TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
KIM NGỌC ÁNH
CHẾ ĐỊNH NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHẾ ĐỊNH NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020
SINH VIÊN THỰC HIỆN: KIM NGỌC ÁNH
KHÓA: 42
MSSV: 1753801011005
GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: THẠC SĨ TĂNG THỊ BÍCH DIỄM
TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
Lời cam đoan
Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Tăng Thị Bích Diễm, đảm
bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Ký tên
KIM NGỌC ÁNH
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT
LDN
Luật Doanh nghiệp
BLDS
Bộ luật Dân sự
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
NĐD
Ngƣời đại diện
NĐDTPL
Ngƣời đại diện theo pháp luật
DNTN
Doanh nghiệp tƣ nhân
CTTNHH
Công ty trách nhiệm hữu hạn
CTHD
Công ty hợp danh
CTCP
Công ty cổ phần
TVHD
Thành viên hợp danh
HĐTV
Hội đồng thành viên
HĐQT
Hội đồng quản trị
ĐHĐCĐ
Đại hội đồng cổ đông
GCN
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI ĐẠI DIỆN
THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2020............................ 7
1.1. Cơ sở hình thành mối quan hệ giữa ngƣời đại diện theo pháp luật với doanh
nghiệp .......................................................................................................................... 7
1.1.1. Nguồn gốc quan hệ đại diện giữa ngƣời đại diện theo pháp luật với doanh
nghiệp .......................................................................................................................... 7
1.1.2. Quan hệ đại diện giữa ngƣời đại diện theo pháp luật với doanh nghiệp........ 10
1.2. Khái niệm về ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ..................... 13
1.3. Đặc điểm của chế định ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...... 16
1.4. Vai trò của chế định về ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ..... 18
CHƢƠNG 2. XÁC LẬP, CHẤM DỨT TƢ CÁCH NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2020 VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN ...................................................................................................................... 22
2.1. Căn cứ xác lập tƣ cách ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...... 22
2.1.1. Theo quy định của pháp luật .......................................................................... 22
2.1.2. Theo Điều lệ công ty ...................................................................................... 25
2.1.3. Sự chỉ định của Tòa án ................................................................................... 27
2.2. Điều kiện làm ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .................... 28
2.2.1. Điều kiện về chức danh quản lý ..................................................................... 28
2.2.2. Điều kiện về nơi cƣ trú ................................................................................... 31
2.2.3. Một số điều kiện khác .................................................................................... 32
2.3. Thời điểm xác lập tƣ cách ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp . 35
2.4. Chấm dứt tƣ cách ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .............. 36
2.5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật. ..................................................................... 39
CHƢƠNG 3. THẨM QUYỀN, TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN
THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2020 VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN ......................................................................................................... 42
3.1. Thẩm quyền của ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ................ 42
3.1.1. Đại diện doanh nghiệp trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.......... 42
3.1.2. Đại diện doanh nghiệp trong các quan hệ tố tụng .......................................... 45
3.1.3. Một số quyền khác của ngƣời đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp... 48
3.1.4. Giới hạn thẩm quyền của ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .. 49
3.2. Trách nhiệm của ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ................ 51
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật. ..................................................................... 55
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 58
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
XIII, diễn ra vào ngày 28/03/2021 tại trụ sở Quốc hội, thủ tƣớng Nguyễn Xuân
Phúc đã trình bày Chiến lƣợc Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021 –
2030, chủ đề của chiến lƣợc có nêu rõ: Việt Nam phấn đấu đến năm 2030 là nƣớc
đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045
trở thành nƣớc phát triển, thu nhập cao1. Một trong những động lực mang tính tiên
quyết để thực hiện thành công chiến lƣợc nêu trên không thể không kể đến là sự
phát triển mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp cả về lƣợng và chất, với nhiều tập
đoàn và doanh nghiệp đã có sự đột phá trong sản xuất công nghiệp và công nghệ,
chủ động tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Chính vì thế, doanh
nghiệp đã dần khẳng định đƣợc vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc
dân và đóng góp nhiều giá trị cho xã hội. Để đạt đƣợc những thành công đó, doanh
nghiệp luôn phải dựa vào sức mạnh của con ngƣời. Một trong những nhân tố quan
trọng ảnh hƣởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp chính là vai trò của
ngƣời đại diện theo pháp luật (NĐDTPL). Doanh nghiệp vốn là một thực thể pháp
lý độc lập, bản thân doanh nghiệp không thể tự xác lập và thực hiện các quyền,
nghĩa vụ của mình với Nhà nƣớc, với đối tác, khách hàng hay với chủ nợ/con nợ mà
phải xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ thông qua hành vi của ngƣời đại diện
(NĐD)2.
Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng đó, các nhà làm luật của Việt Nam đã
không ngừng nghiên cứu và có những thay đổi về pháp luật đối với NĐD của doanh
nghiệp. Sự thay đổi theo hƣớng tiệm cận hơn với chế định NĐDTPL của một số
nƣớc trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp thành lập, hoạt
động tại Việt Nam. Gần đây nhất, Luật Doanh nghiệp (LDN) 2020 đƣợc Quốc hội
thông qua ngày 17/06/2020 đã có những quy định mới và khắc phục đƣợc một số
hạn chế của LDN 2014, nhƣng bên cạnh đó vẫn còn bỏ ngỏ một số bất cập đƣợc
nhận thấy trong quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế. Đồng thời, sự thiếu vắng
về mặt lý luận của NĐDTPL đã gây ra những khó khăn nhất định khiến các doanh
nghiệp khá lúng túng trong việc tiếp cận và áp dụng các quy định này.
Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Chế định ngƣời đại diện theo pháp luật trong
Luật doanh nghiệp 2020” để làm khóa luận tốt nghiệp với mong muốn có thêm một
“Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030”,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thuxiii/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-10-nam-2021-2030-3671, truy cập ngày 25/04/2021
2
Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”,
Tạp chí Khoa học và pháp lý, Số 4(41)/2007, tr.21.
