Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Khoá luận thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật việt nam...

Tài liệu Khoá luận thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật việt nam

.PDF
137
1
82

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÊ ĐOÀN KIỀU TRINH THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH – 07 – 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH LÊ ĐOÀN KIỀU TRINH THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM GVHD: ThS. NGUYỄN TRƢƠNG TÍN TP. HỒ CHÍ MINH – 07 – 2021 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Giảng viên hướng dẫn, Thạc sĩ Nguyễn Trương Tín – Giảng viên Khoa Luật dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Với bề dày kiến thức, kinh nghiệm của mình, thầy đã chỉ dẫn tận tình, chu đáo, luôn luôn động viên và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành khóa luận. Em chúc thầy thật nhiều sức khỏe, luôn luôn hạnh phúc và thành công hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục. Em cũng xin cảm ơn đến các quý thầy, cô Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã tận tình dạy dỗ em trong suốt bốn năm học vừa qua. Để em có được sự tâm huyết, kiến thức vững chắc và kỹ năng trong việc hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả tìm hiểu, nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Ths. Nguyễn Trương Tín. Khóa luận này đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. TP. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 6 năm 2021 Sinh viên thực hiện Lê Đoàn Kiều Trinh MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1 Chƣơng 1 ....................................................................................................................7 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM .....................................................................7 1.1. Khái quát chung về thế chấp quyền đòi nợ theo pháp luật Việt Nam ......7 1.1.1. Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ .............................................................7 1.1.2. Đặc điểm thế chấp quyền đòi nợ .............................................................14 1.1.3. Phân loại quyền đòi nợ ............................................................................15 1.1.4. Ý nghĩa thế chấp quyền đòi nợ ...............................................................18 1.2. Điều kiện quyền đòi nợ đƣợc thế chấp .......................................................20 1.2.1. Quyền đòi nợ phát sinh từ giao dịch hợp pháp .......................................20 1.2.2. Quyền đòi nợ thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp ..............................21 1.2.3. Quyền đòi nợ không bị tranh chấp ..........................................................23 1.3. Những mối quan hệ liên quan đến thế chấp quyền đòi nợ .......................24 1.3.1. Quan hệ giữa bên có nghĩa vụ trả nợ và bên thế chấp quyền đòi nợ ......24 1.3.2. Quan hệ giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp quyền đòi nợ .............25 1.3.3. Quan hệ giữa bên có nghĩa vụ trả nợ và bên nhận thế chấp quyền đòi nợ ...........................................................................................................................26 1.4. Phạm vi thế chấp và xử lý quyền đòi nợ đƣợc thế chấp ...........................28 1.4.1. Phạm vi thế chấp quyền đòi nợ ...............................................................28 1.4.2. Xử lý quyền đòi nợ được thế chấp ..........................................................29 Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................31 Chƣơng 2 ..................................................................................................................32 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN .................................................................32 2.1. Vƣớng mắc trong việc xác định phạm vi thế chấp quyền đòi nợ và giải pháp hoàn thiện pháp luật..................................................................................32 2.1.1. Xử lý lãi phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp .................................32 2.1.2. Thế