TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***------------
ĐOÀN HUỲNH PHƯƠNG NGHI
MSSV: 1753801015145
HOẠT ĐỘNG LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM, BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM
TẠI QUỐC HỘI
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2017 - 2021
Người hướng dẫn:
ThS. Trần Thị Thu Hà
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***------------
ĐOÀN HUỲNH PHƯƠNG NGHI
MSSV: 1753801015145
HOẠT ĐỘNG LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM, BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM
TẠI QUỐC HỘI
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2017 - 2021
Người hướng dẫn:
ThS. Trần Thị Thu Hà
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng em,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Trần Thị Thu Hà. Khóa luận
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo. Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả
Đoàn Huỳnh Phương Nghi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Viết đầy đủ
Viết tắt
1
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa năm 1946 được Quốc hội
khóa I thông qua ngày 9 tháng 11 năm
1946
Hiến pháp năm 1946
2
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ
Hiến pháp năm 1959
cộng hòa năm 1959 được Quốc hội
khóa I thông qua ngày 31 tháng 12 năm
1959
Hiến pháp năm 1980
3
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1980 được Quốc
hội khóa VI thông qua ngày 18 tháng
12 năm 1980
Hiến pháp năm 1992
4
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 được Quốc
hội khóa VIII thông qua ngày 15 tháng
4 năm 1992
Hiến pháp năm 2013
5
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 được Quốc
hội khóa XIII thông qua ngày 28 tháng
11 năm 2013
6
Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28
Nghị quyết số 85/2014/QH13
tháng 11 năm 2014 về việc lấy phiếu tín
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội
đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn
7
Nghị quyết số 35/2012/QH13 ngày 21
Nghị quyết số 35/2012/QH13
tháng 11 năm 2012 về việc lấy phiếu tín
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội
đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn
8
Nghị quyết số 27/2004/QH11 ngày 15
Nghị quyết số 27/2004/QH11
tháng 6 năm 2004 về việc ban hành quy
chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và
Ủy ban của Quốc hội
9
Quốc hội
QH
10
Tòa án nhân dân tối cao
TANDTC
11
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VKSNDTC
12
Ủy ban thường vụ Quốc hội
UBTVQH
13
Hội đồng dân tộc
HĐDT
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY PHIẾ U TÍ N
NHIỆ M, BỎ PHIẾ U TÍ N NHIỆ M TẠI QUỐC HỘI ....................................... 5
1.1 Khái niệ m, đ ặ c đ iể m, ý nghĩ a củ a hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín nhiệ m,
bỏ phiế u tín nhiệ m tạ i Quố c hộ i. ................................................................... 5
1.1.1 Khái niệ m về hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín nhiệ m, bỏ phiế u tín nhiệ m
tạ i Quố c hộ i. ........................................................................................................ 5
1.1.2 Đ ặ c đ iể m củ a hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín nhiệ m, bỏ phiế u tín nhiệ m
tạ i Quố c hộ i ......................................................................................................... 8
1.1.3 Ý nghĩ a củ a hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín nhiệ m, bỏ phiế u tín nhiệ m ... 18
1.2 Quy đ ị nh về hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín nhiệ m, bỏ phiế u tín nhiệ m
tạ i mộ t số quố c gia trên thế giới ................................................................... 19
1.2.1 Vư ơ ng quố c Anh ...................................................................................... 20
1.2.2 Cộ ng hòa Liên bang Nga ........................................................................... 23
1.2.3 Cộ ng hòa Liên bang Đ ứ c .......................................................................... 26
1.2.4 Cộ ng hòa Slovenia ...................................................................................... 28
1.2.5 Cộ ng hòa Dân chủ Liên bang Nepal ......................................................... 30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾ N NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆ N HOẠT ĐỘNG LẤY PHIẾ U TÍ N NHIỆ M, BỎ PHIẾ U TÍ N
NHIỆ M TẠI QUỐC HỘI................................................................................... 35
2.1 Thực trạ ng quy đ ị nh củ a pháp luậ t về hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín
nhiệ m, bỏ phiế u tín nhiệ m tạ i Quố c hộ i .................................................... 35
2.1.1 Thự c trạ ng quy đ ị nh củ a pháp luậ t về hoạ t đ ộ ng bỏ phiế u tín
nhiệ m theo quy đ ị nh củ a các bả n Hiế n pháp và pháp luậ t Việ t Nam ...... 35
2.1.1.1 Thự c trạ ng bỏ phiế u tín nhiệ m theo quy đ ị nh củ a Hiế n pháp
nă m 1946 ......................................................................................................... 35
2.1.1.2 Thự c trạ ng bỏ phiế u tín nhiệ m theo quy đ ị nh củ a Hiế n pháp
nă m 1959, Hiế n pháp nă m 1980, Hiế n pháp nă m 1992 (sử a đ ổ i, bổ sung
nă m 2001) ........................................................................................................ 37
2.1.1.3 Thự c trạ ng bỏ phiế u tín nhiệ m theo quy đ ị nh củ a Hiế n pháp