1
1
công trình nghiên cứu về chế định NĐDTPL một cách đầy đủ và toàn diện dƣới góc
độ pháp lý và quản trị doanh nghiệp. Từ đó, có những kiến nghị có ích góp phần tạo
ra một môi trƣờng pháp lý an toàn, phù hợp với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp
trong hoạt động đầu tƣ, kinh doanh, đồng thời nâng cao hoạt động quản lý của Nhà
nƣớc.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định về NĐDTPL của doanh nghiệp từ lâu đã không còn là một đề tài
quá mới mẻ. Kể từ khi pháp luật Việt Nam ghi nhận những quy định về NĐDTPL
thì đã có rất nhiều tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu và đề xuất những kiến nghị
hữu ích nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật. Một số công trình nghiên cứu
dƣới dạng sách đã đề cập tới vấn đề về NĐDTPL của doanh nghiệp nhƣ sau:
Tác giả Trƣơng Nhật Quang đã dành chƣơng số 7 trong quyển sách với tựa
đề: “Pháp luật về doanh nghiệp – Các vấn đề pháp lý cơ bản”, NXB Dân trí, năm
2016 để phân tích một cách tổng quan các quy định về NĐDTPL theo LDN 2014.
Tác giả Đỗ Văn Đại đã cung cấp cho ngƣời đọc những nội dung mang tính lý
luận và thực tiễn áp dụng các quy định về NĐD nói chung, trong đó có bao gồm
NĐDTPL của doanh nghiệp trong quyển sách có tựa đề “Luật hợp đồng Việt Nam Bản án và bình luận bản án”, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.258 331; bình luận những điểm mới của BLDS 2015 về chế định NĐD trong nội dung
của quyển sách “Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015”,
NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, chƣơng 7.
Tuy nhiên, vì chỉ dành một dung lƣợng nhỏ để viết về chế định NĐDTPL
nên những công trình nêu trên chƣa thể khái quát một cách toàn diện và có hệ thống
các vấn đề lý luận về NĐDTPL của doanh nghiệp. Ngoài ra, một số tác giả cũng đã
lựa chọn đề tài này để viết luận văn và khóa luận, có thể kể đến nhƣ:
Tác giả Lê Việt Phƣơng với luận văn “Người đại diện theo pháp luật của
công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam” năm 2013. Luận văn đã nghiên cứu
khá đầy đủ và toàn diện về chế định NĐDTPL. Tuy nhiên công trình nghiên cứu
này đƣợc thực hiện theo LDN 2005, vốn có nhiều sự khác biệt với các quy định
hiện hành và nay chỉ còn có giá trị tham khảo.
Tác giả Mai Thị Ngân Hà với luận văn “Pháp luật về người đại diện theo
pháp luật của công ty” năm 2020 và tác giả Ngô Thị Huệ My với khóa luận “Chế
định người đại diện theo pháp luật theo Luật doanh nghiệp 2014” năm 2017. Cả hai
đều tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về NĐDTPL và thực trạng
quy định pháp luật về NĐDTPL theo LDN 2014, đồng thời đƣa ra kiến nghị hoàn
thiện một số bất cập.
2
Tác giả Lê Nguyễn Huyền Trang với khóa luận “Chế định người đại diện
theo pháp luật trong luật doanh nghiệp 2014” năm 2020 đã tiếp cận đề tài theo các
khía cạnh cụ thể của chế định NĐDTPL, đồng thời đánh giá, đề xuất cơ chế quản lý
và kiểm soát NĐDTPL.
Từ lâu, nhiều tác giả khác cũng đã nghiên cứu về NĐDTPL trong LDN, phần
lớn dƣới hình thức là các bài báo khoa học, tiêu biểu là:
Bài viết “Học thuyết người đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt
Nam” của Bùi Xuân Hải trong Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2007. Bài viết tập
trung phân tích nguồn gốc, mối quan hệ giữa cổ đông và ngƣời quản lý công ty theo
pháp luật các nƣớc Phƣơng Tây, trình bày một số học thuyết tiêu biểu về NĐD và
bình luận những vấn đề thực tiễn trong quản trị doanh nghiệp và pháp luật doanh
nghiệp ở Việt Nam.
Bài viết “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn từ
góc độ luật so sánh” của Ngô Huy Cƣơng trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
04/2009. Tác giả đã phân tích, bình luận và so sánh chế định NĐDTPL của các
quốc gia, đƣa ra quan niệm của một số học giả và đánh giá những điểm hạn chế của
Bộ luật dân sự (BLDS) 2005.
Đặc biệt, khi LDN 2014 ra đời với những quy định mang tính đột phá và trao
quyền cho doanh nghiệp, không ít tác giả đã nghiên cứu chế định NĐD theo các quy
định của LDN 2014, trong đó có thể kể đến:
Bài viết “Hành lang pháp lý mới về ngƣời đại diện theo pháp luật của Luật
Doanh nghiệp 2014” của Bùi Đức Giang trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
06/2015 đã tập trung phân tích các quy định mới của LDN 2014 về chế định
NĐDTPL, đặc biệt về việc chỉ định, quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL cùng trách
nhiệm dân sự của chức danh này.
Bài viết “Ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh
nghiệp 2014 dƣới góc độ quyền tự do kinh doanh” của Ngô Gia Hoàng, Nguyễn Thị
Thƣơng trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 07/2016. Các tác giả đã tập trung
khái quát về NĐDTPL của doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh, phân tích
những điểm mới và chỉ ra những vƣớng mắc khi áp dụng các quy định về
NĐDTPL.
Bài viết “Quy định mới của Luật Doanh nghiệp 2014 về ngƣời đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp”, tác giả Vũ Lan Anh trong Tạp chí Luật học số
04/2016. Tác giả đã phân tích và bình luận những điểm mới quan trọng mang tính
đột phá của LDN 2014 về NĐDTPL của doanh nghiệp và chỉ ra những điểm cần lƣu
ý trong việc áp dụng trên thực tế.
3
Bài viết “Ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp: Thực trạng và
hƣớng hoàn thiện” của Phan Thành Nhân, Đỗ Thị Nhung trong Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 12/2018. Hai tác giả đã tập trung phân tích, đánh giá các quy định
của LDN 2014 về NĐDTPL của doanh nghiệp cũng nhƣ thực tiễn áp dụng và đƣa ra
một số giải pháp hoàn thiện.