chấp quyền đòi nợ hình thành trong tương lai .................................33 2.2. Vƣớng mắc trong quy định về hình thức đối với giao dịch thế chấp quyền đòi nợ và giải pháp hoàn thiện pháp luật ..............................................35 2.3. Vƣớng mắc trong quy định về nghĩa vụ thông báo quyền đòi nợ đƣợc thế chấp và giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................37 2.4. Vƣớng mắc trong việc xử lý quyền đòi nợ đƣợc thế chấp và giải pháp hoàn thiện pháp luật ...........................................................................................42 2.4.1. Phương thức xử lý quyền đòi nợ được thế chấp .....................................42 2.4.2. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ trong thế chấp quyền đòi nợ ...................43 2.4.3. Thế chấp quyền đòi nợ trong mối quan hệ với phương tiện phòng vệ của bên có nghĩa vụ trả nợ .......................................................................................46 Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................58 KẾT LUẬN ..............................................................................................................60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt BLDS năm 2005 BLDS năm 2015 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Nghị định số 11/2012/NĐ-CP Nghị định số 21/2021/NĐ-CP Thông tư số 08/2018/TT-BTP Nội dung đƣợc viết tắt Bộ luật Dân sự năm 2005 Bộ luật Dân sự năm 2015 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 03 năm 2021 của Chính phủ về quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Thông tư số 08/2018/NĐ-CP ngày 20 tháng 6 năm 2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ thời La Mã cổ đại khái niệm tài sản đã ra đời, lúc đó tài sản chỉ bao gồm vật và quyền tài sản. Trải qua hàng ngàn thế kỉ, khái niệm tài sản với bản chất là một khái niệm động mang một nội dung về kinh tế, xã hội, pháp lý ở thời đại đó đã không ngừng vận hành và thay đổi. Cho tới thời kỳ nền kinh tế thị trường hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của các nền kinh tế, sự xuất hiện như vũ bão của các cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, đã đem lại những thành tựu to lớn cho loài người, làm cho các giá trị của xã hội ngày càng được nâng cao, kéo đến sự đa dạng hóa các loại hợp đồng... đã dẫn đến sự phát sinh của những loại tài sản mới, đa dạng hơn, phức tạp hơn và tất yếu kéo theo đó là những tài sản mới được dùng để thế chấp, có thể kể đến là các tài sản hình thành trong tương lai, các quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng như quyền thu phí, quyền yêu cầu thanh toán, quyền thuê bất động sản mà đã trả tiền thuê trước cho cả thời hạn thuê... Trong các quyền tài sản trên, nổi bất nhất là quyền đòi nợ. Quyền đòi nợ là một loại tài sản, đây là loại tài sản còn khá mới trong các giao dịch dân sự, bởi lẽ trước đây chúng ta luôn coi trọng các bất động sản và động sản hữu hình, mà xem nhẹ vai trò của các quyền tài sản. Tuy nhiên, khi bước sang thế kỉ XXI, khi cơ cấu nền kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể, loại tài sản này ngày càng chiếm phần lớn trong sản nghiệp của các cá nhân, tổ chức. Giao dịch thế chấp quyền đòi nợ ngày càng được sử dụng rộng rãi với những ưu điểm không thể phủ nhận. Việc sử dụng quyền đòi nợ để bảo đảm cho nghĩa vụ, sẽ tránh được nguy cơ tài sản bị mất, bị hư hại, bị giảm giá trị, lại không phải chuyển giao cho bên nhận thế chấp. Chính bởi vậy nên trong thời hạn thế chấp, bên thế chấp vẫn có quyền bán, thế chấp tiếp hay thực hiện các giao dịch khác với tài sản thế chấp khi thỏa mãn những điều kiện nhất định. Mặt khác, quyền đòi nợ này được lưu trữ dễ dàng và chuyển dịch nhanh chóng, thuận tiện bằng các phương tiện điện tử. Chính sự thuận tiện này nên quyền đòi nợ dần trở thành tài sản được lựa chọn để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Thế nhưng so với các loại tài sản khác thì quyền đòi nợ vẫn chưa được sử dụng phổ biến, một mặt đây là loại tài sản còn khá mới mẻ, một mặt do các quy định pháp luật điều chỉnh, bảo vệ giao dịch này còn khá sơ lược. Chính vì vậy mà đây sẽ là rào cản, tạo ra tâm lý dè chừng và e ngại cho các chủ thể khi xác 1 lập giao dịch và thực hiện giao dịch này. Với mục đích nghiên cứu kĩ hơn về giao dịch bảo đảm với quyền đòi nợ, cũng như mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật Việt Nam”, để cung cấp được cái nhìn tổng thể về các quy định của pháp luật hiện hành về thế chấp quyền đòi nợ trong quy định pháp luật Việt Nam, để thấy được những bất cập từ pháp luật đến thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật. Qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn sẽ giúp cho các chủ thể dễ dàng hơn trong việc xác lập và thực hiện giao dịch, đồng thời có những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ. 2. Tình hình nghiên cứu Qua nghiên cứu, tác giả được biết các quy định về thế chấp quyền đòi nợ đã thu hút được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu luật học, cũng như những người làm công tác thực tiễn áp dụng pháp luật. Có thể phân loại các công trình nghiên cứu này thành ba nhóm lớn sau:  Nhóm các khóa luận, luận văn: Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo là quyền đòi nợ trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại” của Nguyễn Thành Luân thực hiện năm 2014 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về xử lý tài sản đảm bảo là quyền đòi nợ. Cơ sở pháp lý mà đề tài này nghiên cứu chủ yếu tập trung vào Bộ luật Dân sự năm 2005, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06 tháng 06 năm 2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm, tuy nhiên hiện nay hầu hết các văn bản pháp luật trên đã hết hiệu lực. Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại” của Võ Thị Đài thực hiện năm 2011 tại 2 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Khóa luận tốt nghiệp “Thế chấp quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng” của Phạm Thị Huỳnh Như thực hiện năm 2014 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Cả hai đề tài khóa luận tốt nghiệp này đều tập trung làm rõ thế chấp quyền đòi nợ trong khuôn khổ hoạt động của các ngân hàng, cho thấy được những vướng mắc trong các quy định của pháp luật và các giải pháp hoàn thiện cho loại giao dịch này trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng.  Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2017, cuốn sách đã cung cấp được các kiến thức pháp lý cơ bản về quyền tài sản, tài sản vô hình, quyền sở hữu, tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai... trên cơ sở các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học viên. Cuốn sách Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Việt Nam Bản án và bình luận bản án, tập 2, xuất bản lần thứ ba, năm 2017 của PGS.TS. Đỗ Văn Đại. Cuốn sách đã đi sâu vào việc phân tích, bình luận nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời thông qua các bản án mà tác giả phân tích, bình luận sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn các quy định của pháp luật. Hơn nữa, các kiến nghị cụ thể mà tác giả đưa ra cho từng vấn đề sẽ là nguồn tham khảo có giá trị cho các công trình nghiên cứu khoa học. Cuốn sách Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, xuất bản năm 2017, của TS. Vũ Thị Hồng Yến. Cuốn sách cung cấp được những kiến thức cơ bản và chuyên sâu dưới hai khía cạnh pháp lý và thực tiễn về tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp, đồng thời đưa ra các yêu cầu và kiến nghị cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật cho tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp cho tương lai.  Nhóm các bài viết trên tạp chí: Bài viết “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ” của tác giả Bùi Đức Giang đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 05, năm 2013. Bài viết cho 3 thấy được các nguyên tắc chung của phương thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, xử lý lãi phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp, đồng thời cũng đã có những bình luận, phân tích về trường hợp quyền đòi nợ đến hạn trước hoặc sau nghĩa vụ được bảo đảm và đã đưa ra được các kiến nghị cho bất cập này. Bài viết “Điều kiện để quyền đòi nợ được làm tài sản thế chấp theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Trọng Dũng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 20, năm 2020. Thông qua bài viết này, tác giả đã làm rõ được khái niệm của quyền đòi nợ, thế chấp quyền đòi nợ và đưa ra các điều kiện để quyền đòi nợ được làm tài sản thế chấp dựa trên các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, các nghiên cứu về thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay còn khá ít và mang tính rải rác, các công trình nghiên cứu về loại tài sản này sau khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực vẫn chưa thực sự nhiều và thiếu tính chuyên sâu. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu một cách chi tiết và thống nhất về loại tài sản này trong tình hình kinh tế, nhu cầu vốn hiện nay là rất cần thiết. 3. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, khi nghiên cứu về vấn đề “Thế chấp quyền đòi nợ trong quy định pháp luật Việt Nam”, tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau đây: Thứ nhất, sẽ cung cấp được cái nhìn tổng thể về các quy định của pháp luật hiện hành về thế chấp quyền đòi nợ, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý của thế chấp quyền đòi nợ trong quy định pháp luật Việt Nam. Thứ hai, qua tìm hiểu, phân tích, so sánh sẽ thấy được những bất cập, vướng mắc về thế chấp quyền đòi nợ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Thứ ba, qua việc thấy được những bất cập của pháp luật Việt Nam, thấy được thực tiễn áp dụng pháp luật trên thực tế, cũng như tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài, tác giả sẽ đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật, từ đó góp phần thúc đẩy giao dịch này trong tương lai. 4 4. Phạm vi nghiên cứu Dựa vào cơ sở lý luận, tính cấp thiết của đề tài và các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm thúc đẩy giao dịch thế chấp quyền đòi nợ trong tương lai, đề tài “Thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật Việt Nam” tập trung nghiên cứu hai nội dung chính: (1) Những vấn đề lý luận và pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ theo pháp luật Việt Nam, (2) Vướng mắc trong các quy định của pháp luật, trong thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật. Trong mỗi nội dung, tác giả đã nghiên cứu từng vấn đề trong các quy định của pháp luật, bao gồm Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Bộ luật dân sự Pháp, các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 03 năm 2021 của Chính phủ về quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, Thông tư số 08/2018/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 20 tháng 6 năm 2018 hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp... và đặt trong mối tương quan với các văn bản pháp luật hiện hành như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2017, Luật phá sản năm 2014... 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp này, tác giả đã sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây: Ở Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp. Với việc phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để đi sâu vào từng vấn đề, phân tích là một phương pháp rất cần thiết cho một công trình nghiên cứu khoa học. Với phương pháp này, tác giả đã phân chia thế chấp quyền đòi nợ thành nhiều nội dung khác nhau để có thể đi sâu hơn làm rõ những vấn đề lý luận của loại giao dịch này. Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận đã được phân tích nhằm 5 nhận thức cái toàn bộ, sau khi đã phân tích các nội dung, tác giả sẽ tổng hợp lại những vấn đề đã được nghiên cứu, bình luận nhằm rút ra được một kết luận chung cho vấn đề cần nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp so sánh trong việc so sánh với Bộ luật Dân sự Pháp, Bộ luật Dân sự Nhật Bản để thấy được những điểm khác biệt, những điểm hạn chế của pháp luật Việt Nam cũng như những điểm tiến bộ của pháp luật nước ngoài mà Việt Nam có thể học hỏi và áp dụng. Ở Chương 2, bên cạnh việc sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ những vướng mắc, bất cập của thế chấp quyền đòi nợ. Tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê với mục đích thu thập các ý kiến, quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học, giúp cho tác giả tiếp cận được nhiều khía cạnh, góc nhìn của những nhà nghiên cứu này về nội dung xử lý thế chấp quyền đòi nợ, các phương thức xử lý thế chấp quyền đòi nợ, và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao dịch này. 6. Cấu trúc đề tài Nhằm thể hiện nội dung của đề tài một cách có hệ thống và khoa học, tác giả đã xây dựng bố cục của khóa luận theo trình tự như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ theo pháp luật Việt Nam. Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ ở Việt Nam và giải pháp hoàn thiện. 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. Khái quát chung về thế chấp quyền đòi nợ theo pháp luật Việt Nam 1.1.1. Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ  Khái niệm quyền đòi nợ Hiểu nôm na quyền đòi nợ là quyền yêu cầu trả nợ, người có quyền này có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ thanh toán một khoản tiền hay vật nào đó. Quyền đòi nợ vừa là mối quan hệ về mặt pháp luật, đồng thời lại là một loại tài sản. Dưới góc độ của pháp luật về nghĩa vụ dân sự, quyền đòi nợ là quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc quy định tại Điều 281 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015). Bên có nghĩa vụ phải thanh toán một khoản tiền cho bên có quyền tại một thời điểm mà hai bên thỏa thuận rõ trong hợp đồng. Bên có quyền chỉ có thể yêu cầu việc thanh toán này từ phía có nghĩa vụ trả tiền chứ không thể yêu cầu một bên thứ ba nào khác, bởi lẽ đây chỉ là mối quan hệ giữa bên có quyền và bên có nghĩa vụ trả nợ mà thôi1. Dưới góc độ của pháp luật về tài sản, quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản quy định tại Điều 115 BLDS năm 2015 là một trong bốn loại tài sản được quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015. Như vậy, quyền đòi nợ là một loại tài sản. Mặc dù BLDS năm 2015 không giữ lại quy định về bảo đảm bằng quyền tài sản (liệt kê các quyền tài sản được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự) như quy định tại Điều 322 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS năm 2005) nhưng sang đến BLDS năm 2015, đối tượng được sử dụng để bảo đảm được khẳng định tại Điều 295 BLDS năm 2015 theo hướng là “tài sản”. Nghĩa là bất kỳ tài sản nào cũng có thể được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong khi đó quyền đòi nợ cũng là một quyền tài sản nên quyền đòi nợ hoàn toàn được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo BLDS năm 2015. 1 Bùi Đức Giang (2013), “Khoảng trống pháp luật về quyền đòi nợ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 08, tr. 33. 7 Mặt khác theo điểm c khoản 7 Điều 6 của Thông tư 08/2018/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 20 tháng 6 năm 2018 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (Thông tư 08/2018/TT-BTP) quy định các quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 BLDS 2015, trừ quyền sử dụng đất thì có quyền đòi nợ. Nghĩa là ở đây quyền đòi nợ cũng được coi là một quyền tài sản và là tài sản được đăng ký biện pháp bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký khi có yêu cầu. Quyền đòi nợ là một quyền dân sự của các chủ thể được pháp luật Việt Nam công nhận và bảo vệ. Quyền đòi nợ này phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng xây dựng công trình, hợp đồng cho thuê,... sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ của mình như giao đủ số lượng, đúng chất lượng hàng hóa, đã xây dựng xong công trình, hay cho thuê nhà,... sẽ có quyền đòi nợ bên còn lại, tức là bên có nghĩa vụ trả nợ, đó là các khoản tiền mua hàng hóa, khoản tiền trả cho việc đã hoàn thành xây dựng công trình hay khoản tiền thuê nhà hằng tháng, hằng năm. Quyền đòi nợ này là số tiền mà bên bán hàng có quyền nhận được từ bên mua hàng theo các hợp đồng mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ. Đây cũng chính là khoản phải thu của các cá nhân hay doanh nghiệp đang bị các tổ chức hoặc cá nhân khác chiếm giữ mà bản thân doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm thu hồi. Do đó quyền đòi nợ này là một tài sản vô hình và việc thực thi quyền đối với tài sản này trước hết phải dựa trên các căn cứ về hợp đồng nơi các tài sản này phát sinh. Đây thực chất là một quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân, loại tài sản này chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tài sản của các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Theo đó, các chủ thể này được sử dụng quyền đòi nợ để yêu cầu các chủ thể khác trả tài sản phát sinh từ hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật cho mình. Quyền đòi nợ có đối tượng là một khoản nợ, tức là một khoản tiền và khoản tiền này sẽ được thanh toán vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Người sở hữu quyền này sẽ có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ phải thực hiện một nghĩa vụ tài sản với bên có quyền. Ngược lại, bên có nghĩa vụ trả nợ phải có nghĩa vụ thực hiện một nghĩa vụ tài sản với bên có quyền của mình, tức là chủ sở hữu của khoản nợ. 8 Về mặt cấu trúc kỹ thuật, quyền đòi nợ hình thành từ ba yếu tố: Trái chủ (chủ thể có quyền), thụ trái (chủ thể có nghĩa vụ) và đối tượng là khoản nợ2. Cho đến hiện nay, pháp luật thực định chưa đưa ra được một định nghĩa cụ thể về quyền đòi nợ. Trước đây điểm d tiểu mục 1.1 mục 1 Phần 1 Thông tư số 04/2007/TT-BTP ngày 17 tháng 05 năm 2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê tài sản, hồ sơ cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao đã định nghĩa quyền đòi nợ theo hướng liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc phát sinh từ các căn cứ hợp pháp khác. Tuy nhiên, danh sách này sau đó đã bị hủy bỏ theo Thông tư số 05/2011/TTBTP ngày 16 tháng 02 năm 2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Đến khi Thông tư số 08/2018/TT-BTP được ban hành, điểm c khoản 7 Điều 6 đã quy định quyền đòi nợ được coi là quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng góp vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp đồng kinh doanh nhà ở, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua nhà ở (bao gồm cả nhà ở xã hội) giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở. Việc quy định quyền đòi nợ theo hướng liệt kê như trên là chưa đầy đủ vì quyền đòi nợ không chỉ bó hẹp trong các giao dịch mua bán, dịch vụ, thuê tài sản, kinh doanh bất động sản. Chính vì vậy mà đây là điểm thiếu sót của pháp luật, làm cho các chủ thể chưa nhận thức đúng về bản chất pháp lý của quyền tài sản này, dẫn đến chưa thúc đẩy được giao dịch này trong tương lai. Tóm lại, qua những cơ sở lý luận đã phân tích ở trên thì chúng ta có thể rút ra được khái niệm quyền đòi nợ như sau: Là một quyền dân sự của chủ thể, bên có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ thực hiện một nghĩa vụ tài sản với mình.  Khái niệm thế chấp tài sản 2 Lê Trọng Dũng (2020), “Điều kiện để quyền đòi nợ được làm tài sản thế chấp theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, số 20, tr. 33. 9 “Thế chấp” là một từ có nguồn gốc Hán – Việt: “Thế là bỏ đi, thay cho” còn “Chấp là cầm, giữ, bắt”3. Từ điển tiếng Việt giải thích: “Thế chấp [tài sản] dùng làm vật bảo đảm, thay thế cho số tiền vay nếu không có khả năng trả đúng kì hạn”4, hay thế chấp là “Đem ra làm tin để vay mượn (Thế chấp nhà cửa để vay tiền ngân hàng).”5. Xuất phát từ ngữ nghĩa cơ bản của từ “thế chấp” như trên, có thể hiểu thế chấp là một cách thức mà bên có quyền và bên có nghĩa vụ đã lựa chọn để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thông qua một tài sản, giá trị của tài sản này có khả năng thay thế cho nghĩa vụ bị vi phạm. Thế chấp là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đã xuất hiện từ thời La Mã cổ đại. Theo các học giả La Mã, Luật về cầm cố và thế chấp là luật thứ hai xuất hiện sau Luật về quyền dụng ích. Khái niệm thế chấp trong BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 về cơ bản không có sự thay đổi. Theo khoản 1 Điều 317 BLDS năm 2015 thì “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).” Khái niệm trên cho thấy BLDS năm 2015 tiếp cận thế chấp dưới giác độ là một giao dịch dưới dạng hợp đồng dựa trên cơ sở nền tảng của lý thuyết trái quyền, bởi chúng được sắp xếp nằm trong phần “nghĩa vụ và hợp đồng”, tuy nhiên đặc điểm vật quyền trong quan hệ thế chấp cũng được thể hiện thông qua quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm tại Điều 298 BLDS năm 2015.6 Về khái niệm thế chấp khi so sánh với pháp luật Anh và nhiều nước theo hệ thống tiền án lệ, ta thấy có