nă m 2013 và pháp luậ t hiệ n hà nh ............................................................... 40
2.1.2 Thự c trạ ng quy đ ị nh củ a pháp luậ t về hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín
nhiệ m ................................................................................................................... 46
2.2 Thực trạ ng thực hiệ n hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín nhiệ m, bỏ phiế u tín
nhiệ m tạ i Quố c hộ i ở Việ t Nam .................................................................... 53
2.2.1 Thự c trạ ng thự c hiệ n hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín nhiệ m tạ i Quố c hộ i
Việ t Nam ............................................................................................................. 53
2.2.2 Thự c trạ ng thự c hiệ n hoạ t đ ộ ng bỏ phiế u tín nhiệ m tạ i Quố c hộ i
Việ t Nam ............................................................................................................. 59
2.3 Mộ t số kiế n nghị nhằ m hoà n thiệ n hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín nhiệ m,
bỏ phiế u tín nhiệ m tạ i Quố c hộ i .................................................................. 63
2.3.1 Mộ t số kiế n nghị nhằ m hoà n thiệ n hoạ t đ ộ ng lấ y phiế u tín nhiệ m
tạ i Quố c hộ i ....................................................................................................... 63
2.3.2 Mộ t số kiế n nghị nhằ m hoà n thiệ n hoạ t đ ộ ng bỏ phiế u tín nhiệ m
tạ i Quố c hộ i ....................................................................................................... 64
KẾ T LUẬN ......................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆ U THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước như hiện nay, mục tiêu nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước luôn là vấn đề quan trọng được
Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu, trong đó đặc biệt quan tâm đến các vấn đề nâng cao
hiệu quả hoạt động của Quốc hội để Quốc hội hoạt động đúng với bản chất là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền
giám sát tối cao hoạt động của nhà nước và hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm là một trong những công cụ đắc lực giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao này.
Ở nước ta, chế định lấy phiếu tín nhiệm được quy định lần đầu tiên tại Nghị quyết
số 35/2012/QH13, và đã được Quốc hội áp dụng một cách triệt để và có hiệu quả qua
các lần lấy phiếu tín nhiệm tại các năm 2013, 2014 và 2018 nhưng vẫn chưa có trường
hợp nào người được lấy phiếu tín nhiệm phải “đối mặt” với hệ quả xấu nhất là từ chức
hoặc đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm. Trong khi đó, bỏ phiếu tín nhiệm lần đầu tiên được quy
định tại Hiến pháp năm 1946 và được bổ sung lại vào Hiến pháp năm 1992 bởi Nghị
quyết số 51/2001/QH10. Chế định này được quy định nhằm giúp Quốc hội chủ động hơn
trong việc “xử lý” các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn vì một lý do nào đó
làm Quốc hội mất niềm tin. Tuy nhiên, từ được khi quy định tại Hiến pháp năm 1946
cho đến nay, Quốc hội vẫn chưa sử dụng chế định bỏ phiếu tín nhiệm lần nào mặc dù đã
có những trường hợp người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn phạm những
sai lầm, khuyết điểm lớn.
Vấn đề đặt ra là mặc dù đã được quy định trong hệ thống pháp luật, nhưng hai
chế định này vẫn chưa phát huy được hiệu quả của mình. Do đó, để lấy phiếu tín nhiệm
và bỏ phiếu tín nhiệm có cơ hội có nhiều “đất dụng võ” tại nghị trường của Quốc hội
hơn trong tương lai, tác giả đã chọn đề tài “Hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm tại Quốc hội” để làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật học của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ thực tiễn sử dụng chế định lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm,
cùng với những bất cập còn tồn đọng trong quy định pháp luật. Hai cơ chế được cho là
“công cụ” đắc lực để Quốc hội có thể thực hiện quyền giám sát tối cao của mình một
1
cách có hiệu quả, nhưng cơ hội sử dụng còn hạn chế. Vì vậy, qua công trình nghiên cứu
này, tác giả tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, thực trạng quy định, thực tiễn thực
hiện các quy định pháp luật về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm để nhằm:
Thứ nhất, nghiên cứu một cách khái quát về cơ sở lý luận của lấy phiếu tín nhiệm,
bỏ phiếu tín nhiệm.
Thứ hai, tác giả đưa ra thực trạng, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến thực trạng
của lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội hiện nay.
Thứ tư, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định lấy phiếu tín
nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là những vấn đề lý luận, thực trạng quy định
của pháp luật, thực trạng thực hiện quy định pháp luật liên quan đến hoạt động lấy phiếu
tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam và tại một số quốc gia trên thế giới.
Từ đó, đưa ra một số kiến nghị cụ thể để góp phần hoàn thiện về mặt quy định luật pháp
về hai cơ chế giám sát tối cao nêu trên của Quốc hội.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tác giả tập trung nghiên cứu chế định lấy phiếu
tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm trên cơ sở lý luận, thực tiễn cùng với sự nghiên cứu về
trình tự, thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu bất tín nhiệm ở một số quốc gia trên thế
giới, từ đó tìm ra giải pháp, đưa ra kiến nghị cho Việt Nam.
4. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội không phải là một
đề tài quá mới mẻ, bởi nó đã được nhiều tác giả nghiên cứu trong các Luận án, Luận văn,
các bài báo, bài tạp chí khoa học chuyên ngành. Cụ thể: Trương Thị Minh Thùy (2019),
“Hoàn thiện pháp luật về hoạt động lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội”, Tạp chí Luật
học – Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 10, tr. 64-78; Trần Việt Dũng (2018) “Hoàn
thiện các quy định của pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp – Viện nghiên cứu Lập
pháp, Số 01(353), tr. 9-12; Lê Văn Nam (2016) “Bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, lý
luận, thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Khóa luận tốt nghiệp – Trường Đại học Luật
TPHCM; Bùi Ngọc Thanh (2012) “Lại bàn về bỏ phiếu tín nhiệm”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp – Văn phòng Quốc hội, số 10 (218), tr. 13-17; Đinh Thanh Phương (2012) “Góp
ý sửa đổi, bổ sung quy định về bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội”, báo Nhà nước và pháp
luật – Viện Nhà nước và pháp luật, số 4 (288), tr. 16-21; Trần Thị Thu Hà (2010) “Vấn
2
đề bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội - Lý luận, thực tiễn và phương hướng đổi mới” Khóa
luận tốt nghiệp – Trường Đại học Luật TPHCM; Vũ Đức Khiển (2009) “Quy định về bỏ
phiếu tín nhiệm: Từ mong muốn đến hiện thực”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Văn
phòng Quốc hội, Số chuyên đề 10 (147), tr. 12-16; Vũ Văn Nhiêm (2004) “Bỏ phiếu tín
nhiệm: Bàn về thủ tục khả thi”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Văn phòng Quốc hội, số
5 (40), tr. 4-6 và nhiều các công trình nghiên cứu khác nữa. Tuy nhiên, hiện tại chỉ có
một số ít luận văn nói về chế định bỏ phiếu tín nhiệm, chưa có công trình nghiên cứu
nào đi sâu vào cụ thể về cả hai hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại
Quốc hội trong khi hai chế định này có mối liên hệ vô cùng mật thiết và còn bổ trợ cho
nhau. Do đó, tác giả chọn đề tài này với mục đích phân tích cụ thể hơn về cả hai chế định
về mặt lý luận, thực tiễn và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn về mặt pháp
luật.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trong công trình này, việc nghiên cứu được tác giả thực hiện trên cơ sở duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước pháp luật để xem xét, đánh giá các mặt của vấn đề trong mối liên hệ
với nhau và xuyên suốt quá trình từ lịch sử đến hiện tại. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng
những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp so sánh: So sánh sự khác nhau của quy định pháp luật về lấy phiếu
tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm, so sánh quy định về những hoạt động này giữa các quốc
gia với nhau và với Việt Nam
Phương pháp tổng hợp, thống kê: Tổng hợp các quy định pháp luật, các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan trong quá trình nghiên cứu, quan điểm của các nhà khoa
học, tác giả, nhóm tác giả, các đề tài, công trình nghiên cứu liên quan. Phương pháp
thống kê được sử dụng để thống kê các lần thực hiện lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm, tỷ lệ phần trăm đại biểu Quốc hội, Hạ nghị sỹ bỏ phiếu tín nhiệm, bất tín nhiệm.
Phương pháp phân tích: Thực hiện phân tích các luận điểm, các quy định pháp
luật, các con số thống kê nhằm đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan, tìm ra
những điểm tích cực và những điểm bất cập còn tồn đọng trong các quy định hiện hành
và đưa ra kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật.
3
6. Bố cục của khóa luận
Bên cạnh phần Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Lời mở đầu, Kết luận và Danh
mục tài liệu tham khảo, bố cục của Khóa luận được chia thành 2 Chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại
Quốc hội
Chương 2: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động lấy phiếu
tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội
4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM,
BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM TẠI QUỐC HỘI
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm tại Quốc hội.
1.1.1 Khái niệm về hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội.
Từ thế kỷ XVIII, vấn đề bỏ phiếu bất tín nhiệm đã được ghi nhận và sử dụng tại
nhiều quốc gia trên thế giới và được coi là một đặc trưng của chính thể đại nghị. Điển
hình là Vương Quốc Anh – được xem là nơi khai sinh của những tập tục chính trị được
hình thành từ những thói quen sinh hoạt chính trị trong quá trình thực hiện lâu dài ở Anh
Quốc. Theo đó, sau cách mạng tư sản thành công, quyền lực ở Anh được chia đều cho
hai thế lực: giai cấp quý tộc phong kiến nắm hành pháp và biểu hiện qua đó là vua và
vương triều vẫn được xác lập trở lại và giai cấp quý tộc phong kiến phải chia sẻ quyền
lực với giai cấp tư sản, giai cấp tư sản nắm lập pháp (Nghị viện). Đến đầu thế kỷ XVII,
những vị vua ở Anh thường ban hành những chính sách hành pháp và những chính sách
này phải được Hạ viện phê duyệt và vì muốn những chính sách của mình được phê duyệt,
nhà vua đã thành lập ra Viện cơ mật đứng đầu là nhà vua và sau đó chọn ra một số quan
thượng thư là những người có uy tín, vai vế trong Hạ viện cùng nhau bàn bạc những
chính sách sau đó quan thượng thư sẽ thuyết phục Hạ viện, do đó Hạ viện sẽ dễ dàng
thông qua những chính sách hành pháp. Đến giữa thế kỷ XVIII, ở Anh có một vị vua là
George II không thể nói được tiếng Anh, bởi mẹ của ông là người Đức do đó ông chỉ
được dạy tiếng Đức thay vì tiếng Anh. Chính vì lẽ đó, ông không thể chủ trì được Viện
cơ mật, không có vua chủ trì do đó viên thượng thư thứ nhất được chọn để chủ trì Viện
cơ mật. Theo thời gian, Viện cơ mật dần trở thành Chính phủ Anh Quốc như ngày nay,
viên thượng thư thứ nhất trở thành Thủ tướng Anh Quốc, các viên thượng thư còn lại là
các bộ trưởng của nước Anh. Giai cấp tư sản đã dần lấy lại quyền hành pháp về tay mình,
biến vương triều trở thành “bình bông”. Thuở ban đầu, trách nhiệm của Chính phủ Anh
trước Hạ viện Anh là một loại trách nhiệm pháp lý, khi Hạ viện tỏ vẻ khó chịu và tỏ vẻ
không tin tưởng một Bộ trưởng nào đó, muốn Bộ trưởng đó từ chức nhưng Bộ trưởng
không đồng ý, yêu cầu Hạ viện phải chỉ ra được mình sai chỗ nào thì Bộ trưởng đó mới
đồng ý từ chức. Chính vì vậy, điều đó làm cho các Hạ nghị sỹ càng quyết tâm tìm ra
chứng cứ sai phạm và truy tố thậm chí còn đe dọa phạt tù và tử hình các Bộ trưởng. Điều
này làm cho các Bộ trưởng vô cùng áp lực, chính vì lẽ đó bất cứ khi nào các Bộ trưởng
chỉ cần nhận thấy niềm tin của Hạ viện không còn thì sẽ chủ động nộp đơn từ chức trước
5
khi Hạ viện đặt vấn đề bỏ phiếu bất tín nhiệm để tránh bị truy cứu trách nhiệm chính trị.
Qua đó, ta có thể nhận thấy rằng bỏ phiếu bất tín nhiệm xuất phát từ Nghị viện khi Nghị
viện cảm thấy không hài lòng và mất niềm tin vào những chính sách, đường lối của
Chính phủ. Lúc này, Nghị viện chủ động đặt vấn đề tín nhiệm với Chính phủ, số phận
của Chính phủ sẽ được quyết định thông qua kết quả của mức độ tín nhiệm. Nếu Nghị
viện đồng ý với những chính sách, dự luật, đường lối của Chính phủ thì cũng có nghĩa
là Nghị viện tin tưởng và tín nhiệm Chính phủ, nếu không đồng ý thì xem như Chính
phủ bị mất niềm tin. Lúc này, Chính phủ sẽ tự nguyện từ chức tập thể.
Ở một số quốc gia trên thế giới, Nghị viện được trao quyền để tiến hành việc lấy
phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên, vấn đề tín nhiệm lại được một số quốc
gia trên thế giới thực hiện dưới hai hình thức: bỏ phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu bất tín
nhiệm.
Bỏ phiếu bất tín nhiệm (vote of no-confidence) là thủ tục thể hiện thái độ không
đồng tình của Nghị viện đối với đường lối, chính sách, hoặc những hành động cụ thể nào
đó của Chính phủ. Bỏ phiếu bất tín nhiệm nếu được thông qua, cho ra kết quả Chính phủ
bị bất tín nhiệm thì hậu quả pháp lý cuối cùng đó là hoặc là sự từ chức của Chính phủ
hoặc là sự giải tán của Nghị viện.
Bỏ phiếu tín nhiệm (vote of confidence) là thủ tục được tiến hành khi Chính phủ
tự mình đặt vấn đề tín nhiệm liên quan đến một động thái nào đó mà Chính phủ muốn
đạt được, hoặc muốn Nghị viện thông qua (một đường lối, chính sách, dự luật…). Nếu
không đạt được kết quả như mong muốn thì Chính phủ sẽ từ chức tập thể.
Như đã phân tích, hai khái niệm này được khơi nguồn từ Nghị viện, xuất phát từ
Nghị viện và khi Nghị viện cảm thấy mất niềm tin vào những chính sách đường lối của
Chính phủ thì lúc này Nghị viện sẽ chủ động đặt vấn đề bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với
Chính phủ và kết quả của hoạt động bỏ phiếu bất tín nhiệm sẽ quyết định số phận của
Chính phủ. Ngược lại, Chính phủ cũng có quyền phản kháng bằng cách sử dụng quyền
yêu cầu giải tán Nghị viện trước thời hạn. Mặt khác, bỏ phiếu tín nhiệm là hoạt động
được tiến hành dựa trên cơ sở yêu cầu từ phía Chính phủ để có thể được Nghị viện thông
qua chính sách, đường lối, dự luật… của mình. Nếu Nghị viện đồng ý với những chính
sách của Chính phủ thì cũng chính là Nghị viện tin tưởng và tín nhiệm Chính phủ, nếu
không đồng ý thì xem như là Nghị viện không còn tin tưởng Chính phủ và Chính phủ sẽ
tự nguyện từ chức tập thể. Mặc dù, cả hai khái niệm đều có sự khác nhau về điều kiện
tiến hành cũng như là chủ thể yêu cầu: một bên là sự chủ động của Nghị viện còn một
6
bên là sự chủ động của Chính phủ với vấn đề niềm tin, nhưng cả hai hoạt động này đều
có khả năng dẫn đến sự ra đi của Chính phủ.
Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội có
quyền thay mặt nhân dân giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở
Trung ương. Do vậy, để nâng cao hiệu quả giám sát, Quốc hội sử dụng rất nhiều các hoạt
động giám sát khác nhau, trong đó cơ chế tín nhiệm, được thể hiện qua hai hoạt động
“lấy phiếu tín nhiệm” và “bỏ phiếu tín nhiệm”.
Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học, nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh năm 2002 thì “tín nhiệm” là tin cậy ở một nhiệm vụ cụ thể nào đó. Ví
dụ: được cử tri tín nhiệm bầu vào Quốc hội. Hiện nay chưa có một từ điển pháp lý nào
đưa ra khái niệm cụ thể về thuật ngữ “lấy phiếu tín nhiệm” hoặc “bỏ phiếu tín nhiệm”.
Tuy nhiên, các thuật ngữ này được định nghĩa phổ biến trong các văn bản quy phạm
pháp luật, “lấy phiếu tín nhiệm” được lần đầu tiên ghi nhận bởi Nghị quyết số
35/2012/QH13 ban hành ngày 21 tháng 11 năm 2012 và sau đó tiếp tục được quy định
trong Nghị quyết số 85/2014/QH13 quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Theo quy định nêu trên thì lấy phiếu tín nhiệm “là việc Quốc hội, thực hiện quyền
giám sát, đánh giá mức độ tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, bầu hoặc
phê chuẩn đề làm cơ sở cho việc xem xét đánh giá cán bộ” (Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết
số 85/2014/QH13).
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng quy định khái niệm bỏ phiếu tín nhiệm “là việc
Quốc hội thể hiện sự tín nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn để làm cơ sở cho việc miễn nhiệm hoặc phê chuẩn đề nghị miễn
nhiệm người không được Quốc hội tín nhiệm”. Bỏ phiếu tín nhiệm ở Việt Nam là một
trong những hoạt động giám sát để Quốc hội kiểm tra, đo lường niềm tin đối với những
người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Nhìn chung thì khái niệm bỏ phiếu tín nhiệm của Việt Nam chính là “bỏ phiếu
bất tín nhiệm” vì vấn đề tín nhiệm Chính phủ hay không cũng xuất phát từ Quốc hội và
do Quốc hội quyết định qua hình thức bỏ phiếu. Nhưng dù cho xuất hiện dưới tên gọi
nào đi chăng nữa thì trên thực tế, các công trình nghiên cứu khoa học hiện nay vẫn chưa
đưa ra được một định nghĩa phản ánh đúng bản chất của bỏ phiếu tín nhiệm mà chủ yếu
đề cập đến các hình thức thực hiện, hậu quả pháp lý bởi lẽ quê hương của chế định “bỏ
7
phiếu tín nhiệm” xuất phát từ Anh Quốc – quốc gia thuộc hệ thống luật bất thành văn.
Do đó, mọi vấn đề pháp lý tại đây đều được giải quyết bằng những tập quán chính trị,
thói quen sinh hoạt chính trị từ lâu đời.
Tóm lại, qua nghiên cứu khái niệm của lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm ta
có thể nhận thấy sự khác nhau giữa lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm. Khái niệm
lấy phiếu tín nhiệm là “sản phẩm” đặc trưng gần như riêng có của Quốc hội nước ta.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới chỉ sử dụng khái niệm “bỏ phiếu bất tín nhiệm” hoặc
“bỏ phiếu tín nhiệm”.
Như vậy, tại Quốc hội Việt Nam, lấy phiếu tín nhiệm chỉ làm cơ sở cho việc xem
xét đánh giá cán bộ, còn bỏ phiếu tín nhiệm làm cơ sở cho việc miễn nhiệm hoặc phê
chuẩn đề nghị miễn nhiệm người không được Quốc hội tín nhiệm. Từ sự khác nhau này
có thể thấy, hoạt động lấy phiếu tín nhiệm có nội dung “mềm dẻo”, có giá trị tham khảo
cho công tác cán bộ, còn hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm nhằm xác định trách nhiệm của
người bị bỏ phiếu tín nhiệm.
Nhìn chung, cả hoạt động lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm tại Việt Nam
đều hướng đến mục tiêu chung là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội
Thứ nhất, đối tượng của hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm
thường là Chính phủ hoặc một số chức danh quan trọng trong cơ quan nhà nước ở
Trung ương.
Trong quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động lấy phiếu tín nhiệm và bỏ
phiếu tín nhiệm tại Khoản 2 Điều 1 và Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 85/2014/QH13 thì
đối tượng của những hoạt động này thường là những người trong Chính phủ hoặc một
số chức danh quan trọng trong cơ quan nhà nước ở Trung ương như Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quốc hội… Trong khi đó, ở một số quốc gia trên thế giới quy định về hoạt động bỏ
phiếu bất tín nhiệm, đối tượng của hoạt động này chỉ là tập thể Chính phủ bao gồm Thủ
tướng và Nội các, bởi theo quan điểm của các nhà lập pháp của các nước cho rằng, Chính
phủ được thành lập trên cơ sở, niềm tin của Nghị viện, trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ của mình, Chính phủ làm cho niềm tin của Nghị viện bị giảm sút thì Nghị viện sẽ đề
nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ để chọn ra một Chính phủ mới xứng đáng với
niềm tin của mình. Theo đó, bỏ phiếu bất tín nhiệm theo quan niệm của các nước trên
thế giới là công cụ được trao cho Nghị viện để đo lường niềm tin của mình đối với nhánh
8
hành pháp – Chính phủ. Chính vì lẽ đó, trên thế giới, việc bỏ phiếu bất tín nhiệm chỉ
được đặt ra với Chính phủ, không đặt vấn đề tín nhiệm đối với các chức danh quan trọng
khác trong nhánh lập pháp và tư pháp.
Mặt khác, pháp luật quy định Quốc hội chỉ lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm
đối với các chức danh ở Trung ương và không quy định việc Quốc hội còn có quyền lấy
phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm những người nắm giữ các chức vụ quan trọng ở địa
phương, bởi Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, thực hiện quyền lập
hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
các hoạt động của Nhà nước. Có thể thấy rằng, Quốc hội nắm giữ nhiều nhiệm vụ quan
trọng mang tính vĩ mô. Hiện nay, Việt Nam có 63 tỉnh thành, do đó việc Quốc hội giám
sát đối với từng chức danh ở địa phương là việc bất khả thi, bởi không có điều kiện cũng
như khả năng để đánh giá liệu các chức danh quan trọng ở địa phương đã hoàn thành
được nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả hay chưa. Do đó, việc đánh giá, đo lường
niềm tin đối với những người giữ chức vụ quan trọng ở địa phương sẽ do Hội đồng nhân
dân cùng cấp thực thi. Ngoài ra, các chức danh đó cũng không thành lập dựa trên cơ sở
niềm tin của Quốc hội mà là được thành lập dựa trên sự tín nhiệm của Hội đồng nhân
dân cùng cấp, cho nên xét về mặt lý thuyết, Quốc hội không có quyền đặt vấn đề đo
lường niềm tin đối với các cá nhân này.
Trong khi kết quả của hoạt động lấy phiếu tín nhiệm chỉ mang tính chất tham
khảo, và là bước đệm để Quốc hội tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm, thì kết quả của bỏ phiếu
tín nhiệm có thể dẫn đến việc từ chức, miễn nhiệm, hoặc phê chuẩn bãi nhiệm một chức
danh. Do đó, hệ quả của bỏ phiếu tín nhiệm có tính chất mạnh mẽ, quyết liệt hơn và nó
có thể ảnh hưởng đến “con đường chính trị” của đối tượng được bỏ phiếu tín nhiệm, lấy
phiếu tín nhiệm.
Thứ hai, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm là hoạt động giám sát có tính
chế tài cao và ảnh hưởng trực tiếp đến công tác nhân sự của Quốc hội.
Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tuy là hai chế tài “sinh sau đẻ muộn”
nhưng là hoạt động giám sát có tính nghiêm khắc hơn cả. Theo đó, Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước bao gồm:
Một là, hoạt động giám sát thông qua việc xem xét báo cáo. Quốc hội và các cơ
quan khác của Quốc hội thực hiện chức năng giám sát bằng cách xem xét, thẩm tra báo
cáo công tác hằng năm, nửa năm và báo cáo chuyên đề của Chính phủ, Chánh án
TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Tổng kiểm toán nhà nước. Quốc hội còn có thể yêu
9
cầu các đối tượng nêu trên đến báo cáo trực tiếp hoặc báo cáo bằng văn bản hay cung
cấp các tài liệu mà Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội quan tâm. Cùng với việc tổng
hợp các ý kiến của cử tri và qua hoạt động giám sát của các đại biểu Quốc hội là cơ sở
để đánh giá việc thi hành pháp luật.
Hai là, hoạt động giám sát thông qua kiểm tra việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật. Thông qua việc trả lời của người bị chất vấn, Quốc hội có thể giám sát
được hoạt động của các cơ quan này. Chất vấn là quyền của từng đại biểu Quốc hội,
nhưng khi đại biểu thực hiện quyền này thì có tính chất là một hoạt động giám sát của
Quốc hội, hình thức giám sát này có tính công khai, dân chủ trong hoạt động của Quốc
hội. Hiến pháp năm 2013 cũng tiếp tục khẳng định quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội
như quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng
và các thành viên khác của Chính phủ, VKSNDTC, TANDTC và Tổng kiểm toán nhà
nước.
Ba là, hoạt động giám sát thông qua kiểm tra việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật. Với việc thực hiện chức năng này, Quốc hội và UBTVQH có quyền hủy bỏ
hoặc đình chỉ việc thi hành các văn bản trái với quy định của Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh,
Nghị quyết của Quốc hội, của UBTVQH.