Vì các công trình nghiên cứu nêu trên đƣợc thể hiện dƣới hình thức là bài
báo khoa học nên các vấn đề về NĐDTPL của doanh nghiệp chƣa đƣợc nghiên cứu
một cách đầy đủ, chỉ mang tính khái quát chung và tổng quan về NĐDTPL. Một số
công trình nghiên cứu chỉ tập trung phát hiện, đánh giá những điểm mới và điểm bất
cập trong quá trình áp dụng pháp luật nên chƣa giàu tính lý luận. Thêm vào đó, hầu
hết các công trình nghiên cứu đều đƣợc xây dựng dựa trên các quy định của LDN
2005, LDN 2014, vốn là các văn bản pháp luật đã hết hiệu lực.
Tuy nhiên, những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đều rất quý báu vì đã
giúp ngƣời đọc nhận thức đƣợc bản chất và vai trò của chế định NĐDTPL trong
doanh nghiệp. Và chắc chắn đây sẽ là nền tảng vững chắc để tác giả tiếp tục nghiên
cứu một cách khái quát và toàn diện hơn “Chế định ngƣời đại diện theo pháp luật
trong Luật Doanh nghiệp 2020”, đồng thời đƣa ra những kiến nghị có ích để hoàn
thiện môi trƣờng pháp lý giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong hoạt động kinh
doanh.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Thông qua nghiên cứu đề tài “Chế định ngƣời đại diện theo pháp luật trong
Luật Doanh nghiệp 2020”, tác giả hƣớng tới các mục đích quan trọng nhƣ sau:
Thứ nhất, khái quát các vấn đề lý luận liên quan đến NĐDTPL của doanh
nghiệp dựa trên các học thuyết và quan điểm của một số tác giả.
Thứ hai, phân tích và đánh giá khách quan các quy định về NĐDTPL của
doanh nghiệp theo LDN 2020; đồng thời chỉ ra một số điểm mới và bất cập của
LDN 2020 so với LDN 2005, LDN 2014.
Thứ ba, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của LDN 2020 về NĐDTPL
và đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện dựa trên cơ sở lý luận, pháp luật và thực tiễn
3.
đã nghiên cứu trong đề tài.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả tập trung vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, cơ sở hình thành quan hệ đại diện và các vấn đề lý luận của
NĐDTPL của doanh nghiệp;
Thứ hai, thực trạng quy định pháp luật về NĐDTPL của doanh nghiệp;
4.
4.1.
4
4.2.
Thứ ba, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về NĐDTPL của doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận quan trọng liên quan đến chế
định NĐDTPL theo quy định của LDN 2020, BLDS 2015 và các văn bản pháp luật
chuyên ngành có liên quan đến chủ thể này. Đề tài cũng chú trọng nghiên cứu thực
tiễn áp dụng quy định của LDN về NĐDTPL thông qua các tranh chấp đƣợc xét xử
tại Tòa án, quy định trong Điều lệ của các công ty đang hoạt động.
Trong phạm vi khóa luận, tác giả tập trung nghiên cứu chế định NĐDTPL
của các loại hình doanh nghiệp sau: Doanh nghiệp tƣ nhân (DNTN), Công ty hợp
danh (CTHD), Công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH) và Công ty cổ phần
(CTCP).
Ngoài ra, để làm sáng tỏ các vấn đề pháp lý và đƣa ra các kiến nghị hoàn
thiện phù hợp, tác giả sẽ so sánh, đối chiếu các quy định về NĐDTPL trong LDN
2020 với một số quy định trong LDN 2005, LDN 2014 và tham khảo một số quy
định trong pháp luật của một số quốc gia nhƣ Bộ luật dân sự Pháp 1804, Bộ luật
Dân sự và thƣơng mại Thái Lan 1925, Luật công ty Úc 2001, Luật Công ty Nhật
Bản 2005, Luật Công ty Vƣơng quốc Anh 2006, Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn
của Đức 1892.
5.
Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài một cách khái quát và toàn diện, phản ánh đầy đủ các
khía cạnh của chế định NĐDTPL trong LDN 2020, tác giả đã sử dụng phối hợp
nhiều phƣơng pháp nghiên cứu, cụ thể là:
Thứ nhất, phƣơng pháp tra cứu, tìm kiếm thông tin để thu thập đƣợc những
nguồn tài liệu phong phú nhƣ các văn bản quy phạm pháp luật, sách, luận văn, khóa
luận, tạp chí, trang thông tin điện tử, bản án có liên quan đến nội dung của đề tài.
Thứ hai, phƣơng pháp phân tích, đánh giá để nghiên cứu một cách cụ thể và
“mổ xẻ” các vấn đề pháp lý, cho thấy đƣợc ƣu điểm, hạn chế của các quy định pháp
luật và phản ánh đƣợc thực trạng áp dụng pháp luật trên thực tế. Đây là phƣơng
pháp đƣợc sử dụng xuyên suốt khóa luận và tập trung chủ yếu ở chƣơng 2 và
chƣơng 3.
Thứ ba, phƣơng pháp so sánh để chỉ ra các quy định mới, điểm tiến bộ của
LDN 2020 và sự khác biệt trong quy định của pháp luật trong nƣớc với các quy
định của pháp luật nƣớc ngoài về chế định NĐDTPL của doanh nghiệp từ đó có
những gợi mở để đề xuất hƣớng hoàn thiện pháp luật.
5
Thứ tư, phƣơng pháp tổng hợp. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để tổng hợp
những nguồn thông tin đã đƣợc thu thập, tìm kiếm và để tổng kết các vấn đề nghiên
cứu sau khi phân tích, đánh giá, so sánh.
6.
Bố cục tổng quát của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận đƣợc
chia thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về chế định ngƣời đại diện theo pháp luật
trong Luật Doanh nghiệp 2020.
Chƣơng 2: Xác lập, chấm dứt tƣ cách ngƣời đại diện theo pháp luật trong
Luật Doanh nghiệp 2020 và kiến nghị hoàn thiện.
Chƣơng 3: Thẩm quyền, trách nhiệm của ngƣời đại diện theo pháp luật trong
Luật Doanh nghiệp 2020 và kiến nghị hoàn thiện.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2020
1.1. Cơ sở hình thành mối quan hệ giữa ngƣời đại diện theo pháp luật với
doanh nghiệp
1.1.1. Nguồn gốc quan hệ đại diện giữa ngƣời đại diện theo pháp luật với
doanh nghiệp
Theo quan điểm của Các Mác thì bản chất của con ngƣời là sự tổng hòa của
các mối quan hệ xã hội. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó thông qua cách
thức con ngƣời tƣơng tác, trao đổi, giao tiếp với nhau để xác lập giao dịch nhằm đáp
ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần. Hầu hết mọi ngƣời sẽ tự mình xác lập giao
dịch để đáp ứng những nhu cầu của chính mình. Tuy nhiên, không phải ai cũng có
đủ khả năng để tự mình xác lập tất cả giao dịch đó, thậm chí là có những ngƣời bị
mất hoặc không có năng lực để xác lập, tiến hành giao dịch. Mặt khác, nhờ vào
trình độ học vấn, kinh nghiệm mà một ngƣời trở nên thông thạo đối với một hoặc
một số công việc nhất định. Để đảm bảo cho giao dịch đƣợc xác lập và tiến hành
một cách thuận tiện, tránh đƣợc rủi ro, tiết kiệm thời gian, chi phí, con ngƣời dần có
xu hƣớng nhờ ngƣời khác thay mình xác lập, thực hiện các giao dịch nhằm đáp ứng
các nhu cầu của chính mình. Từ đó, quan hệ đại diện đƣợc hình thành3.
Trƣớc công nguyên, Luật La Mã không chấp nhận vấn đề đại diện do tính
chất trọng hình thức đối với hợp đồng4. Đến thế kỉ XVIII, vấn đề đại diện đƣợc thúc
đẩy ở châu Âu lục địa bởi các luật gia theo trƣờng phái luật tự nhiên5. Còn với quốc
gia theo truyền thống luật Common law, pháp luật về đại diện bắt đầu từ câu châm
ngôn La-tinh: “Qio facit per alium, facit per se”, tạm dịch là “hành động của một
ngƣời thông qua chủ thể khác đƣợc pháp luật coi là hành động của chính ngƣời đó”,
pháp luật về đại diện đƣợc hình thành6. Có thể thấy, sự thay mặt hành động của một
cá nhân cho một cá nhân khác, hoặc là cho một nhóm ngƣời đã dần đƣợc thừa nhận
và ngày càng đƣợc vận dụng một cách phổ biến trong xã hội. Dƣới sự tác động của
các cuộc cách mạng công nghiệp, sự gia tăng sản xuất và gia tăng về số lƣợng lao
động đã đặt ra vấn đề cần có ngƣời thay mặt ngƣời chủ quản lý một phần hoặc toàn
bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhƣ vậy, ngoài vai trò là phƣơng thức giúp một
Lê Việt Phƣơng (2013), Người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định của pháp luật
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật, Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.5
4
Ngô Huy Cƣơng (2009), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – nhìn từ góc
độ luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 (252)/2009, tr.26.
5
Ngô Huy Cƣơng, tlđd (4), tr.26
6
Hồ Ngọc Hiển (2007), “Nghĩa vụ của ngƣời đại diện và ngƣời ủy quyền theo pháp luật kinh
doanh của Hòa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tƣơng ứng của Việt Nam”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 03/2007, tr.57.
3
7
ngƣời có thể đạt đƣợc những nhu cầu thiết yếu của mình mà không cần trực tiếp
tham gia xác lập, thực hiện giao dịch thì quan hệ đại diện còn đƣợc hình thành và hỗ
trợ đắc lực trong việc quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thƣơng nhân,
chủ nhà máy, xí nghiệp. Với vai trò quan trọng đó, quan hệ đại diện đã đƣợc các
nhà làm luật quan tâm và xây dựng các định nghĩa theo đặc thù pháp luật của từng
quốc gia. Chẳng hạn nhƣ:
Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 đã quy định: “Đại diện là hợp đồng, theo đó,
một ngƣời trao cho ngƣời khác thực hiện một công việc nhân danh và vì lợi ích của
ngƣời đƣợc đại diện”7. Định nghĩa này cho thấy tồn tại một mối quan hệ hợp đồng
giữa NĐD và ngƣời đƣợc đại diện, NĐD sẽ tiến hành một công việc “nhân danh” và
“vì lợi ích” của ngƣời đƣợc đại diện.
Bộ luật Dân sự và Thƣơng mại Thái Lan năm 1925 định nghĩa về quan hệ
đại diện nhƣ sau: “Đại diện là một hợp đồng, trong đó một ngƣời gọi là ngƣời đại
diện đƣợc quyền hành động cho một ngƣời gọi là ngƣời đƣợc đại diện và đồng ý
hành động nhƣ vậy”8. Các nhà làm luật đã thừa nhận rằng một ngƣời có thể biểu lộ
ý chí của mình thông qua hành động của chính bản thân mình hoặc thông qua hành
động của một ngƣời khác bằng cơ chế đại diện. Và tƣơng tự nhƣ những quan hệ dân
sự khác, các bên phải có sự tự do thỏa thuận, tự do ý chí.
Là một quan hệ phổ biến trong xã hội nên việc không làm vô hiệu hóa các
hợp đồng đƣợc giao kết thông qua đại diện là rất quan trọng, bởi về phƣơng diện vĩ
mô nó thúc đẩy phân công lao động xã hội và tăng cƣờng giao lƣu dân sự, và về
phƣơng diện vi mô nó giúp cho các chủ thể thuận tiện hơn trong việc giao kết hợp
đồng.9 Điều này có thể đƣợc chứng minh thông qua việc quan hệ đại diện không chỉ
dừng lại là quan hệ đại diện giữa cá nhân và cá nhân, mà còn có thể là quan hệ giữa
cá nhân với các chủ thể khác đƣợc thừa nhận bởi pháp luật. Cùng với sự phát triển
của kinh tế - xã hội đã có nhiều chủ thể có tƣ cách pháp lý khác nhau xuất hiện và
tham gia vào quan hệ đại diện. Đặc biệt, là sự ra đời của pháp nhân – công ty trên
cơ sở tự do ý chí của con ngƣời, xuất phát từ nhu cầu về tự do lập hội và tự do kinh
doanh. Khi đáp ứng đƣợc những điều kiện luật định thì các thực thể này đƣợc xem
là một chủ thể pháp lý độc lập, có những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định. Mặc dù
đƣợc nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ pháp luật nhƣng pháp nhân
vẫn chỉ là một nhóm ngƣời có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản riêng và tự chịu
Điều 1984 Bộ luật Dân sự Pháp 1804 (French Civil Code), https://www.napoleonseries.org/research/government/code/book3/c_title13.html#chapter1, truy cập ngày 15/6/2020
8
Điều 797 Bộ luật dân sự và Thƣơng mại Thái Lan 1925 (Thailand Civil and Commercial Code),
https://www.samuiforsale.com/law-texts/thailand-civil-code-part-2.html#770, truy cập ngày
15/6/2021
9
Ngô Huy Cƣơng, tlđd (4), tr.26.
7
8
trách nhiệm bằng chính tài sản đó mà không có một hình hài cụ thể nhƣ một con
ngƣời10. Vì vậy, khi muốn tham gia vào các quan hệ xã hội và thực hiện các trách
nhiệm pháp lý của mình thì công ty phải thông qua hành động của một cá nhân. Từ
đó hình thành nên quan hệ đại diện giữa bên đƣợc đại diện là công ty và bên đại
diện là một cá nhân.
Ngoài ra, sự phát triển của pháp luật công ty (Company Law) và sự phân
tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, kiểm soát công ty đã làm tiền đề cho sự
xuất hiện lý thuyết về đại diện11. Nhƣ đã phân tích ở trên, công ty là một tập thể
ngƣời có cơ cấu tổ chức phức tạp, có sự phân chia lao động ở mức độ cao. Với
những công ty có quy mô lớn, có nhiều địa điểm kinh doanh, và kéo theo đó là sự
gia tăng số lƣợng ngƣời lao động thì chủ sở hữu doanh nghiệp chắc chắn không thể
tự mình quản lý và điều hành đƣợc doanh nghiệp. Chƣa kể đến không phải chủ sở
hữu nào cũng có năng lực điều hành và quản lý. Bởi vì chủ sở hữu thƣờng là những
cổ đông có nguồn lực về tài chính hay là những cá nhân có ý tƣởng kinh doanh và
họ chỉ có thế mạnh trong một số lĩnh vực nhất định. Vì vậy, để họ kiêm luôn vai trò
quản lý, điều hành doanh nghiệp sẽ dẫn đến doanh nghiệp hoạt động thiếu hiệu quả.
Thế nên, các chủ sở hữu thƣờng sẽ chọn một ngƣời trong công ty hoặc thuê một cá
nhân bên ngoài có năng lực để quản lý, điều hành doanh nghiệp, thƣờng đƣợc gọi
với chức danh là Giám đốc, Tổng giám đốc.
Tuy nhiên, việc tách bạch quyền sở hữu và quyền quản lý, kiểm soát công ty
cũng có khả năng tiềm ẩn nhiều rủi ro khiến cho doanh nghiệp hoạt động thiếu hiệu
quả, nguyên nhân xuất phát từ những mâu thuẫn về lợi ích giữa chủ sở hữu và ngƣời
quản lý trong doanh nghiệp. “Với vị trí của mình, ngƣời quản lý công ty đƣợc cho
là luôn có xu hƣớng tƣ lợi và không siêng năng, mẫn cán, và có thể tìm kiếm các lợi
ích cá nhân cho mình hay ngƣời thứ ba của mình chứ không phải cho công ty. Các
đặc tính tự nhiên của quan hệ đại diện dẫn đến giả thiết rằng, các cổ đông cần
thƣờng xuyên giám sát hoạt động của ngƣời quản lý công ty nhằm đảm bảo lợi ích
của mình12”. Ngƣời quản lý suy cho cùng vẫn là một ngƣời lao động đi làm thuê
cho chủ doanh nghiệp, khi đƣợc tập trung nhiều quyền lực trong tay, họ có thể có
những hành động không đúng đắn gây thiệt hại cho doanh nghiệp, vì lợi ích của
mình mà quên đi lợi ích của chủ sở hữu. Đặc biệt là khi ngƣời quản lý phải đƣa ra
những quyết định có ảnh hƣởng tới quyền lợi của chính bản thân họ hoặc ngƣời
thân thích. Chính vì vậy, chủ sở hữu phải đặt ra những giới hạn và có cơ chế kiểm
Khoản 1 Điều 74 BLDS 2015
Mai Thị Ngân Hà (2020), Pháp luật về người đại diện theo pháp luật của công ty, Luận văn thạc
sĩ Luật, Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Tr.22
12
Bùi Xuân Hải, tlđd (2), tr.22-23
10
11
9
soát hành vi của ngƣời quản lý để tránh những thiệt hại có thể xảy đến cho doanh
nghiệp. Tóm tại, học thuyết đại diện đã chỉ ra rằng quan hệ đại diện trong doanh
nghiệp chính là mối quan hệ giữa cổ đông và ngƣời quản lý công ty. Sự phát triển
của pháp luật công ty và cơ chế kiểm soát giữa ngƣời chủ và ngƣời quản lý chính là
tiền đề hình thành nên chế định về NĐDTPL của doanh nghiệp ngày nay.
Với sự xuất hiện và phát triển của chế định đại diện, pháp luật Việt Nam
cũng đã có những quy định điều chỉnh quan hệ này trong Bộ luật dân sự (BLDS)
1995 – BLDS đầu tiên của Việt Nam. Theo đó, “Đại diện là việc một ngƣời (gọi là
ngƣời đại diện) nhân danh một ngƣời khác (gọi là ngƣời đƣợc đại diện) xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện”13. Đến BLDS 2005,
định nghĩa này đã đƣợc bổ sung nhƣ sau: “Đại diện là việc một ngƣời (sau đây gọi
là ngƣời đại diện) nhân danh và vì lợi ích của ngƣời khác (sau đây gọi là ngƣời
đƣợc đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.”14 Nhƣ
vậy, BLDS 2005 đã bổ sung thêm cụm từ là “vì lợi ích” của ngƣời đƣợc đại diện.
Điều này đƣợc xem là cần thiết để tránh việc NĐD lạm dụng vị trí của mình gây
thiệt hại cho ngƣời đƣợc đại diện15. Có thể thấy rằng định nghĩa “đại diện” trong
pháp luật Việt Nam cũng có nội dung tƣơng tự với định nghĩa “đại diện” đƣợc nêu
trong Bộ luật dân sự Pháp. Và đến nay, tinh thần này vẫn đƣợc các nhà làm luật
Việt Nam duy trì trong BLDS 201516.
Qua đó cho thấy quan hệ đại diện đã xuất hiện từ rất sớm, là một quan hệ xã
hội đƣợc thừa nhận rộng rãi và đƣợc pháp luật ghi nhận. Nhờ có quan hệ đại diện
mà những ngƣời không có, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã có thể
dễ dàng đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống. Ngoài ra, chế định đại diện còn thúc
đẩy sự tham gia sâu rộng của các tổ chức kinh tế vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh và đẩy nhanh sự phân công lao động xã hội. Vì vậy, hiểu đƣợc nguồn gốc của
quan hệ đại diện sẽ giúp chúng ta hiểu đƣợc những vấn đề pháp lý xoay quanh chế
định NĐDTPL của doanh nghiệp, từ đó có thể vận dụng linh hoạt trong thực tiễn.
1.1.2. Quan hệ đại diện giữa ngƣời đại diện theo pháp luật với doanh nghiệp
Đại diện đã xác lập các mối quan hệ giữa NĐD, ngƣời đƣợc đại diện và
ngƣời thứ ba với nhau. Đồng thời, sự xác lập, tồn tại và chấm dứt của quan hệ đại
diện đƣợc điều chỉnh bằng các quy định pháp luật có liên quan. Do đó, quan hệ đại
diện cũng chính là một quan hệ pháp luật. Khi nghiên cứu quan hệ pháp luật này,
Khoản 1 Điều 148 BLDS 1995
Khoản 1 Điều 139 BLDS 2005
15
Trƣờng đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Những quy định chung về luật dân sự,
Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Tr.294
16
Khoản 1 Điều 134 BLDS 2015.
13
14
10
chúng ta cần xem xét thông qua ba thành phần sau đây: chủ thể, khách thể và nội
dung.
1.1.2.1.
Chủ thể quan hệ đại diện
Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm ngƣời đƣợc đại diện và NĐD. Tƣơng
tự nhƣ vậy, trong quan hệ đại diện giữa NĐDTPL với doanh nghiệp cũng tồn tại hai
chủ thể chính và cả hai chủ thể này khi tham gia vào quan hệ đại diện đều phải đáp
ứng đƣợc những điều kiện nhất định.
Thứ nhất, NĐDTPL của doanh nghiệp phải là cá nhân, có năng lực pháp luật
và năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Ngoài ra, chủ thể này cần phải đáp ứng thêm
một số điều kiện khác về chức danh quản lý, trình độ chuyên môn, thủ tục đăng ký
với cơ quan nhà nƣớc,… đƣợc quy định trong Điều lệ công ty, LDN và các văn bản
pháp luật chuyên ngành có liên quan. Trong quan hệ này, NĐDTPL nhân danh và vì
lợi ích của doanh nghiệp mà tiến hành xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với
bên thứ ba, hay thay mặt doanh nghiệp để thực hiện các nghĩa vụ pháp lý với các cơ
quan nhà nƣớc.
Thứ hai, ngƣời đƣợc đại diện là doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể có tƣ
cách pháp nhân (CTHD, CTTNHH, CTCP) hoặc không có tƣ cách pháp nhân
(DNTN). Và tất nhiên, các doanh nghiệp này phải đƣợc đăng ký thành lập, hoạt
động theo đúng quy định của pháp luật. Doanh nghiệp là một thực thể pháp lý độc
lập, không phải là con ngƣời cụ thể nhƣng vẫn đƣợc pháp luật công nhận và trao
cho những quyền hạn, trách nhiệm giống hệt nhƣ một “con ngƣời” (con ngƣời của
pháp luật hoặc con ngƣời trƣớc pháp luật)17. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có thể
thực hiện các quyền hạn và trách nhiệm đó nhờ vào việc vay mƣợn năng lực hành vi
của con ngƣời. Khi tham gia vào quan hệ đại diện, doanh nghiệp sẽ phải tiếp nhận
những quyền hạn và trách nhiệm pháp lý phát sinh từ giao dịch dân sự do NĐD xác
lập, thực hiện trong phạm vi đại diện18.
1.1.2.2. Khách thể của quan hệ đại diện
Khách thể của một quan hệ pháp luật là những lợi ích và giá trị xã hội mà các
chủ thể tham gia quan hệ hƣớng tới trong một động thái tích cực19. Tƣơng tự nhƣ
vậy, vì muốn nhận đƣợc lợi ích vật chất hay lợi ích về tinh thần nên các chủ thể mới
tham gia vào quan hệ đại diện và xác lập các quyền, nghĩa vụ của mình trong quan
hệ đó.
Xét về bản chất của quan hệ đại diện, NĐD xác lập các giao dịch dân sự
nhân danh và vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện. Điều này không đồng nghĩa với
Lê Việt Phƣơng, tlđd (3), tr.9
Khoản 1 Điều 139 BLDS 2015
19
Lê Vƣơng Long (2006), Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật, NXB Tƣ pháp, Tr.92.
17
18
11
việc NĐD không mong muốn nhận đƣợc lợi ích nào từ công việc này. Trong quan
hệ đại diện, NĐDTPL của doanh nghiệp có thể nhận đƣợc những lợi ích nhƣ: thù
lao cho việc đại diện (trợ cấp chức vụ), hay các lợi ích tinh thần nhƣ sự tin tƣởng,
tín nhiệm của doanh nghiệp, địa vị trong xã hội, danh tiếng, cơ hội phát triển bản
thân,...
Ở chiều ngƣợc lại, nhờ vào quan hệ đại diện mà các doanh nghiệp đã tham
gia vào các quan hệ xã hội một cách bình thƣờng nhƣ một cá nhân thông qua hành
vi của NĐD. Không chỉ vậy, doanh nghiệp còn đạt đƣợc mục tiêu cốt lõi của hoạt
động kinh doanh đó là sinh lợi. Doanh nghiệp có thể nhận đƣợc những lợi nhuận to
lớn từ các hợp đồng do NĐD xác lập, là hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, quản
trị doanh nghiệp, là sự uy tín, hài lòng của khách hàng, đối tác và đóng góp những
giá trị cho xã hội.
1.1.2.3. Nội dung quan hệ đại diện
Khi tham gia vào quan hệ đại diện, ngƣời đƣợc đại diện và NĐD có những
quyền hạn và nghĩa vụ pháp lý nhất định, đó cũng chính là nội dung của quan hệ đại
diện. Quyền hạn và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ đại diện giữa
NĐDTPL và doanh nghiệp đƣợc xác lập dựa trên sự thỏa thuận, theo Điều lệ của
doanh nghiệp, hoặc căn cứ vào quyết định của cơ quan có thẩm quyền hay các quy
định pháp luật có liên quan. Trƣờng hợp không xác định đƣợc cụ thể phạm vi đại
diện thì NĐDTPL có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của
ngƣời đƣợc đại diện, trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác20.
Do đó, nếu một giao dịch dân sự đƣợc xác lập bởi ngƣời không có quyền đại
diện hoặc phần giao dịch dân sự do NĐDTPL xác lập, thực hiện vƣợt quá phạm vi
đại diện thì không phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với doanh nghiệp. Đổi lại, trong
trƣờng hợp này, ngƣời không có quyền đại diện phải có nghĩa vụ thực hiện giao
dịch dân sự đƣợc xác lập và NĐDTPL phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với phần
giao dịch dân sự vƣợt quá phạm vi đại diện đối với bên thứ ba, đồng thời chịu trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại, hoặc các trách nhiệm pháp lý khác đối với hành vi của
mình, trừ một số trƣờng hợp ngoại lệ đƣợc pháp luật quy định21.
Hiện nay, trong BLDS 2015 và LDN 2020 có đề cập tới quyền hạn và trách
nhiệm của NĐD nhƣng không quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của ngƣời
đƣợc đại diện. Dựa vào bản chất của quan hệ đại diện, chúng ta có thể suy luận
đƣợc một số quyền hạn và trách nhiệm cơ bản của NĐDTPL và của doanh nghiệp.
Chẳng hạn nhƣ:
20
21
Khoản 2 Điều 141 BLDS 2015
Điều 142, Điều 143 BLDS 2015
12
Với tƣ cách là ngƣời đƣợc đại diện, doanh nghiệp, hay cụ thể hơn là chủ sở
hữu doanh nghiệp, các cổ đông của công ty có các quyền hạn và trách nhiệm sau
đây: quyền đƣợc giám sát, theo dõi các công việc mà NĐD thực hiện; quyền yêu
cầu NĐD báo cáo kết quả và nhận những lợi ích đạt đƣợc từ công việc đại diện;
trách nhiệm hỗ trợ, cung cấp thông tin, tạo điều kiện thuận lợi để NĐD hoàn thành
công việc; trách nhiệm trả thù lao theo đúng thỏa thuận của các bên,…
Ngƣợc lại, NĐDTPL có các quyền hạn và trách nhiệm sau: thực hiện các
công việc trong phạm vi đại diện một cách cẩn trọng, trung thực, trung thành với lợi
ích của doanh nghiệp; thƣờng xuyên báo cáo kết quả, tiến độ công việc; đƣợc nhận
các thù lao theo đúng thỏa thuận;...
1.2.
Khái niệm về ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Thông qua việc tìm hiểu nguồn gốc và phân tích các yếu tố cấu thành quan
hệ đại diện nói chung và quan hệ đại diện giữa NĐDTPL với doanh nghiệp nói
riêng, chúng ta đã phần nào hình dung đƣợc những ý niệm về NĐDTPL của doanh
nghiệp. Vốn là một bộ phận của chế định đại diện, nên việc định nghĩa NĐDTPL
của doanh nghiệp cũng không giống nhau ở một số quốc gia. Chẳng hạn nhƣ:
Luật Công ty của Anh 2006 quy định: “Một thành viên cá nhân đƣợc công ty
ủy quyền thực hiện các quyền hạn tƣơng tự mà công ty có thể thực hiện”22. Luật
Công ty của Úc 2001 quy định: “Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá
nhân do doanh nghiệp chỉ định để thực hiện tất cả hoặc bất kỳ quyền hạn nào mà
doanh nghiệp có thể thực hiện”23. Với hai khái niệm này thì NĐDTPL đƣợc hiểu là
ngƣời do “công ty ủy quyền” hoặc do “doanh nghiệp chỉ định” và ngƣời này sẽ thực
hiện tất cả quyền hạn mà một doanh nghiệp đƣợc pháp luật cho phép thực hiện.
Cách định nghĩa này cho thấy bản chất của quan hệ đại diện: vì doanh nghiệp không
thể tự mình thực hiện đƣợc các quyền hạn và trách nhiệm pháp lý, do đó cần đến sự
thay mặt hành động của NĐDTPL. Vậy nên, NĐDTPL hiển nhiên đƣợc quyền thực
hiện tất cả hoặc bất kì một quyền hạn mà pháp luật đã trao cho doanh nghiệp, nếu
không có bất kỳ sự hạn chế nào đƣợc ghi nhận tại Điều lệ công ty hay quy định của
pháp luật.
Bên cạnh đó, Luật Công ty Nhật Bản 2005 lại tiếp cận ngƣời đại diện theo
pháp luật thông qua chức năng quản lý, đó là: “Ngƣời quản lý có quyền thực hiện
bất kỳ và tất cả các hành vi pháp lý và phi tƣ pháp nhân danh công ty liên quan đến
Điều 323.2 Luật Công ty Anh 2006 (United Kingdom Companies Act),
https://www.legislation.gov.uk/ukpga/2006/46/section/323, truy cập ngày 05/5/2021
23
Điều 250D Luật công ty Úc năm 2001 (Australia Companies Act),
https://www.austlii.edu.au/cgi-bin/viewdoc/au/legis/cth/consol_act/ca2001172/s250d.html, truy cập
ngày 05/5/2021
22
13
hoạt động kinh doanh của mình”24. Riêng đối với Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đức 1892 thì không đƣa ra khái niệm một cách rõ ràng, mà khẳng định: “Công ty sẽ
do các Giám đốc làm đại diện. Trong trƣờng hợp công ty không có Giám đốc, các
cổ đông sẽ làm đại diện cho công ty bất cứ khi nào có tuyên bố hoặc các giấy tờ có
liên quan đƣợc xác lập”25. Hai cách định nghĩa nêu trên lại xuất phát từ vai trò mà
NĐDTPL nắm giữ trong doanh nghiệp. Theo đó, NĐDTPL đồng thời là ngƣời quản
lý, thực hiện các hành vi đƣợc pháp luật quy định (hành vi pháp lý) và những hành
vi không đƣợc pháp luật quy định một cách cụ thể (hành vi phi tƣ pháp) nhân danh
doanh nghiệp liên quan đến hoạt động kinh doanh. Hoặc đối với CTTNHH của Đức
thì NĐDTPL là Giám đốc hoặc là các cổ đông (nếu công ty không có giám đốc).
Nhƣ vậy, quyền và nghĩa cụ của NĐDTPL sẽ đƣợc thể hiện qua quyền và nghĩa vụ
của các chức danh mà pháp luật ấn định trở thành NĐDTPL của công ty.
Mặc dù có sự khác nhau về mặt nội hàm của khái niệm “NĐDTPL của doanh
nghiệp” trong pháp luật của một số quốc gia, nhƣng tựu chung lại, NĐDTPL là
ngƣời đƣợc doanh nghiệp chỉ định và chỉ đƣợc phép thực hiện những quyền hạn,
trách nhiệm nhân danh doanh nghiệp, hoàn toàn vì lợi ích của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, LDN 2020 đã đƣa ra khái niệm về NĐD của doanh nghiệp
nhƣ sau: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho
doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh
nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân
sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa
án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.” Về cơ bản, khái niệm
NĐDTPL của doanh nghiệp trong LDN 2020 của Việt Nam cũng có nét tƣơng đồng
với pháp luật của một số nƣớc trên thế giới. Đó là NĐDTPL là cá nhân, nhân danh
doanh nghiệp để thực hiện những quyền hạn và trách nhiệm mà pháp luật trao cho
doanh nghiệp – một chủ thể pháp lý độc lập và vì quyền lợi của chính doanh nghiệp
đó. Tuy nhiên, điểm khác biệt trong khái niệm này là các nhà làm luật đã liệt kê một
cách cụ thể các quyền mà NĐD có thể thực hiện, đảm nhiệm trong phạm vi đại
diện: thứ nhất, đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh
từ giao dịch của doanh nghiệp; thứ hai, đại diện cho doanh nghiệp trong hoạt động
tố tụng; thứ ba, để tránh bỏ sót tƣ cách đại diện của NĐDTPL, các nhà làm luật Việt
Nam đã khái quát lại bằng cách quy định NĐDTPL có quyền đại diện cho doanh
nghiệp thực hiện các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 11.1 Luật Công ty Nhật Bản năm 2005 (Japanese Companies Act),
http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/?id=2035&vm=04&re=02, 05/5/20201
25
Điều 35.1 Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn Đức 1892 (Limited Liability Companies Act),
https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_gmbhg/englisch_gmbhg.html, 05/05/2021
24
14
So sánh với chế định về NĐDTPL của doanh nghiệp trong LDN 2005 và
LDN 2014, chúng ta có thể thấy sự thay đổi trong việc xây dựng khái niệm liên
quan đến đối tƣợng này. Cụ thể, LDN 2005 không đƣa ra khái niệm cụ thể
NĐDTPL của doanh nghiệp và cũng không có điều khoản riêng quy định về
NĐDTPL mà các quy định liên quan đến NĐDTPL nằm rải rác ở các điều khoản về
thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, về cơ cấu tổ chức, quản lý của từng loại
hình doanh nghiệp. Đến LDN 2014, khái niệm về NĐDTPL của doanh nghiệp đã
đƣợc quy định cụ thể tại một điều khoản riêng. Theo đó, khoản 1 Điều 13 LDN
2014 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại
diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của
doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật.” Việc quy định cụ thể khái niệm NĐDTPL của
doanh nghiệp tại một điều khoản riêng đƣợc xem là một bƣớc tiến mới quan trọng
trong hoạt động lập pháp, cho thấy các nhà làm luật đã nhận thức khá đầy đủ về vai
trò của chủ thể này trong hoạt động của doanh nghiệp và sự cần thiết phải đặt ra
những khung pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ đại diện. Đồng thời, khi doanh
nghiệp tiếp cận với các quy định pháp luật sẽ có sự nhìn nhận thống nhất, toàn diện
về vai trò của NĐDTPL, từ đó dễ dàng áp dụng vào thực tiễn.
Về cơ bản, tinh thần của khái niệm NĐDTPL của doanh nghiệp trong LDN
2014 vẫn đƣợc duy trì trong LDN 2020. Tuy nhiên, LDN 2020 đã bổ sung thêm một
tƣ cách mới cho NĐDTPL của doanh doanh nghiệp, đó là tƣ cách “ngƣời yêu cầu
giải quyết việc dân sự”. Sự bổ sung này là cần thiết và phù hợp với quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 vì doanh nghiệp cũng là chủ thể có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết việc dân sự, chẳng hạn nhƣ yêu cầu mở thủ tục phá sản26. Với
phạm vi đại diện đƣợc mở rộng nhƣ vậy sẽ sẽ tạo điều kiện pháp lý tốt hơn cho
doanh nghiệp khi tham gia các quan hệ xã hội nói chung và các hoạt động kinh
doanh nói riêng.
Một điểm còn hạn chế trong việc xây dựng khái niệm NĐDTPL của doanh
nghiệp theo LDN 2014 và đến nay vẫn chƣa đƣợc các nhà làm luật khắc phục khi
xây dựng LDN 2020. Đó là khái niệm này chỉ đề cập tới vai trò “thực hiện” mà
không đề cập tới vai trò “xác lập” đối với các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao
dịch của doanh nghiệp. Một NĐD không nhất thiết phải thực hiện đồng thời hai vai
trò “xác lập” và “thực hiện” giao dịch dân sự. NĐDTPL có thể chỉ “xác lập” và
26
Khoản 3 Điều 5 Luật Phá sản 2014
15
- Xem thêm -