những điểm khác biệt là biện pháp bảo đảm thế chấp có hay không việc chuyển giao quyền sở hữu. Pháp luật Việt Nam theo hướng không phải chuyển giao quyền sở hữu. Trong khi đó pháp luật Anh và nhiều nước theo hệ thống án lệ theo hướng chuyển giao quyền sở hữu, họ cho rằng thế chấp là một hình thức chuyển giao quyền sở hữu, thường sẽ có hiệu lực vào ngày thế chấp, dưới hình thức bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả khoản vay. Việc chuyển giao quyền sở hữu này thường được quy định trong hợp đồng với một điều kiện là quyền sở hữu sẽ được 3 Đào Duy Anh (2000), Từ điển Hán - Việt, Nxb. Khoa học xã hội, tr.129, tr. 788. Viện Ngôn ngữ (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 934. 5 Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Thanh niên, tr. 675. 6 Vũ Thị Hồng Yến (2017), Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 16. 4 10 chuyển giao trả lại cho bên vay khi bên vay hoàn thành nghĩa vụ hoàn trả khoản vay (lãi nếu có) và tương tự bên cho vay sẽ phải trả lại quyền sở hữu tài sản cho bên vay khi bên vay đã hoàn trả đầy đủ. Bên cạnh đó khi so sánh các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong một quan hệ thế chấp, ta thấy có những điểm giống và khác nhau với Bộ luật Dân sự Pháp và Bộ luật Dân sự Nhật Bản. Điều 2114 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Thế chấp là một quyền tài sản đối với bất động sản được dùng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ”. Cùng với quan điểm đó, Điều 369 Bộ luật Dân sự của Nhật Bản cũng quy định: “Người nhận thế chấp có quyền ưu tiên so với các chủ nợ khác trong việc đáp ứng yêu cầu của mình từ bất động sản mà bên nợ hoặc người thứ ba đưa ra như là một biện pháp bảo đảm trái vụ và không chuyển giao quyền chiếm hữu nó”. Điểm giống nhau ở chỗ tài sản thế chấp không phải chuyển giao cho bên nhận thế chấp, bên thế chấp vẫn có quyền sở hữu đối với tài sản, có quyền xử lý tài sản thế chấp nếu đến hạn mà nghĩa vụ được bảo đảm có sự vi phạm. Điểm khác nhau cơ bản sau đây: Thứ nhất, theo khoản 8 Điều 320 BLDS năm 2015 thì bên thế chấp không có quyền bán tài sản thế chấp nếu không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp (trừ hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh). Trong khi Điều 380 Bộ luật Dân sự Nhật Bản, bên thế chấp có quyền bán tài sản thế chấp ngay cả khi không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Thứ hai, khoản 5 Điều 323 BLDS năm 2015 cho phép bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản thế chấp nhưng lại phụ thuộc vào bên thế chấp có tự nguyện giao tài sản để xử lý hay không, nếu bên thế chấp không tự nguyện giao tài sản thì bên nhận thế chấp chỉ có thể khởi kiện ra Tòa án, yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong khi đó Điều 2170 của Bộ luật Dân sự Pháp và Điều 2171 của Bộ luật Dân sự Nhật Bản cho phép bên nhận thế chấp có quyền kê biên đối với tài sản thế chấp mà không cần có sự đồng ý của bên thế chấp nếu đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm. Thứ ba, khoản 4 Điều 323 BLDS năm 2015 của Việt Nam quy định đăng ký thế chấp vừa là thủ tục bắt buộc, vừa là thủ tục tự nguyện. Đăng ký sẽ là căn cứ để làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng thế chấp nếu pháp luật có quy định và cũng sẽ là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận thế chấp. Trong khi đó theo Điều 2146, 2166 Bộ luật Dân sự Pháp thì đăng ký thế chấp được coi là thủ tục bắt buộc, là một trong các 11 căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên giữa bên nhận thế chấp tài sản với các chủ thể khác.7 Như vậy, biện pháp bảo đảm thế chấp trong BLDS năm 2015 mang cả yếu tố trái quyền và vật quyền. Điều này khác với hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm của các nước Pháp, Nhật Bản, Nga đều theo chủ thuyết vật quyền, đảm bảo quyền lợi cho bên nhận thế chấp nhiều hơn. Theo tác giả, pháp luật dân sự Việt Nam cần làm rõ yếu tố này để quy định pháp luật rõ ràng hơn cũng như có những quy chế để bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho bên nhận thế chấp, và là biện pháp răn đe với bên thế chấp, cần cân nhắc kĩ trước khi kí hợp đồng giao dịch.  Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ Quyền đòi nợ là một quyền tài sản, mà quyền tài sản này cũng thuộc vào bốn loại tài sản theo Điều 105 BLDS năm 2015, nên quyền tài sản này cũng sẽ được sử dụng để làm tài sản bảo đảm theo Điều 295 BLDS năm 2015. Bên cạnh đó Điều 14 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 03 năm 2021 của Chính phủ về quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (Nghị định số 21/2021/NĐ-CP) cũng đã khẳng định rõ, quyền đòi nợ là một quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, và tài sản này được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Thế chấp quyền đòi nợ là giao dịch bảo đảm duy nhất đối với quyền đòi nợ được pháp luật Việt Nam thừa nhận tại Điều 22 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) và Điều 33 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP. Khác với một số quốc gia trên thế giới lại dùng biện pháp cầm cố để áp dụng cho quyền tài sản nói chung và quyền đòi nợ nói riêng. “Như ở Liên Bang Nga tồn tại loại hình cầm cố gọi là cầm cố doanh nghiệp và tài sản cầm cố trong trường hợp này bao gồm toàn bộ tài sản trên bảng tổng kết, bao gồm cả tài sản cố định, lưu động, các tài sản khác, toàn bộ các khoản nợ và các quyền đối với con nợ của doanh nghiệp”8. Hay tại Bộ luật Dân sự Nhật Bản, đối tượng của cầm cố có thể là tài sản và quyền tài sản (Điều 343, 362 Bộ luật Dân sự Nhật Bản). Cầm cố các quyền có thể thực hiện đối với các nghĩa vụ, quyền cổ đông và các quyền khác. Trong khi đó phạm vi các loại vật sản có thể 7 Vũ Thị Hồng Yến, tlđd (5), tr. 17-18. Lê Thị Thu Thủy (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, Nxb. Thành phố, tr. 122. 8 12 là đối tượng của thế chấp bị hạn chế ở các tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký hoặc các phương pháp công khai khác9. Trong hệ thống pháp luật của nước ta thì trước đây, Bộ luật Dân sự năm 1995 và Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm đã áp dụng chế độ cầm cố cho quyền đòi nợ. Đến khi BLDS năm 2005 ra đời thì tiêu chí để phân biệt cầm cố và thế chấp không còn ở chỗ là động sản hay bất động sản nữa mà phụ thuộc vào việc có chuyển giao hay không chuyển giao tài sản bảo đảm, nên BLDS năm 2005 đã thay thế biện pháp bảo đảm cho quyền đòi nợ từ cấm cố sang thế chấp. Mặc dù cầm cố và thế chấp có những điểm tương đồng như đều tồn tại dưới hình thức hợp đồng, chỉ xử lý tài sản cầm cố, thế chấp khi bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu đặt quyền lợi của bên nhận bảo đảm lên trên thì biện pháp cầm cố có vẻ an toàn hơn vì bên nhận cầm cố sẽ trực tiếp chiếm giữ tài sản bảo đảm, nên nếu bên vay không thanh toán được khoản nợ thì bên cho vay đã có tài sản bảo đảm trong tay để xử lý thu hồi nợ. Ngược lại, bên nhận cầm cố cũng có gánh nặng khi phải có trách nhiệm đối với sự mất mát, hư hỏng của tài sản bảo đảm. Trong khi đó, biện pháp thế chấp thuận tiện cho bên nhận thế chấp hơn khi bên thế chấp không phải giao tài sản cho bên nhận thế chấp, vì thế mà bên nhận thế chấp không phải có trách nhiệm trông coi, bảo quản, hay giữ gìn tài sản thế chấp. Theo tác giả, trên thực tế khi Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng đều theo hướng thế chấp quyền đòi nợ là phù hợp. Thứ nhất, do quyền đòi nợ là một tài sản vô hình, không nhìn thấy, cầm nắm được nên không thể chuyển giao về mặt vật chất (đây là yếu tố để phân biệt cầm cố và thế chấp từ BLDS năm 2005, theo đó cầm cố thì phải chuyển giao tài sản bảo đảm còn thế chấp thì không phải chuyển giao tài sản bảo đảm), và do đó quyền đòi nợ không thể trở thành đối tượng của cầm cố được. Thứ hai, bên nhận thế chấp không thể chiếm hữu được chúng vì trong giao dịch bảo đảm, bên thế chấp thường chỉ giao các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của bên thế chấp với khoản nợ đó, mặt khác trong quá trình thế chấp, bên thế chấp vẫn là bên có quyền, nắm giữa tài sản đó, vậy nên vẫn được tiếp tục khai thác, sử dụng quyền tài sản này. Thứ ba, theo quy định của BLDS năm 2015, tài sản thế chấp bao gồm bất động sản và động sản. 9 Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (1995), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 289, tr. 301. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan