Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Khoá luận hợp đồng có điều kiện theo quy định của pháp luật việt nam...

Tài liệu Khoá luận hợp đồng có điều kiện theo quy định của pháp luật việt nam

.PDF
111
1
130

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH HUỲNH LÊ YẾN VY HỢP ĐỒNG CÓ ĐIỀU KIỆN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH HUỲNH LÊ YẾN VY HỢP ĐỒNG CÓ ĐIỀU KIỆN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. LÊ THỊ HỒNG VÂN TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – NĂM 2021 LỜI CAM ĐOAN Tác giả Khóa luận cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp “Hợp đồng có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam” là kết quả nghiên cứu độc lập và nghiêm túc của riêng tác giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Thị Hồng Vân - Giảng viên Khoa Luật Dân sự, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung Khóa luận có sự tham khảo các nguồn tài liệu khác nhau, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Huỳnh Lê Yến Vy LỜI CẢM ƠN Trong bốn năm học tập và rèn luyện tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã được truyền đạt những kiến thức pháp luật nền tảng cũng như chuyên sâu trong lĩnh vực chuyên ngành. Với những kiến thức quý báu đó, khi được viết khóa luận tốt nghiệp, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Hợp đồng có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Để hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này, trước tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Lê Thị Hồng Vân - Giảng viên Khoa Luật Dân sự đã tận tình hướng dẫn, chỉnh sửa, cung cấp kiến thức và động viên tác giả trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Tiếp đến, tác giả xin gửi lời tri ân đến quý thầy cô là giảng viên trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy cho tác giả trong suốt bốn năm học, những kiến thức tác giả học được không chỉ giúp ích trong việc hoàn thành khóa luận tốt nghiệp mà còn là hành trang cho tác giả trong con đường sự nghiệp sau này. Tác giả cũng xin cảm ơn Trung tâm Thông tin - Thư viện của trường đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác giả được tiếp cận với các nguồn tài liệu để phục vụ đề tài nghiên cứu. Và cuối cùng, tác giả xin tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè và những người thân yêu là những người đã luôn quan tâm, tạo điều kiện, động viên và khích lệ tinh thần cho tác giả trong suốt quá trình học tập cũng như chặng đường cuối cùng của thời sinh viên này. Tác giả đã nỗ lực hết mình để có thể hoàn thành khóa luận một cách tốt nhất nhưng với khả năng và kiến thức còn hạn chế nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong sự góp ý từ quý thầy cô để tác giả có thêm cơ hội được hoàn thiện kiến thức. Kính chúc quý thầy cô đang công tác tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành công hơn nữa trong sự nghiệp và cuộc sống của mình, chúc tất cả mọi người luôn dồi dào sức khỏe và nhiều niềm vui trong cuộc sống. Huỳnh Lê Yến Vy DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự TAND Tòa án nhân dân MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG CÓ ĐIỀU KIỆN ............ 6 1.1. Khái niệm hợp đồng có điều kiện ........................................................................ 7 1.2. Chủ thể của hợp đồng có điều kiện .................................................................... 12 1.3. Điều kiện trong hợp đồng có điều kiện .............................................................. 14 1.3.1. Khái niệm điều kiện trong hợp đồng có điều kiện .................................. 14 1.3.2. Hình thức của điều kiện trong hợp đồng có điều kiện ............................ 17 1.3.3. Các yêu cầu pháp lý đối với điều kiện trong hợp đồng có điều kiện ...... 19 1.3.4. Phân loại điều kiện trong hợp đồng có điều kiện .................................... 26 1.4. Hiệu lực của hợp đồng có điều kiện ................................................................... 30 1.4.1. Xác định hiệu lực của hợp đồng có điều kiện ......................................... 30 1.4.2. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có điều kiện .................................. 33 1.5. Thực hiện và chấm dứt hợp đồng có điều kiện .................................................. 35 1.5.1. Thực hiện hợp đồng có điều kiện ............................................................ 35 1.5.2. Chấm dứt hợp đồng có điều kiện ............................................................ 36 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 39 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CÓ ĐIỀU KIỆN ................................... 40 2.1. Về trường hợp điều kiện không được ghi nhận trong hợp đồng ........................ 40 2.2. Về tính hợp pháp của điều kiện trong hợp đồng có điều kiện ........................... 44 2.3. Về việc xác định loại điều kiện trong hợp đồng có điều kiện ............................ 49 2.4. Về hệ quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện trong hợp đồng có điều kiện .... 53 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 58 KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hợp đồng là một trong những phương thức cơ bản, hữu hiệu để đáp ứng hầu hết các nhu cầu giao dịch của con người. Chế định hợp đồng là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trải qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung, Bộ luật Dân sự Việt Nam đã xây dựng một cách toàn diện về các vấn đề chung của hợp đồng từ việc giao kết, thực hiện, sửa đổi cho đến chấm dứt hợp đồng. Song, căn cứ vào các tiêu chí cụ thể mà có nhiều loại hợp đồng khác nhau, trong đó có hợp đồng có điều kiện và loại hợp đồng này đã dần trở nên phổ biến trong thực tiễn. Về pháp luật, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995, 2005, 2015 đều có sự ghi nhận về hợp đồng có điều kiện, sự ghi nhận đó nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và bảo vệ quyền lợi cho các bên trong hợp đồng, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của các quy định này. Tuy nhiên, đến nay số lượng các quy định về hợp đồng có điều kiện trong pháp luật hiện hành còn khá ít, nội dung của các quy định về loại hợp đồng này còn khá chung chung và chưa đầy đủ. Đó là, các quy định chỉ mới đề cập đến trường hợp được coi là giao dịch có điều kiện, hợp đồng có điều kiện, trường hợp có sự thúc đẩy hoặc cản trở điều kiện và một số vấn đề liên quan đến hợp đồng tặng cho có điều kiện mà chưa đưa ra khái niệm và các yêu cầu cụ thể cho điều kiện trong hợp đồng có điều kiện cũng như hệ quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện. Nhìn chung, hầu hết các vấn đề pháp lý xoay quanh hợp đồng có điều kiện, điều kiện trong hợp đồng có điều kiện chưa được quy định cụ thể mà còn đang tồn tại trong quan điểm của các chuyên gia. Do đó, vấn đề này cần được nghiên cứu để hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về hợp đồng có điều kiện. Về thực tiễn, quy định hiện hành chưa điều chỉnh hết các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng có điều kiện, dẫn đến, việc áp dụng quy định của pháp luật đối với hợp đồng có điều kiện gặp khó khăn. Bên cạnh đó, khi giao kết hợp đồng, các bên không hiểu rõ bản chất của loại hợp đồng này nên dễ phát sinh tranh chấp. Ngoài ra, trong thực tiễn xét xử, cơ quan giải quyết tranh chấp cũng gặp những khó khăn, vướng mắc và lúng túng trong cách giải quyết, nhiều vụ việc phải trải qua nhiều cấp xét xử, nhưng quan điểm không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau. Do đó, vấn đề này cần thiết được nghiên cứu để chúng trở nên dễ hiểu và rõ ràng hơn, hạn chế phát sinh tranh chấp, thống nhất cách giải quyết của cơ quan xét xử, bảo vệ được tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong hợp đồng. 1 Vì những lý do trên, tác giả đã quyết định chọn “Hợp đồng có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu về hợp đồng có điều kiện, có thể kể đến một số tài liệu sau: Ở trong nước Sách tham khảo, chuyên khảo - Đỗ Văn Đại (2017), Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (Xuất bản lần thứ 6, có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam: 2.1. Tài liệu đã phân tích thực tiễn xét xử để khái quát về bản chất của các loại điều kiện, quyền và nghĩa vụ của các bên khi các loại điều kiện chưa/đã xảy ra và yêu cầu điều kiện không được trái đạo đức xã hội, không được vi phạm điều cấm. Nhìn chung, tài liệu đã cho tác giả cái nhìn tổng quan về hợp đồng có điều kiện, từ đó đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề pháp lý xoay quanh loại hợp đồng này và phát triển thêm các yêu cầu khác của điều kiện. - Nguyễn Ngọc Điện (2016), Giáo trình luật dân sự (Tập 1), Nxb. Đại học Quốc gia TP. HCM: Trong mục hiệu lực của giao dịch, giáo trình đã trình bày những vấn đề lý luận chung về điều kiện trong giao dịch có điều kiện. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích thêm về bản chất của điều kiện, hình thức, yêu cầu và phân loại điều kiện trong hợp đồng có điều kiện. - Lê Thị Giang (2020), Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội: Tài liệu đã có những nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, đây là một loại hợp đồng cụ thể trong hợp đồng có điều kiện. - Trường Đại học Luật TP.HCM (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam: Giáo trình là tài liệu cung cấp kiến thức cơ bản về loại hợp đồng có điều kiện. Trên cơ sở các yêu cầu pháp lý cơ bản về điều kiện, tác giả đã phân tích, làm rõ hơn các yêu cầu này. Luận án, Luận văn - Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh: Luận án tập trung nghiên cứu hiệu lực của hợp đồng nhưng có trình bày cơ bản về khái niệm hợp đồng có điều kiện, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có điều kiện phát sinh và chỉ ra bất 2 cập, kiến nghị trên cơ sở phân tích quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Tác giả đã tiếp thu, đi sâu hơn các vấn đề đó, đồng thời phát triển thêm về các vấn đề khác của hợp đồng có điều kiện. - Trần Thị Thu Quỳnh (2011), Hợp đồng dân sự có điều kiện, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội: Luận văn đã phân tích chi tiết những vấn đề lý luận về hợp đồng dân sự có điều kiện dựa trên quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, nhưng Luận văn chưa nghiên cứu về thực tiễn xét xử. Tác giả đã phát triển thêm thông qua việc phân tích một số Bản án, Quyết định của Tòa án áp dụng quy định về hợp đồng có điều kiện để thấy được những khó khăn, vướng mắc của thực tiễn. - Trần Thị Như Trang (2014), Hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh: Luận văn nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện nhưng cũng dành ra một phần để trình bày về khái niệm, đặc điểm, phân loại điều kiện trong hợp đồng có điều kiện nói chung. Tác giả đã tiếp thu và bổ sung hình thức của điều kiện cùng với các vấn đề khác của hợp đồng có điều kiện. Các bài viết khác - Nguyễn Như Bích (2011), “Bàn về hiệu lực của hợp đồng có điều kiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (19), tr. 12-20: Bài viết đã trình bày quan điểm về việc xác định hiệu lực của hợp đồng có điều kiện, dựa vào đó, tác giả đã tìm hiểu thêm về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có các loại điều kiện khác nhau. - Lê Thị Diễm Phương, “Khái niệm về điều kiện trong loại hợp đồng có điều kiện”, Tạp chí Tòa án Nhân dân điện tử và bài viết “Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với loại hợp đồng có điều kiện theo quy định tại Điều 429 BLDS 2015”, Tạp chí Tòa án Nhân dân điện tử: Các bài viết đã tìm hiểu, phân tích cụ thể về khái niệm điều kiện, đồng thời, bài viết đã chỉ ra bất cập trong việc xác định hiệu lực và thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng có điều kiện. Tài liệu này đã giải quyết được nhiều nội dung có liên quan đến đề tài, tác giả đã tiếp thu và phát triển thêm một số nội dung như khái niệm hợp đồng có điều kiện, các yêu cầu của điều kiện, việc thực hiện và chấm dứt hợp đồng có điều kiện, ngoài ra tác giả còn phân tích thực tiễn xét xử trong một số Bản án, Quyết định để đưa ra kiến nghị. - Phạm Văn Tuyết (2011), “Những vướng mắc của Bộ luật Dân sự về giao dịch, hợp đồng và nghĩa vụ có điều kiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (10), tr. 19-22; 3 26: Bài viết đã phân biệt các khái niệm giao dịch, hợp đồng và nghĩa vụ có điều kiện và đưa ra một số kiến nghị cần sửa đổi trong Bộ luật Dân sự năm 2005. 2.2. Ở nước ngoài Việc nghiên cứu về vấn đề hợp đồng có điều kiện được nhiều nhà khoa học pháp lý ngoài nước quan tâm, dưới những góc độ khác nhau, trong đó tác giả đã tiếp cận được một số tài liệu, tác giả đã tiếp thu để xem xét và hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu. Cụ thể: - Ashley, Clarence D., “Conditions in Contract”, Yale Law Journal, Vol. 14, p. 424-430: Bài báo phân tích về các điều kiện trong hợp đồng trong pháp luật Anh Mỹ, trong đó có đề cập đến cách hiểu và cách nhận diện các loại điều kiện, yêu cầu điều kiện phải là sự kiện của tương lai và không chắc chắn và hình thức thể hiện điều kiện,… - Corbin, Arthur L., “Conditions in the Law of Contract”, Yale Law Journal, Vol. 28, p. 739-768: Bài báo nghiên cứu về vấn đề điều kiện trong luật hợp đồng trong pháp luật Anh Mỹ thông qua các nội dung như: Khái niệm điều kiện, phân biệt lời hứa và điều kiện, phân loại các loại điều kiện (điều kiện phát sinh, chấm dứt hay minh thị, ngầm định hay điều kiện trong hợp đồng đơn phương, song phương) và các quy tắc để xác định sự kiện là điều kiện,… Ngoài ra, còn một số bài viết khác có liên quan đến hợp đồng có điều kiện. Những tài liệu khoa học trên là nguồn tài liệu vô cùng quý báu giúp tác giả có nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu. Tuy nhiên, đa phần các tài liệu chỉ mới dừng lại ở một hoặc một số khía cạnh riêng biệt của nó mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt về hợp đồng có điều kiện dựa vào quy định hiện hành và thực tiễn xét xử. Trong khi đó, vấn đề này còn có điểm chưa rõ ràng làm cho việc áp dụng quy định pháp luật trên thực tế còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ tình hình trên, tác giả mong muốn phân tích quy định, đồng thời gắn với thực tiễn áp dụng để tìm hiểu những điểm thiếu sót và chưa hợp lý của các quy định trong pháp luật hiện hành về hợp đồng có điều kiện. Từ đó, đưa ra những định hướng hoàn thiện để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Thông qua việc nghiên cứu đề tài “Hợp đồng có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam”, tác giả hướng đến các mục đích quan trọng sau: Thứ nhất, làm rõ các quy định của pháp luật về hợp đồng có điều kiện, cụ thể: Đề tài sẽ phân tích một số vấn đề cơ bản của hợp đồng có điều kiện như khái niệm, 4 chủ thể, hiệu lực của hợp đồng có điều kiện, việc thực hiện và chấm dứt hợp đồng có điều kiện. Thứ hai, tìm hiểu những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng có điều kiện mà luật chưa quy định, cụ thể: Đề tài sẽ phân tích những vấn đề liên quan đến điều kiện trong hợp đồng có điều kiện. Thứ ba, góp phần hoàn thiện pháp luật Việt nam về hợp đồng có điều kiện, cụ thể: Dựa trên những lý luận chung và các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hợp đồng có điều kiện, tác giả sẽ chỉ ra những thiếu sót, điểm chưa phù hợp của các quy định cũng như những vướng mắc, khó khăn của cơ quan giải quyết tranh chấp. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung phù hợp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hợp đồng có điều kiện. Trong đó tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý cơ bản của hợp đồng có điều kiện, bao gồm: khái niệm, chủ thể, hiệu lực của hợp đồng có điều kiện, việc thực hiện và chấm dứt hợp đồng có điều kiện và đặc biệt là vấn đề điều kiện trong hợp đồng có điều kiện. Đồng thời, đề tài còn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hợp đồng có điều kiện. Về phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng có điều kiện, cụ thể dựa vào Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời, có tham khảo quan điểm của các học giả, chuyên gia. Bên cạnh đó, đề tài cũng tham khảo một số quy định liên quan trong pháp luật Anh Mỹ, Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng, Bộ luật Dân sự của một số quốc gia như Pháp, Nhật, Nga… Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu thực tiễn xét xử trong một số Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân các cấp trong việc áp dụng quy định pháp luật về hợp đồng có điều kiện. 5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu Tác giả dựa theo nội dung của từng chương để sử dụng phương pháp nghiên cứu thích hợp, trên cơ sở kết hợp nhiều phương pháp để làm rõ toàn diện vấn đề: - Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp: Đây là hai phương pháp chủ đạo được sử dụng xuyên suốt trong đề tài. Tác giả vận dụng phương pháp phân tích để giải thích, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử. Phương pháp tổng hợp được dùng để kết luận và khát quát các vấn đề được trình bày trong đề tài. 5 - Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở Mục 1.3 và Chương 2. Phương pháp này được dùng để so sánh các khái niệm dễ gây nhầm lẫn, đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam với quy định của một số quốc gia để thấy được những thiếu sót trong quy định hiện hành. Bên cạnh đó, tác giả còn so sánh việc áp dụng pháp luật giữa các cơ quan giải quyết tranh chấp để thấy được sự không thống nhất trong thực tiễn xét xử. - Phương pháp phân tích vụ việc: Tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở Chương 2. Phương pháp này được dùng để phân tích, đánh giá và bình luận một số vụ việc trong các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân các cấp để tạo nên một cái nhìn toàn diện trong nghiên cứu lập pháp. 6. Bố cục tổng quát của khóa luận Đề tài “Hợp đồng có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam” có kết cấu 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận, trong đó, phần nội dung của đề tài gồm 2 chương, cụ thể: Phần mở đầu Chương 1. Khái quát chung về hợp đồng có điều kiện Ở Chương 1, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản của hợp đồng có điều kiện, bao gồm: khái niệm, chủ thể, vấn đề điều kiện, hiệu lực, việc thực hiện và chấm dứt hợp đồng có điều kiện. Chương 2. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng có điều kiện Ở Chương 2, tác giả đã tìm hiểu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về hợp đồng có điều kiện thông qua việc phân tích một số Bản án, Quyết định của Tòa án để đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn những quy định về hợp đồng có điều kiện. Phần kết luận 6 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG CÓ ĐIỀU KIỆN Hợp đồng có điều kiện đã rất phổ biến, loại hợp đồng này tuy không mới nhưng quy định hiện hành về nó còn khá chung chung và chưa đầy đủ. Để hiểu rõ về loại hợp đồng này, đồng thời tạo tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu tiếp phần sau, trong chương này tác giả sẽ trình bày khái quát về hợp đồng có điều kiện, bao gồm các nội dung: khái niệm hợp đồng có điều kiện, chủ thể, điều kiện trong hợp đồng có điều kiện, hiệu lực của hợp đồng có điều kiện và việc thực hiện, chấm dứt hợp đồng có điều kiện. Khái niệm hợp đồng có điều kiện Hợp đồng được coi là một trong những chế định pháp lý cổ xưa và cơ bản nhất. Trên thế giới, hợp đồng đã xuất hiện từ rất lâu. “Nhiều luật gia cho rằng thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) được hình thành từ động từ contrahere, trong tiếng La-tinh 1.1. có nghĩa là “ràng buộc”, và xuất hiện đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V - IV TCN”1. Ở Việt Nam, các thuật ngữ chỉ về hợp đồng như tờ giao ước, giao kèo, cam kết, mua, bán, cho thuê… được sử dụng rất nhiều. Trong cổ luật, thuật ngữ “văn tự”, “văn khế”2, “khế ước” hay “hiệp ước”3 là những thuật ngữ chỉ về hợp đồng nhưng các quy định về hợp đồng không nhiều, chủ yếu quy định về mua bán, cho vay và không có luật riêng quy định về hợp đồng. Ngày nay, trong đời sống hằng ngày, hợp đồng đã được con người sử dụng phổ biến trong nhiều quan hệ xã hội để đáp ứng các nhu cầu giao dịch và bảo vệ lợi ích của mình. Trong khoa học pháp lý, một tác giả đã bình luận: “Hợp đồng chiếm một vị trí trung tâm và được chế định với dung lượng lớn nhất so với các chế định khác do vai trò trung tâm của nó đối với trật tự thị trường”4. Theo Bộ luật Dân sự (BLDS) Pháp sửa đổi năm 2016: “Hợp đồng là sự thỏa thuận về ý chí giữa hai hoặc nhiều người nhằm tạo ra, sửa đổi, chuyển giao hoặc Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 8. 2 Viện Sử học (2013), Quốc triều hình luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, Điều 363, Điều 366. 3 Xem thêm: Trường Đại học Luật TP.HCM (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 110. 4 Reinmann, Mathias & Reinhard Zimmermann (2008), The Oxford Handbook of Comparative Law, Oxford University Press Publisshers, p. 900. 1 7 chấm dứt nghĩa vụ”5. Theo BLDS Nga sửa đổi năm 2011: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”6. “Theo pháp luật hợp đồng của Hoa Kỳ thì hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận có hiệu lực bắt buộc thi hành”7. Như vậy, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận của ít nhất hai bên tham gia giao kết hợp đồng. Pháp luật của các quốc gia trên thế giới có cách ghi nhận riêng về khái niệm hợp đồng nhưng đều khẳng định sự thỏa thuận là yếu tố cốt lõi của hợp đồng. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Hợp đồng là sự thỏa thuận, giao ước giữa hai hay nhiều bên quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được viết thành văn bản”8. Trong các văn bản pháp luật, thuật ngữ “khế ước” hay “hiệp ước” không còn được sử dụng mà đã được thay thế bằng thuật ngữ “hợp đồng”. Theo đó, ở Việt Nam, hợp đồng đã trở thành một trong những hình thức pháp lý cơ bản, thuật ngữ này đã được ghi nhận tại nhiều văn bản pháp luật từ Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 đến các BLDS năm 1995, BLDS năm 2005. Và đến Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Từ khái niệm hợp đồng, để xác định đúng quyền và nghĩa vụ của các bên, đồng thời định ra những quy chế pháp lý thích hợp trong việc xác lập, giao kết, thực hiện hợp đồng, BLDS đã đưa ra nhiều loại hợp đồng dựa trên từng tiêu chí cụ thể. Trong đó, dựa trên sự tồn tại của các điều kiện làm phát sinh hoặc chấm dứt hiệu lực hợp đồng mà hợp đồng có điều kiện đã được ghi nhận. Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 không chỉ ra có những loại hợp đồng dân sự nào nhưng có sự thừa nhận về hợp đồng có điều kiện ở Điều 23: “Trong trường hợp các bên thoả thuận về một sự kiện là điều kiện thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng, thì khi sự kiện đó xảy ra, hợp đồng phải được thực hiện hoặc chấm dứt”. Tại Điều 134 BLDS năm 1995 ghi nhận về giao dịch dân sự có điều kiện nhưng không liệt kê hợp đồng có điều kiện trong các loại hợp đồng. Đến BLDS năm 2005, bên cạnh việc quy định giao dịch dân sự có điều kiện tại Điều 125 thì Bộ luật này cũng 5 Article 1101 French Civil Code (as amended and added up to February 10, 2016), https://www.legifrance.gouv.fr/codes/id/LEGITEXT000006070721/#/, truy cập ngày 22/4/2021. 6 Article 420 Civil code of Russian Federation (as amended up to December 8, 2011), https://www.wipo.int/edocs/lexdocs/laws/en/ru/ru083en.pdf, truy cập ngày 22/4/2021. 7 Hoàng Thế Liên (2009), Bình luận Khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 (Tập 2), Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, tr. 195. 8 Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, tr. 466. 8 chính thức ghi nhận hợp đồng có điều kiện là một trong những loại hợp đồng chủ yếu tại khoản 6 Điều 406. Tương tự, BLDS năm 2015 đã xây dựng một số điều luật đề cập đến loại hợp đồng này. Cụ thể, tại Điều 120 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ”, tại khoản 6 Điều 402 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định” và tại Điều 462 BLDS năm 2015 quy định về hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện, đây là một dạng cụ thể của hợp đồng có điều kiện, theo đó hợp đồng tặng cho tài sản nhưng bên được tặng cho chỉ trở thành chủ sở hữu tài sản nếu thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ theo yêu cầu của bên tặng cho. Như vậy, hợp đồng có điều kiện đã được đề cập trong các BLDS nhưng những quy định về loại hợp đồng này chỉ mới là những quy định chung về khái niệm giao dịch có điều kiện, hợp đồng có điều kiện, đồng thời những quy định đó cũng tồn tại một số vướng mắc khi áp dụng. Theo Điều 120 BLDS năm 2015 thì giao dịch có điều kiện là giao dịch được phát sinh hay hủy bỏ phụ thuộc vào điều kiện mà các bên đã thỏa thuận. Ví dụ: Hợp đồng Lixăng về một chương trình máy tính với điều kiện liên quan đến tính khả thi. Cụ thể: C thỏa thuận cho D khai thác chương trình máy tính nhưng việc phát sinh hợp đồng này phụ thuộc vào việc công ty E khẳng định chương trình này có phù hợp hay không, nếu có thì hợp đồng giữa C và D phát sinh, ngược lại hợp đồng này không phát sinh. Ở đây, C và D đã thống nhất với nhau về nội dung hợp đồng nhưng việc hợp đồng phát sinh còn phụ thuộc vào việc công ty E có khẳng định chương trình đó phù hợp hay không. Như vậy, tại thời điểm thỏa thuận, các chủ thể vẫn chưa thể chắc chắn giao dịch mình hướng tới có phát sinh hiệu lực hay không. Dựa trên tinh thần tại Điều 125 BLDS năm 2005 tương ứng với Điều 120 BLDS năm 2015, có quan điểm khi điều kiện phát sinh xảy ra thì hợp đồng phát sinh hiệu lực: “Những hợp đồng trong đó các bên thỏa thuận về một hoặc nhiều sự kiện là điều kiện mà chỉ khi điều kiện đó xảy ra hoặc không xảy ra thì hợp đồng mới được coi là phát sinh hay chấm dứt hiệu lực”9. Phạm Công Lạc (1998), “Về “điều kiện” trong hợp đồng có điều kiện”, Tạp chí Luật học, (02), tr. 29. 9 9 Bên cạnh đó, theo khoản 6 Điều 402 BLDS năm 2015 thì có thể hiểu hợp đồng có điều kiện là hợp đồng được thực hiện khi có sự phát sinh, thay đổi hay chấm dứt điều kiện mà các bên đã thỏa thuận. Ví dụ: A giao kết hợp đồng mua thiết bị văn phòng của B và kèm theo điều kiện A sẽ trả tiền cho B ngay sau khi A nhận được tiền vay từ ngân hàng; hợp đồng mua bán và hợp đồng vay đã được giao kết xong nhưng A chưa phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền, A nhận được tiền vay thì mới phải thực hiện nghĩa vụ đó. Theo giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội: “Hợp đồng có điều kiện là những hợp đồng mà khi giao kết, bên cạnh việc thỏa thuận về nội dung của hợp đồng các bên còn thỏa thuận để xác định về một sự kiện để khi sự kiện đó xảy ra thì hợp đồng mới được thực hiện hoặc phải chấm dứt”10. Tương tự như vậy, có quan điểm cho rằng: “Hợp đồng dân sự có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên phụ thuộc vào một sự kiện khách quan nhất định do các bên thỏa thuận…”11. Như vậy, khoản 1 Điều 120 là quy định chung về giao dịch dân sự có điều kiện, điều luật đề cập giao dịch dân sự có điều kiện liên quan đến việc thỏa thuận điều kiện phát sinh và điều kiện hủy bỏ giao dịch. Khoản 6 Điều 402 là quy định điều chỉnh trực tiếp về hợp đồng có điều kiện thì chỉ ghi nhận về việc thực hiện hợp đồng phụ thuộc vào điều kiện làm phát sinh, điều kiện làm thay đổi và điều kiện làm chấm dứt hợp đồng, mà hợp đồng phải có hiệu lực thì mới được thực hiện. Do đó, điều kiện phát sinh ở hai điều luật là giống nhau, là đều làm phát sinh hiệu lực hợp đồng, khoản 6 Điều 402 bổ sung thêm điều kiện làm thay đổi hợp đồng. Điều kiện hủy bỏ và chấm dứt đều làm hợp đồng không phát sinh hiệu lực nhưng theo giáo trình trường Đại học Luật TP.HCM thì “Thuật ngữ “chấm dứt” có nghĩa đúng và đủ hơn thuật ngữ “hủy bỏ”, vì “chấm dứt” cũng bao gồm cả căn cứ hợp đồng hủy bỏ và các trường hợp chấm dứt khác”12. Về pháp luật nước ngoài, các quốc gia cũng đã ghi nhận sự tồn tại của hợp đồng có điều kiện. “Thời La Mã cổ đại đã tồn tại những quy định về giao dịch có điều Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 127-128. 11 Trần Thị Thu Quỳnh, “Hợp đồng dân sự có điều kiện”, Thư viện số tài liệu nội vụ - Đại học Quốc gia Hà Nội, https://repository.vnu.edu.vn/flowpaper/simple_document.php?subfolder=15/47/50/&doc=1547502 57827835844291129216063236157831&bitsid=be23d65e-7c51-482f-bbc0-5651cb10edcc&uid=, truy cập ngày 24/4/2021. 12 Trường Đại học Luật TP.HCM (2017), tlđd (3), tr. 141. 10 10 kiện là những tình huống được đặt ra trong hợp đồng gắn với những hậu quả pháp lý nhất định”13. Tại Điều 157 BLDS Nga có giải thích về giao dịch có điều kiện là giao dịch phát sinh hoặc giao dịch chấm dứt phụ thuộc vào hoàn cảnh mà chưa biết liệu nó có xảy ra hay không xảy ra14. Theo BLDS Nhật Bản thì “Giao dịch có điều kiện là các giao dịch mà chỉ phát sinh hiệu lực khi xảy ra một sự kiện nhất định hoặc chấm dứt hiệu lực khi xảy ra một sự kiện nhất định”15, quy định này tương tự với quy định tại Điều 120 BLDS nước ta. BLDS Pháp, BLDS Đức, BLDS và Thương mại Thái Lan không đưa ra khái niệm giao dịch có điều kiện, hợp đồng có điều kiện nhưng có sự thừa nhận về loại hợp đồng này thông qua các quy định về điều kiện và hợp đồng tặng cho có điều kiện, như: từ Điều 1304 đến 1304-7 BLDS Pháp sửa đổi, bổ sung năm 201616 có quy định về điều kiện trong nghĩa vụ có điều kiện, theo Điều 525 BLDS Đức thì: “Người nào thực hiện tặng cho theo một điều kiện có thể yêu cầu thực hiện điều kiện này nếu người đó đã thực hiện phần mình”17, còn Điều 522 BLDS và Thương mại Thái Lan quy định: “Việc tặng cho có thể được thực hiện bằng cách đồng ý miễn cho người nhận việc thi hành một nghĩa vụ, hoặc bằng cách thi hành một nghĩa vụ mà người nhận có bổn phận phải thi hành”18. Như vậy, pháp luật các nước cũng như Việt Nam đều đã có ghi nhận về hợp đồng có điều kiện. Hiện nay, hợp đồng có điều kiện theo khoản 6 Điều 402 BLDS năm 2015 được hiểu là hợp đồng mà khi giao kết, bên cạnh việc thỏa thuận về nội dung của hợp đồng thì các bên còn đưa ra những sự kiện nhất định là điều kiện để xác định việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Từ định nghĩa này, tác giả sẽ làm sáng rõ các vấn đề pháp lý và thực tiễn của quy định về hợp đồng có điều kiện thông qua những nội dung sau: chủ thể của hợp đồng, điều Lê Thị Diễm Phương, “Khái niệm về điều kiện trong loại hợp đồng có điều kiện”, Tạp chí Tòa án Nhân dân điện tử, htTPs://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/khai-niem-ve-dieu-kien-trong-loai-hop-dong-co-dieukien, truy cập ngày 26/4/2021. 14 Article 157.1, 157.2 Civil code of Russian Federation (as amended up to December 8, 2011), https://www.wipo.int/edocs/lexdocs/laws/en/ru/ru083en.pdf, truy cập ngày 27/4/2021. 15 Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 175. 16 Article 1304 French Civil Code (as amended and added up to February 10, 2016), https://www.legifrance.gouv.fr/codes/id/LEGITEXT000006070721/#/, truy cập ngày 28/4/2021. 17 Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Bộ luật Dân sự Đức - Chế định nghĩa vụ, Nxb. Lao động, Hà Nội, Điều 525. 18 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Điều 522. 13 11 kiện trong hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng, việc thực hiện và chấm dứt hợp đồng có điều kiện. 1.2. Chủ thể của hợp đồng có điều kiện Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên cho nên chủ thể trong hợp đồng nói chung và hợp đồng có điều kiện nói riêng phải có ít nhất hai bên. Các bên tham gia thỏa thuận những điều kiện mà khi nó xảy ra thì hợp đồng được phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt. Do đó, chủ thể trong hợp đồng có điều kiện cũng phải tuân theo các quy định về chủ thể trong hợp đồng nói chung. Chủ thể của hợp đồng có điều kiện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Tại điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015 quy định về năng lực chủ thể để giao dịch có điều kiện: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Khi tham gia giao kết hợp đồng, cá nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự phù hợp với hợp đồng được xác lập. Hợp đồng phải có sự thống nhất ý chí của các bên nên chỉ những cá nhân có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và khả năng nhận thức được hành vi của họ để tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng. Ở đây, BLDS không quy định cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà chỉ cần phù hợp với hợp đồng các bên xác lập vì tùy thuộc vào khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân mà năng lực hành vi dân sự của các cá nhân là không giống nhau. Từ đó, khả năng tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các cá nhân là khác nhau. Đối với pháp nhân, khi tham gia giao kết hợp đồng, pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp BLDS, luật khác có liên quan quy định khác. Theo một tác giả, “sự kiện làm điều kiện thường chỉ do một bên đưa ra nhưng bản thân điều kiện đó được coi là một vấn đề thuộc về nội dung của hợp đồng nên phải có sự chấp thuận của bên kia”19, cho nên, trong hợp đồng có điều kiện phải luôn có bên chủ thể đưa ra điều kiện và bên chủ thể chấp nhận điều kiện. Chủ thể chấp nhận điều kiện có thể đồng thời là chủ thể thực hiện điều kiện hoặc không. Bởi vì: Thứ nhất, nếu điều kiện là những sự biến về thiên nhiên (thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh, sinh tử) thì không có chủ thể thực hiện điều kiện, nếu điều kiện là hành vi của con người thì mới có chủ thể thực hiện điều kiện. Phạm Văn Tuyết (2011), “Những vướng mắc của Bộ luật Dân sự về giao dịch, hợp đồng và nghĩa vụ có điều kiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (10), tr. 20. 19 12 Thứ hai, trường hợp có chủ thể thực hiện điều kiện, nếu: Trường hợp 1: Thỏa thuận nêu rõ chủ thể thực hiện điều kiện phải do chính bên chủ thể chấp nhận điều kiện thực hiện và không cho phép chuyển giao thì chủ thể chấp nhận điều kiện chính là chủ thể thực hiện điều kiện. Ví dụ: Trong hợp đồng hợp tác kinh doanh khách sạn, A thỏa thuận hợp tác với B, điều kiện là B phải học xong chương trình cử nhân quản trị kinh doanh tại trường Đại học X. Ngược lại, thỏa thuận nêu rõ chủ thể thực hiện điều kiện do chính chủ thể đưa ra điều kiện thực hiện hoặc điều kiện phải do bên thứ ba thực hiện thì chủ thể chấp nhận điều kiện không đồng thời là chủ thể thực hiện điều kiện. Trong hợp đồng tặng cho có điều kiện, theo một tác giả, “đây là giả thiết khá hãn hữu trên thực tế vì giữa bên tặng cho và người thứ ba không có bất cứ sự ràng buộc nào. Tuy vậy, trong một số trường hợp người thứ ba vẫn chấp nhận thực hiện điều kiện tặng cho vì họ mong muốn người được tặng cho nhận được tài sản”20. Ví dụ: T thỏa thuận tặng nhà cho H với điều kiện L (mẹ của H) phải chăm sóc, phụng dưỡng T cho đến khi T qua đời. Ở đây, thỏa thuận tặng cho được tiến hành giữa T và H, người thực hiện điều kiện là L không phải là chủ thể của hợp đồng. Trường hợp 2: Thỏa thuận chỉ nêu kết quả của điều kiện mà không yêu cầu về người thực hiện thì chủ thể thực hiện điều kiện có thể trực tiếp thực hiện điều kiện hoặc chuyển giao cho người khác thực hiện. Theo đó, đối với những điều kiện liên quan đến nhân thân của bên chấp nhận điều kiện và không thể chuyển giao cho chủ thể khác thực hiện thì bên chấp nhận điều kiện phải tự mình thực hiện điều kiện. Đối với những điều kiện có thể chuyển giao cho chủ thể khác thực hiện thì bên chấp nhận điều kiện có thể nhờ, thuê hay ủy quyền cho chủ thể khác thực hiện. Ví dụ: Trong hợp đồng tặng cho tài sản, B sẽ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho A với điều kiện A phải chăm sóc B nhưng do A thường xuyên đi công tác xa nên B đồng ý để A thuê C đến chăm sóc B. Như vậy, chủ thể của hợp đồng có điều kiện phải tuân theo các quy định về chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng nói chung. Việc xác định chủ thể thực hiện điều kiện nhằm thông qua đó xác định điều kiện đã được thực hiện/xảy ra hay chưa. Theo đó, muốn xác định được, các bên chủ thể cần căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên cũng như xem xét đến tính chất của điều kiện. Để có thể hiểu về điều kiện trong hợp Lê Thị Giang (2020), Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 176. 20 13 đồng có điều kiện, tác giả sẽ phân tích rõ hơn về khái niệm điều kiện, các yêu cầu pháp lý, hình thức của điều kiện và phân loại điều kiện trong hợp đồng có điều kiện. 1.3. Điều kiện trong hợp đồng có điều kiện Hợp đồng có điều kiện là một trong những loại hợp đồng chủ yếu. Do đó, hợp đồng có điều kiện có những đặc điểm chung của một hợp đồng thông thường và có những đặc thù gắn với điều kiện cụ thể. Các yêu cầu về chủ thể, mục đích và nội dung, hình thức của hợp đồng có điều kiện cũng phải tuân theo các quy định về hợp đồng nói chung. Trong phạm vi của khóa luận, tác giả sẽ tập trung vào nội dung đặc thù của loại hợp đồng này, đó là điều kiện trong hợp đồng có điều kiện. 1.3.1. Khái niệm điều kiện trong hợp đồng có điều kiện Ở khía cạnh ngôn ngữ học, thuật ngữ “điều kiện” là: “Điều cần thiết phải có để đạt một mục đích, cơ sở của một sự thỏa thuận”21; “Cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra” hay “Điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một việc nào đó”22. Ở khía cạnh pháp lý, thuật ngữ “điều kiện” chưa được pháp luật dân sự định nghĩa. Có quan điểm cho rằng: “Điều kiện là những giả thiết phải có trong tương lai thì thỏa thuận của các bên mới có hiệu lực”23. Trong pháp luật Anh Mỹ có quy định về khái niệm “điều kiện” trong hợp đồng có điều kiện: “Điều kiện là sự kiện mà quyền và nghĩa vụ của các bên phụ thuộc vào đó. Sự kiện có thể là hành vi của một trong hai bên ký kết, hành vi của bên thứ ba hoặc bất kỳ sự kiện nào đó trong thế giới thực của chúng ta”24. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 không có quy định cụ thể về “điều kiện” trong loại hợp đồng này, cho nên có nhiều quan điểm. Vậy, nên hiểu như thế nào về “điều kiện” trong hợp đồng có điều kiện? Dựa trên cơ sở Điều 125 BLDS năm 2005 (tương ứng với Điều 120 BLDS năm 2015), có quan điểm cho rằng: “Những sự kiện mà các bên tham gia giao dịch dân sự thoả thuận làm điều kiện để xác lập giao dịch hoặc huỷ bỏ giao dịch được hiểu là những hiện tượng, sự vật, sự việc phát sinh trong đời sống xã hội thì khi sự kiện Nguyễn Lân (2004), Từ điển và từ ngữ Việt Nam, Nxb. TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh, tr. 629. Hoàng Phê (2014), Từ điển tiếng Việt (tái bản lần thứ 6), Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 428. 23 Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (Đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 475. 24 Corbin, Arthur L., “Conditions in the Law of Contract”, Yale Law Journal, Vol. 28, p. 743, https://heinonline.org/HOL/Page?public=true&handle=hein.journals/ylr28&div=65&start_page=73 9&collection=journals&set_as_cursor=0&men_tab=srchresults, truy cập ngày 06/5/2021. 21 22 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan