TTDS với ngành luật
tố tụng khác. Trong pháp luật Tố tụng hình sự (TTHS), trách nhiệm chứng minh
không thuộc về chủ thể bị buộc tội mà thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và Tòa án. Bởi
15
Trần Anh Tuấn (2015), “Thủ tục tố tụng dân sự của một số nước châu Âu và so sánh với thủ tục tố tụng
dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 11/2015, tr.54-55.
11
lẽ, “trách nhiệm phát hiện xử lý tội phạm phải thuộc về Nhà nước với tư cách người
nắm giữ quyền lực công và có chức năng duy trì và bảo vệ trật tự xã hội. Chỉ có
Nhà nước với công cụ là quyền lực Nhà nước và các điều kiện thuận lợi khác như
con người, phương tiện kỹ thuật, cơ sở pháp lý,… mới có thể xác định được sự thật
một cách thuận lợi nhất”16. Hơn nữa, “mối quan hệ giữa bên buộc tội và bên bị buộc
tội là quan hệ giữa Nhà nước và người được suy đoán là phạm tội... Khi các cơ quan
này khởi tố một vụ án hình sự nghĩa là đang đưa ra một yêu cầu buộc tội, khi đó họ
phải chứng minh việc buộc tội đó là có căn cứ và hợp pháp – điều này rất phù hợp
với nguyên lý “Ai đưa ra yêu cầu, người đó phải chứng minh”…”17. Ngược lại với
cơ quan tiến hành tố tụng, “người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh là mình vô tội”18. Họ có thể chứng minh bằng cách đưa ra chứng cứ,
khai báo nhưng cũng có quyền được im lặng (Right to silence19).
Trái ngược với pháp luật TTHS, chủ thể có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,
chứng minh trong pháp luật TTDS rất đa dạng. Theo đó, đương sự là chủ thể đóng
vai trò chủ đạo trong hoạt động cung cấp chứng cứ và chứng minh; cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ khi có yêu cầu của đương sự; hay các cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện
vì lợi ích của chủ thể khác, vì lợi ích của cộng đồng, Nhà nước; thậm chí Tòa án
cũng có thể thu thập chứng cứ hoặc tiến hành một số hoạt động tố tụng để hỗ trợ
đương sự và đến cả VKSND cũng có quyền tự thu thập chứng cứ để bảo đảm cho
việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái
thẩm20. Tuy nhiên, nếu đối sánh, chủ thể cung cấp chứng cứ, chứng minh trong Tố
tụng hành chính cũng có sự tương đồng so với TTDS, song nó vẫn còn hạn chế khi
trong luật lại “bỏ đi hai chủ thể quan trọng cũng có nghĩa vụ chứng minh trong tố
16
Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Hồng
Đức, tr.15-16.
17
Vũ Hoàng Anh (2019), “Nghĩa vụ chứng minh của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp
chí Luật sư Việt Nam, số 4/2019, tr.9.
18
19
Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Họ có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội. Quyền này không được ghi nhận trực tiếp trong Bộ luật Tố tụng hình sự
hiện hành mà thể hiện gián tiếp trong một số điều luật, cụ thể tại điểm e khoản 1 Điều 58 và khoản 2 của
Điều 59,60,61. Nếu họ thành khẩn khai báo sẽ được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng nếu ngược
lại cũng sẽ không bị coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như ngoan cố, chối tội.
20
Khoản 6 Điều 97 BLTTDS 2015.
12
tụng hành chính là người đại diện của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự”21.
1.1.3. Ý nghĩa về nguyên tắc
Việc quy định nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh đã thể hiện
được tính chất đặc thù của ngành luật TTDS, là cơ sở để xây dựng, giải thích,
hướng dẫn các quy phạm pháp luật phù hợp, đặc biệt là các quy phạm liên quan đến
chứng cứ, chứng minh nhằm tránh sự mâu thuẫn, chồng chéo trong từng quy phạm
pháp luật cụ thể hoặc giữa các văn bản pháp luật với nhau. Bên cạnh đó, việc tuân
thủ các nguyên tắc của BLTTDS nói chung và nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong TTDS nói riêng sẽ tạo điều kiện cho cơ quan tiến hành tố tụng
tìm ra bản chất sự thật của vụ án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ
thể, đẩy mạnh hoạt động tố tụng diễn ra nhanh chóng và ngăn chặn các hành vi vi
phạm pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Ngoài các ý
nghĩa chung như đã phân tích ở trên thì nguyên tắc này còn mang những ý nghĩa
đặc thù sau đây:
Thứ nhất, đảm bảo quyền quyết định và tự định đoạt cho đương sự.
Đương sự mà đặc biệt chủ thể khởi kiện chính là người khởi phát, “châm
ngòi” cho một quá trình tố tụng. Cho nên phần lớn, bản thân họ sẽ biết rõ các thông
tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu của mình đưa ra cũng như những đòi
hỏi vô lý từ các chủ thể khác. Do vậy, để có cơ sở chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ, đương sự phải có trách nhiệm hàng đầu trong việc chủ động thu
thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ. “Quyền chủ động thu thập chứng cứ của
đương sự có nghĩa là đương sự có thể thu thập chứng cứ ở bất cứ mọi nơi, mọi lúc,
phù hợp với kế hoạch và điều kiện chủ quan của mình, không bị ràng buộc, thúc ép
hay phải tuân theo một chỉ đạo hoặc điều khiển của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào. Đương sự chỉ có một sức ép duy nhất đó là nếu không thu thập được các chứng
cứ một cách đầy đủ, khách quan thì có thể sẽ không chứng minh được yêu cầu của
mình đã đề ra”22, từ đó không đảm bảo được quyền quyết định và tự định đoạt cho
đương sự.
21
Nguyễn Cảnh Hợp, Lê Việt Sơn (2020), Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hành chính, Giải thích và
bình luận luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.145.
22
Trần Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. Tư pháp, tr.17-18.
13
- Xem thêm -