Bốn là, hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua các đoàn đi
giám sát ở các địa phương. Hằng năm Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội thành lập các Đoàn giám sát để đi giám sát hoạt động của các cơ quan thuộc
Chính phủ, hoạt động của cơ quan chính quyền địa phương. Việc thành lập các đoàn dựa
trên cơ sở chương trình giám sát của các chủ thể có quyền giám sát. Tùy theo tính chất
của sự việc và cấp độ mà thành phần mỗi đoàn giám sát có thể bao gồm: Chủ tịch Quốc
hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên UBTVQH, đại diện của HĐDT, các Ủy ban của
Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Ngoài ra, căn cứ tính chất của từng việc giám sát mà có thể
có đại diện của TANDTC, VKSNDTC. Để hoạt động giám sát có chất lượng, các đoàn
giám sát phải chuẩn bị kế hoạch giám sát, chương trình giám sát, nội dung yêu cầu của
việc giám sát… gửi xuống các địa phương để phối hợp hoạt động. Khi tiến hành giám
sát, đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, đơn vị, tổ chức bị giám sát cung cấp các
tài liệu liên quan tới hoạt động giám sát, hoặc yêu cầu các tổ chức đơn vị, cá nhân trả lời
những vấn đề mà đoàn giám sát quan tâm. Như vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội
được pháp luật nước ta quy định rõ ràng, cụ thể trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau.
10
Ngoài những cơ chế giám sát đặc trưng nêu trên, hoạt động giám sát của Quốc
hội còn được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy được cơ
chế giám sát lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm là hai cơ chế có tính chế tài cao,
bởi hệ quả của hoạt động có thể ảnh hưởng rất lớn đến “con đường quan lộ” của các cá
nhân giữ chức vụ quan trọng. Trong khi hệ quả của hoạt động lấy phiếu tín nhiệm là tiền
đề để hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm được thi hành và cũng mang tính “nhắc nhở” người
được lấy phiếu tín nhiệm, thì bỏ phiếu tín nhiệm có thể dẫn đến việc từ chức hoặc miễn
nhiệm, phê chuẩn miễn nhiệm người không được Quốc hội tín nhiệm.
Thứ ba, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm là hình thức nhằm đo lường
trách nhiệm chính trị (niềm tin).
Trong chính thể Cộng hòa đại nghị và Cộng hòa hỗn hợp, hành pháp hoạt động
dựa trên sự tin tưởng của Nghị viện, Trong chính thể Cộng hòa đại nghị và Cộng hòa
hỗn hợp, hành pháp hoạt động dựa trên sự tin tưởng của Nghị viện, sợi dây liên kết giữa
hai nhánh quyền lực này chính là niềm tin. Hành pháp được thành lập và hoạt động hoàn
toàn dựa trên sự tin tưởng của lập pháp. Vì vậy, để cho niềm tin được đảm bảo hành
pháp phải chịu trách nhiệm trước lập pháp. Trách nhiệm ấy chỉ có thể là trách nhiệm
chính trị mà không phải là trách nhiệm pháp lý, giữa hai loại trách nhiệm này hoàn toàn
có sự khác nhau. Vì trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu thể
hiện qua việc họ bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong
phần chế tài của các quy phạm pháp luật, khi họ vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại
xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định. Tức là chỉ cần chủ thể thỏa
mãn những cấu thành của vi phạm pháp luật thì lúc này trách nhiệm sẽ được xác định và
có chế tài phù hợp (ví dụ: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân
sự...). Khác với trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chính trị được xác lập dựa trên sự tín
nhiệm, là trách nhiệm trước nhân dân, trước cử tri. Trách nhiệm trước pháp luật thì công
dân ai cũng phải chịu trách nhiệm, nhưng trách nhiệm trước nhân dân, trước cử tri thì nó
lại thuộc về các quan chức cao cấp nhà nước vì họ hoạt động dựa trên sự tin tưởng của
nhân dân1.
Trong hệ thống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, bởi Quốc hội được thành lập thông qua hoạt động
bầu cử, trên cơ sở niềm tin của nhân dân. Do đó, Quốc hội có quyền thay mặt nhân dân
Trần Thị Thu Hà, Vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm tại Quóc hội – Lý luận, thực tiễn và phương hướng đổi mới, Khóa
luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Tp. HCM, 2010, tr. 6
1
11
thành lập ra các chức danh, các cơ quan nhà nước ở trung ương thông qua việc bầu hoặc
phê chuẩn các chức danh này. Vì vậy, quá trình kiến tạo nên các chức danh này đều xuất
phát từ vấn đề niềm tin và để đảm bảo trách nhiệm chính trị được thực thi một cách có
hiệu quả, vì không cần phải chứng minh đúng hay sai chỉ cần mất niềm tin từ nhân dân
thì xem như trách nhiệm chính trị không hoàn thành. Vì Quốc hội là cơ quan được tạo
ra không phải để áp đặt trách nhiệm pháp lý, mà chính là trách nhiệm chính trị. Một cán
bộ khi không được xử lý về trách nhiệm chính trị thì sẽ rất khó trong việc xử lý trách
nhiệm pháp lý vì khi họ đang gánh trên mình niềm tin của nhân dân, mang trên mình
chức vụ được nhân dân giao phó thì chỉ có nhân dân mới có quyền tước đi quyền hạn
của họ và sau đó mới đề cập đến vấn đề trách nhiệm pháp lý. Quốc hội là cơ quan thay
mặt cho nhân dân thực thi nhiệm vụ này, sau khi được bỏ phiếu mà chức danh đó không
còn được tin tưởng thì họ buộc phải rời khỏi nghị trường và chịu trách nhiệm pháp lý
sau đó.
Thứ tư, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm biểu hiện sự kiểm soát của lập
pháp đối với hành pháp trong quá trình điều hành và quản lý Nhà nước.
Quan điểm phổ biến của đa số các quốc gia trên thế giới đều cho rằng: vì nhánh
quyền lực hành pháp nắm được tiền bạc, nhân sự, biên chế, con người, tài nguyên thiên
nhiên… nên nguy cơ lạm quyền, sai quyền của nhánh quyền lực này là rất lớn. Để kiểm
soát quyền hành pháp sao cho hiệu quả thì các nước trên thế giới quy định:
Trong chính thể Cộng hòa đại nghị, nhân dân bỏ phiếu bầu ra Nghị viện, sau đó
Nghị viện thành lập ra Chính phủ - Chính phủ lúc này là cơ quan phái sinh của Nghị
viện, được thành lập ra để giúp Nghị viện lãnh đạo Nhà nước theo sự phân công ủy quyền
của Nghị Viện. Vì lập pháp lập ra hành pháp nên niềm tin của lập pháp là cơ sở để “dung
túng” cho hành pháp hoạt động, Nghị viện sẽ có quyền xét báo cáo công tác, chất vấn,
điều trần đối với Chính phủ và Chính phủ phải báo cáo công tác, chịu trách nhiệm trước
Nghị viện và một khi niềm tin đã không còn thì Nghị viện có quyền bỏ phiếu, nếu không
được quá nửa số phiếu tín nhiệm Chính phủ thì Thủ tưởng và phải từ chức. Tuy nhiên,
để tránh được sự lạm quyền của Nghị viện thì người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng
cũng có quyền yêu cầu Nguyên thủ quốc gia ký Sắc lệnh giải tán Nghị viện trước thời
hạn với lý do Nghị viện đó quá phức tạp, quá nhiều đảng cần phải giải tán để dân bầu ra
một Nghị viện mới với thành phần chính trị ít phức tạp hơn.
Trong khi đó, lập pháp và hành pháp trong chính thể cộng hòa tổng thống lại rất
độc lập với nhau và không thành lập trên cơ sở của nhau, thể hiện ở chỗ cả hai nhánh
12
quyền lực này đều rất độc lập đúng với tinh thần “ai làm việc nấy”, lập pháp không có
quyền chất vấn, phê bình và không có quyền bất tín nhiệm lật đổ Chính phủ và ngược
lại Tổng thống cũng không có quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn. Chính sự độc lập
giữa hai nhánh quyền lực này đã tạo ra một trạng thái ngang bằng với nhau về quyền lực
từ đó có thể kiểm soát chéo giữa hai nhánh quyền lực, Tổng thống có quyền phủ quyết
các đạo luật do Nghị viện ban hành và Nghị viện có quyền phê chuẩn các quyết định
hành pháp của Tổng thống và có quyền luận tội Tổng thống. Đặc trưng riêng của Cộng
hòa Tổng thống là toàn bộ quyền hành pháp đều nằm trong tay Tổng thống và Tổng
thống là trung tâm của bộ máy nhà nước, hành pháp và lập pháp rất độc lập, tạo ra sự
cân bằng giữa hai nhánh quyền lực này để kiểm soát chéo lẫn nhau.
Riêng đối với Cộng hòa hỗn hợp với cơ cấu tổ chức Chính phủ “lưỡng đầu”: một
nền hành pháp có hai người đứng đầu – Tổng thống và Thủ tướng chia sẻ quyền hành
pháp cho nhau. Theo đó, Tổng thống nắm một nửa hành pháp và Thủ tướng nắm một
nửa còn lại của hành pháp. Mối quan hệ giữa hành pháp và lập pháp trong cộng hòa hỗn
hợp cũng có tính linh hoạt, mềm dẻo. Theo đó, Chính phủ trong Cộng hòa hỗn hợp có
hai phần: Tổng thống – do dân trực tiếp bầu ra và Tổng thống là chức danh rất độc lập
với Nghị viện, bởi Tổng thống không những không có trách nhiệm báo cáo công tác,
không phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện mà còn được “trang bị” những “vũ khí”
rất quan trọng để đối phó với Nghị viện, Tổng thống được quyền phủ quyết các đạo luật
do Nghị viện ban hành và đặc biệt Tổng thống còn được trang bị những quyền năng mà
Tổng thống trong Cộng hòa tổng thống không có như:
Quyền ký Sắc lệnh “giải tán” Nghị viện trước thời hạn
Quyền đề nghị Nghị viện xem xét lại những quyết định của Nghị viện
Ở Nga và Pháp, Tổng thống còn có quyền đem một dự luật ra trưng cầu
dân ý
Thủ tướng và các Bộ trưởng trong Cộng hòa hỗn hợp được thành lập do Nghị
viện bầu hoặc phê chuẩn. Do đó, những chức danh có nhiệm vụ báo cáo công tác và chịu
trách nhiệm trước Nghị viện, có thể bị Nghị viện chất vấn, phê bình, bất tín nhiệm và lật
đổ. Ngược lại, Thủ tướng cũng có quyền yêu cầu Tổng thống ký Sắc lệnh “giải tán”
Nghị viện trước thời hạn. Trong Cộng hòa hỗn hợp không bao giờ có chức danh Phó
Tổng thống, do đó nếu Tổng thống bị khuyết thì Chủ tịch Thượng viện sẽ thay thế vị trí
này.
13
- Xem thêm -