Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát trường nghĩa trong tập thơ góc sân và khoảng trời của trần đăng khoa...

Tài liệu Khảo sát trường nghĩa trong tập thơ góc sân và khoảng trời của trần đăng khoa

.PDF
60
282
135

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC ***** ĐẶNG THỊ HUYỀN TRANG KHẢO SÁT TRƢỜNG NGHĨA TRONG TẬP THƠ GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: ThS. Nguyễn Thị Hiền HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành, sâu sắc của mình tới cô giáo hướng dẫn ThS.Nguyễn Thị Hiền, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập nghiên cứu. Do khả năng còn hạn chế, chắc chắn khóa luận này còn nhiều thiếu xót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Sinh viên Đặng Thị Huyền Trang LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung tôi đã trình bày trong khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn của các thầy cô giáo, đặc biệt là ThS.Nguyễn Thị Hiền. Những nội dung này không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Sinh viên Đặng Thị Huyền Trang MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 3 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 3 6. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................ 4 7. Đóng góp của khóa luận.......................................................................................... 4 8. Cấu trúc của khóa luận........................................................................................... 4 NỘI DUNG ................................................................................................................... 5 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................ 5 1.1. Trƣờng nghĩa ........................................................................................................ 5 1.1.1. Khái niệm trường nghĩa ...................................................................................... 5 1.1.2. Phân loại trường nghĩa ....................................................................................... 6 1.2. Mối quan hệ giữa trƣờng nghĩa với ngôn ngữ văn chƣơng…………………...9 1.2.1. Trường biểu vật và ngôn ngữ văn chương .......................................................... 9 1.2.2. Trường biểu niệm và ngôn ngữ văn chương ..................................................... 11 1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính và ngôn ngữ văn chương ........................................... 11 1.2.4. Trường liên tưởng và ngôn ngữ văn chương .................................................... 12 1.3. Đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Trần Đăng Khoa ............................................. 12 1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Trần Đăng Khoa ............................... 12 1.3.2. Đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Trần Đăng Khoa ............................................... 14 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 15 CHƢƠNG 2: GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC TRƢỜNG NGHĨA TRONG TẬP THƠ GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ............................................................................................................ 16 2.1. Trƣờng nghĩa chỉ thực vật ................................................................................. 16 2.2. Trƣờng nghĩa chỉ động vật ................................................................................ 21 2.3. Trƣờng nghĩa chỉ vật thể nhân tạo ................................................................... 31 2.4. Trƣờng nghĩa chỉ hiện tƣợng tự nhiên……………………………………….35 2.5 Trƣờng nghĩa chỉ con ngƣời ............................................................................... 44 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 52 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 54 DANH MỤC VIẾT TẮT STT: Số thứ tự SL: Số lượng Nxb: Nhà xuất bản MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn học với tư cách là ngữ liệu để dạy học các phân môn của môn Tiếng Việt có tác dụng tích cực trong việc rèn luyện nhân cách cho học sinh Tiểu học. Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể phong phú về ý nghĩa, đa dạng về từ ngữ. Các câu chữ không đơn thuần thực hiện chức năng riêng biệt mà luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau để cùng làm nên giá trị cho tác phẩm đó. Vì thế, các tác phẩm văn học có vị trí quan trọng trong quá trình dạy học ở Tiểu học nói riêng và giáo dục trẻ nói chung. Nếu âm nhạc thu hút người nghe bằng thanh âm, hội họa hấp dẫn người xem qua màu sắc, hình khối thì các tác phẩm văn học để lại ấn tượng cho độc giả qua nghệ thuật ngôn từ. Vì thế, bất kỳ tác giả nào cũng chú trọng đến việc sử dụng ngôn từ sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học thường được sử dụng một cách logic, hệ thống. Tiêu biểu cho việc sử dụng ngôn ngữ có hệ thống là trường nghĩa. Trần Đăng Khoa là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông nổi tiếng là thần đồng thơ từ năm lên 8 tuổi với những bài thơ ngộ nghĩnh viết về mọi vật xung quanh đời sống và tập thơ Góc sân và khoảng trời cũng nằm trong số đó. Tập thơ được xuất bản lần đầu tiên năm 1968 khi tác giả mới 10 tuổi, mới đầu có tên là Từ góc sân nhà em, sau nhiều lần tái bản và chỉnh sửa, nay tập thơ tên là Góc sân và khoảng trời. Đó là những trang ký ức, nhật ký của tác giả thời thơ ấu. Một trong những thành công của Trần Đăng Khoa trong tập thơ Góc sân và khoảng trời là việc sử dụng tinh tế, sáng tạo hệ thống ngôn ngữ về con người, sự vật. Tìm hiểu các trường nghĩa trong tập thơ không chỉ có ý nghĩa tích cực trong việc tiếp nhận văn chương nói chung mà còn cần thiết đối với giáo viên dạy môn Tiếng Việt. 1 Với ý nghĩa đó, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: Khảo sát trường nghĩa trong tập thơ góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa để góp phần khẳng định vai trò của trường nghĩa trong sử dụng ngôn ngữ nói chung và trong tác phẩm văn chương nói riêng. 2. Lịch sử vấn đề Lí thuyết về trường nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ thế giới quan tâm từ rất sớm, có thể kể đến các tên tuổi như: M.Pokrovxkij, J.Trier, L.Weisgerbe,… Ở Việt Nam, tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Bùi Minh Toán… là những người sớm nghiên cứu và có nhiều đóng góp về lí thuyết trường nghĩa. Năm 1973, Đỗ Hữu Châu có công trình Trường từ vựng và hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa. Trong công trình này, Đỗ Hữu Châu nêu các hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa của từ thông qua việc phân tích các trường từ vựng. Trên tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1974, Đỗ Hữu Châu có bài viết Trường từ vựng ngữ nghĩa và việc dùng từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật. Năm 1975, Đỗ Hữu Châu tiếp tục trình bày cụ thể về trường và việc nghiên cứu từ vựng. Các nhà nghiên cứu đã áp dụng lí thuyêt trường nghĩa để nghiên cứu tiếng Việt. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Luận án PTS Trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể người của Nguyễn Đức Tồn năm 1988 đã nêu khái niệm trường tự vựng- ngữ nghĩa khá hoàn thiện. Luận án PTS Đặc điểm trường từ vựng- ngữ nghĩa tên gọi động vật (trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga) của Nguyễn Thúy Khanh năm 1996. Nghiên cứu về trường nghĩa trong các tác phẩm văn học nghệ thuật có một số công trình như: Khóa luận tốt nghiệp Khảo sát trường nghĩa trong tác phẩm viết về người nông dân của Nam Cao – Nguyễn Thị Thoa, năm 2006. 2 Khóa luận tốt nghiệp Khảo sát trường nghĩa trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp – Nguyễn Thị Hồng, năm 2010. Như vậy, nghiên cứu về trường nghĩa nói chung đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Vấn đề trường nghĩa mà cụ thể hơn là các trường nghĩa trong thơ Trần Đăng Khoa vẫn chưa có công trình hay bài viết nào đề cập đến một cách hệ thống. Vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “khảo sát trường nghĩa trong tập thơ góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa” cho khóa luận của mình. 3. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hóa các từ ngữ trong tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa theo các trường nghĩa .Qua đó, khóa luận cũng góp thêm sự lí giải về giá trị nội dung và nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa từ góc nhìn ngôn ngữ học. - Việc nghiên cứu một số trường nghĩa trong tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa còn nhằm phục vụ cho thực tế học tập và giảng dạy tác phẩm văn chương nghệ thuật trong trường Tiểu học. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa lý thuyết về trường nghĩa (khái niệm, phân loại, đặc điểm). - Thống kê, khảo sát các trường nghĩa trong tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa. - Phân tích giá trị biểu đạt của việc sử dụng trường nghĩa trong tập thơ Góc sân và khoảng trời. Từ đó chỉ ra hiệu quả của việc sử dụng trường nghĩa. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các trường nghĩa trong tập thơ Góc sân và khoảng trời (gồm 108 bài thơ) như: “trường nghĩa chỉ thực vật”, trường nghĩa chỉ động vật”, “trường nghĩa chỉ hiện tượng tự nhiên”, “trường nghĩa chỉ vật thể nhân tạo”, “trường nghĩa chỉ con người”. - Phạm vi nghiên cứu: 3 Tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê, phân loại: Thống kê, phân loại những từ ngữ chỉ thực vật, động vật, con người,… - Phương pháp phân tích : Phân tích và miêu tả đặc điểm của các trường nghĩa trong tập thơ. - Thủ pháp so sánh : Xem xét tần số xuất hiện giữa các trường nghĩa cụ thể cũng như những từ ngữ trong các trường nghĩa đó. 7. Đóng góp của khóa luận - Về mặt lí luận: Làm sáng tỏ các trường nghĩa trong tập thơ Góc sân và khoảng trời. - Về mặt thực tiễn: Là nguồn ngữ liệu phong phú trong mở rộng vốn từ theo từng chủ điểm và phân môn tập làm văn. 8. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được cấu trúc thành 2 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận Chương 2: Giá trị biểu đạt của việc sử dụng các trường nghĩa trong tập thơ góc sân và khoảng trời của nhà thơ Trần Đăng Khoa. 4 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Trƣờng nghĩa 1.1.1. Khái niệm trường nghĩa Ngôn ngữ là một hệ thống điển hình bao gồm tổng thể các yếu tố và các yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo nhiều kiểu dạng khác nhau. Nằm trong hệ thống ngôn ngữ ấy, các đơn vị từ vựng cũng không tồn tại biệt lập, tách rời mà luôn có những mối quan hệ nhất định cả về hình thức lẫn ngữ nghĩa. Quan hệ về ý nghĩa giữa các đơn vị từ vựng là một trong những mối quan hệ được các nhà khoa học ngôn ngữ quan tâm làm rõ. Các từ đồng nhất về nghĩa được tập trung thành các nhóm gọi là trường nghĩa (hay trường từ vựng hoặc trường từ vựng ngữ nghĩa). Lí thuyết trường nghĩa được một số nhà ngôn ngữ nhọc người Đức và Thụy Sĩ đưa ra vào những thập kỉ 20 và 30 của thế kỉ XX với cấc tên tuổi như M.M. Pokrovxki, F.de. Sausure, G. Ipsen, W. Porzig, J.Trier.... Ở Việt Nam, lí thuyết về trường nghĩa mới được đề cập đến trong vài chục năm trở lại đây. Ở Việt Nam, trường nghĩa cũng là đối tượng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Trọng Phiến, Đỗ Việt Hùng… trong đó tiêu biểu nhất là nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu. Từ những năm 80 của thế kỉ trước, Đỗ Hữu Châu là người đã giới thiệu trường trong một loạt các công trình trên những phương diện lịch sử vấn đề, hệ thống hóa các quan điểm phương pháp của các nhà ngôn ngữ học thế giới, đồng thời đưa ra các tiêu chí cũng như phương pháp xác lập trường. Qua thực tế nghiên cứu Đỗ Hữu Châu đã khẳng định rằng: Những quan hệ về ngữ nghĩa giữa các từ sẽ hiện ra khi đặt được các từ vào những hệ thống con thích hợp. Nói cách khác, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng. [4, 156] 5 Từ đó, Đỗ Hữu Châu đã đưa ra định nghĩa: Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là những từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa. [4,157]. Quan niệm này lấy tiêu chí ngữ nghĩa làm cơ sở cho việc phân lập trường nghĩa. Đây là quan niệm có tính chất định hướng cho các quan niệm về trường nghĩa của các nhà Việt ngữ khác sau ông. Khóa luận của chúng tôi lấy quan niệm về trường nghĩa của Đỗ Hữu Châu làm cơ sở lí thuyết để nghiên cứu. 1.1.2. Phân loại trường nghĩa F. De Saussure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương đã chỉ ra hai dạng: quan hệ ngang (hay quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến tính, quan hệ ngữ đoạn) và quan hệ dọc (hay quan hệ trực tuyến, quan hệ hệ hình). Dựa vào hai quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ, Đỗ Hữu Châu chia trường nghĩa tiếng Việt thành các loại khác nhau: trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm (hai trường nghĩa dựa vào quan hệ dọc); trường nghĩa tuyến tính (dựa vào quan hệ ngang) và trường nghĩa liên tưởng (dựa vào sự kết hợp giữa quan hệ dọc và quan hệ ngang). 1.1.2.1. Trường nghĩa biểu vật Trường nghĩa biểu vật là “một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu vật” [5, 170]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về tay: cổ tay, bàn tay, ngón tay, bắp tay, cầm, bám, bưng,… Đây là các đơn vị từ cùng phạm vi biểu vật tay. Các trường nghĩa biểu vật lớn có thể chia thành các trường nghĩa biểu vật nhỏ. Các trường nghĩa biểu vật nhỏ này cũng có thể phân chia thành các trường nghĩa biểu vật nhỏ hơn nữa. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về tay: + Trường nghĩa chỉ bộ phận của tay: cánh tay, bàn tay, cổ tay, ngón tay, đốt, móng, hoa tay,… + Trường nghĩa đặc điểm ngoại hình của tay: (ngón tay) búp măng, dùi đục, (bàn tay) mỏng, dày, thô, cứng, mềm mại… 6 + Trường nghĩa chỉ hoạt động của tay (chưa phân hóa): ấn, đẩy, bám, băm, bắt, cào, cấy, chép, chẻ… Số lượng từ ngữ và cách tổ chức của các trường nghĩa biểu vật rất khác nhau. Sự khác nhau này diễn ra giữa các trường lớn với nhau và giữa các trường nhỏ trong một trường lớn. Nếu so sánh các trường cùng một tên gọi trong các ngôn ngữ với nhau thì sự khác nhau trên còn rõ hơn nữa. Nếu tạm gọi một trường nhỏ (hay một nhóm nhỏ trong một trường nhỏ) là một “miền” của trường, thì thấy, các miền thuộc các ngôn ngữ rất khác nhau. Có những miền trống - tức không có từ ngữ - ở ngôn ngữ này nhưng không trống ở ngôn ngữ kia, có miền có mật độ cao trong ngôn ngữ này nhưng lại thấp trong ngôn ngữ kia. Vì từ có nhiều nghĩa biểu vật, cho nên, từ có thể nằm trong nhiều trường biểu vật khác nhau, hệ quả là các trường nghĩa biểu vật có thể “giao thoa”, “thẩm thấu”. Xét trường biểu vật về người và trường biểu vật về động vật, ta sẽ thấy rất rõ điều này. Trường nghĩa người sẽ bao gồm các từ: Đầu, tóc, mắt, cổ, bụng, tay, chân, mũi, miệng, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, thịt, lông, ăn, uống, chạy, nhảy, khóc, cười, hát, ngủ, nằm,… Trường nghĩa động vật sẽ gồm các từ: Đầu, đuôi, sừng, cổ, mắt, chân, mũi, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, da, máu, chạy, nhảy, hót, hí, hú, ngủ, nằm,… Hầu hết các từ nằm trong trường động vật đều nằm trong trường người, ví dụ các từ: Đầu, cổ, mắt, chân, mũi, miệng, lưỡi, dạ dày, ăn, uống, chạy, nhảy, ngủ, nằm,… Ta nói trường người và trường động vật giao thoa, thẩm thấu vào nhau. Mức độ giao thoa của các trường tỉ lệ thuận với số lượng từ chung giữa các trường với nhau. Quan hệ của các từ ngữ đối với một trường nghĩa biểu vật không giống nhau. Có những từ điển hình cho trường được gọi là hướng tâm, có những từ không điển hình cho trường được gọi là từ hướng biên. Từ hướng tâm gắn rất chặt với trường làm 7 thành cái lõi trung tâm quy định những đặc trưng ngữ nghĩa của trường. Từ hướng biên gắn bó lỏng lẻo hơn và mỗi lúc một đi xa khỏi lõi, liên hệ với trường mờ nhạt đi. Ở ví dụ về trường người và trường động vật trên, các từ hướng tâm là các từ chỉ có ở trường này mà không có ở trường kia, các từ hướng tâm của trường người như khóc, buồn, hát,… các từ hướng tâm của động vật là các từ hí, hót, hú, đuôi,… Từ hướng biên của chúng là những từ xuất hiện ở cả hai trường như đầu, chân, mắt, mũi, ruột, dạ dày, chạy, nằm, ăn, uống… 1.1.2.2. Trường nghĩa biểu niệm Trường nghĩa biểu niệm là “một tập hợp các từ có chung một cấu trúc biểu niệm [5,176]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu niệm (vật thể nhân tạo) (thay thế hoặc tăng cường công tác lao động) (bằng tay): dao, cưa, búa, đọc, khoan, lưới, nơm, dao, kiếm…. Cũng như các trường nghĩa biểu vật, các trường biểu niệm có thể phân chia thành các trường nghĩa biểu niệm nhỏ và cũng có những “miền” với những mật độ khác nhau. Từ có nhiều nghĩa biểu niệm, bởi vậy, một từ có thể đi vào nhiều trường nghĩa biểu niệm khác nhau. Vì thế, cũng giống như trường nghĩa biểu vật, các trường nghĩa biểu niệm cũng có thể giao thoa, thẩm thấu vào nhau và cũng có lõi trung tâm với các từ điển hình và những từ ở những lớp kế cận trung tâm, những từ ở lớp ngoại vi. 1.1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính Trường nghĩa tuyến tính là tập hợp từ có thể kết hợp với một từ gốc để tạo ra các chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ. Chẳng hạn, trường nghĩa tuyến tính của từ chân là mềm, ấm, lạnh, đứng, đi, nhảy, đá… Để xác lập được trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc rồi tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ. 8 Cùng với các trường nghĩa dọc (trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm), các trường nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những đặc điểm hoạt động của từ. 1.1.2.4. Trường nghĩa liên tưởng Trường nghĩa liên tưởng là tập hợp từ có chung một nét nghĩa ấn tượng tâm lí được một từ gợi ra [5;186]. Chẳng hạn, trường nghĩa của từ đỏ gồm các đơn vị từ vựng: đỏ tươi, đỏ tía, lửa, máu, sức sống, may mắn,… Các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hóa, cố định bằng từ các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm. Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm trong trường biểu vật, trường biểu niệm và các trường tuyến tính, tức là những từ có quan hệ cấu trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung tâm. Song, trong trường liên tưởng còn có nhiều từ khác được liên tưởng tới do sự xuất hiện đồng thời với từ trung tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề tương đối đồng nhất, lặp đi lặp lại. Điều này khiến cho các trường liên tưởng có tính dân tộc, tính thời đại và tính cá nhân. 1.2. Mối quan hệ giữa trƣờng nghĩa với ngôn ngữ văn chƣơng 1.2.1. Trường biểu vật và ngôn ngữ văn chương Tác giả Đỗ Hữu Châu đã nhận xét : Các từ trong một trường biểu vật thường lôi kéo nhau chuyển nghĩa theo một hướng nhất định. Nếu các từ chuyển theo ẩn dụ thì thường xảy ra sự chuyển trường biểu vật, có nghĩa là các từ thuộc trường biểu vật này kéo theo nhau chuyển sang trường biểu vật khác tạo nên hiện tượng được gọi là cộng hưởng ngữ nghĩa. Ví dụ: Từ “lửa” chuyển sang trường tình cảm, trạng thái tâm lý thì kéo theo các từ hừng hực, rực, bốc, nhen nhóm, đốt, tàn,… cùng chuyển sang trường đó (nhen nhóm một tình yêu). 9 Trong văn chương, các từ ngữ trong một câu văn, một đoạn văn thường kéo theo nhau theo cùng một trường để tạo ra sự phù hợp về trường nghĩa biểu vật. Có thể nói tới hình ảnh chủ đạo (tức ẩn dụ, hoán dụ) của đoạn văn, câu văn (hay của một tác phẩm), hình ảnh chủ đạo thuộc trường biểu vật nào thì kéo theo các từ khác cùng trường với nó: “Không đâu, gió nén từ tám hướng đang bung ra. Một cơn bão đang đến. Lao vào Nam Lào, con thuyền Việt Nam hóa chiến tranh của Nich Xơn đã lao vào trung tâm một cơn bão lớn. Bão nổi ở Cha Kia, La Tương… Bão quật sang đỉnh cao 500 xoáy vụn tiểu đoàn 39… Bão dập xuống đồi 456 xẻ nát tiểu đoàn 3 và cuốn sạch chỉ huy lữ đoàn 4… Bão xoáy lốc trên ngọn 550 vùi luôn tất cả những khẩu pháo hạng nặng cùng với lữ đoàn số 147… Bão dồn gió thép về bản Đông.” (Báo Quân Đội nhân dân, ngày 9-4-1971) Hình ảnh chủ đạo là bão táp kéo theo các từ gió, nén, hướng trung tâm, nổi, quật, dồn, cuốn, lốc… Hình ảnh chủ đạo có khi được nói rõ ra, có khi được hiểu ngầm qua các từ cùng trường trong đoạn văn. Mặt khác, với văn chương, sáng tạo trong hình ảnh ngôn ngữ thường là sáng tạo cục bộ, bắt nguồn từ nguyên mẫu đã có từ trước, nguyên mẫu được chứa trong các ẩn dụ, hoán dụ truyền thống. Điều này giải thích tính truyền thống và tính sáng tạo trong các hình ảnh văn chương. Bên cạnh đó, tác động của trường biểu vật còn thể hiện ở cái gọi là các lực hướng tâm và li tâm của trường. Theo HanSprerber, nguồn gốc chủ yếu của sáng tạo văn học và chuyển nghĩa là các lực cảm xúc. Do đó, ở mỗi cá nhân cũng có những phạm vi tư tưởng riêng, những ám ảnh riêng, gây ra những lực cảm xúc riêng ở từng người. Chúng tác động theo hai hướng: Một mặt chúng “bành trướng” ra lấn vào các phạm vi tư tưởng, từ ngữ khác và hút về mình những từ ngữ thuộc những lĩnh vực khác. 10 Ví dụ: Trước đây 28 năm, phạm vi tư tưởng trung tâm của nước ta là chiến đấu, chúng ta thấy những từ ngữ thuộc trường quân sự, lấn sang các trường khác: Mặt trận văn hóa, kinh tế, chiến dịch trừ sâu; vũ khí tư tưởng… lấn sang cả tình yêu: tấn công, bao vây… 1.2.2. Trường biểu niệm và ngôn ngữ văn chương Khi phản ánh một hiện tượng nào đó vào tác phẩm, người viết “khắc họa” nó bằng ngôn ngữ của mình. Đối với một đoạn thơ thường chứa đựng một cái gì đồng nhất về nghĩa xuất phát từ các phương diện của hiện thực, tạo thành sự vật được nhận thức của tác phẩm. Để làm nổi bật cái đồng nhất đó, từ ngữ diễn đạt cũng phải chứa cái gì đó chung, phù hợp với nhau tạo nên hiện tượng được gọi là sự cộng hưởng ngữ nghĩa giữa các từ. Sự cộng hưởng ngữ nghĩa này dựa trên nét nghĩa đồng nhất vốn có trong các từ, nói khác đi, dựa trên nét nghĩa chung cho một trường (hay một nhóm từ ngữ trong một trường) biểu niệm. Trở lại với đoạn văn viết về chiến thắng Nam Lào 1971 đã dẫn ở trên, ngoài sự thống nhất về trường biểu vật gió bão, các từ còn thống nhất về nét nghĩa “cường độ mạnh”: Bão, nén, nổi, lao, quật,… cả đến đối tượng tức nạn nhân của cơn bão và của các vận động mạnh mẽ, cũng là những sự vật to khỏe: Tiểu đoàn, lữ đoàn, những khẩu pháo hạng nặng,… Việc sử dụng những tập hợp từ ngữ như trên đã tạo ra hình ảnh về quân sự với những “sức mạnh” của một “cơn bão lớn”. Sự cộng hưởng về ngữ nghĩa không chỉ xảy ra đối với các từ ngữ mà nó còn có thể chi phối cấu trúc cú pháp, cả ngữ âm, tiết tấu,…Do đó, người viết thường phối hợp tất cả các yếu tố, các phương tiện ngôn ngữ để tạo ra sự toàn bích về hình thức cho tác phẩm của mình. 1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính và ngôn ngữ văn chương Trong ngôn ngữ văn chương, có những trường nghĩa tuyến tính vượt ngoài chuẩn mực. Đây là những sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ trong cách dùng từ ngữ. Những kết hợp bất thường này có thể được chấp nhận rộng rãi, trở thành những kết hợp bình 11 thường. Suối, bờ,… trong ngôn ngữ thơ có thể kết hợp với tóc thành suối tóc với vai thành bờ vai. Chúng chưa thành thành tố của trường nghĩa tuyến tính của hai từ tóc và vai trong khi mây đã đi vào trường nghĩa tuyến tính bình thường của tóc: tóc mây. 1.2.4. Trường liên tưởng và ngôn ngữ văn chương Trường liên tưởng có hiệu lực lớn, giải thích sự dùng từ, nhất là sự dùng từ trong các tác phẩm văn học, giải thích những hiện tượng sáo ngữ, sự ưa thích lựa chọn những từ nào đấy để nói hay viết, sự né tránh hoặc kiêng kị những từ nhất định. Không nói đến những sự sai biệt về chủ đề, về tư tưởng, về các chi tiết thực tế, về hình tượng,… Chỉ riêng diện mạo ngôn ngữ cũng đủ làm chúng ta không lẫn được một tác phẩm văn học của thời đại này với tác phẩm văn học của thời đại khác. Một tác giả đã từng sáng tác có hiệu quả trong thời kỳ trước thường gặp khó khăn trong các sáng tác thời kỳ sau, đặc biệt là các thời kỳ đã xuất hiện những thay đổi rất căn bản trong xã hội. Đó không chỉ vì người đó đã mang quá nặng những “nghiệp chướng” của thời đại mình mà còn vì ngôn ngữ của mình đã bị ràng buộc quá sâu nặng với các trường liên tưởng cũ. Do đó, mỗi người nghệ sĩ phải gắn bó với cuộc sống, với thời đại để không chỉ thường xuyên đổi mới tư tưởng, vốn sống, tình cảm mà còn để thường xuyên cải tạo, đổi mới ngôn ngữ của mình. 1.3. Đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Trần Đăng Khoa 1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Trần Đăng Khoa Trần Đăng Khoa sinh ngày 24 tháng 4 năm 1958, quê làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện là trưởng ban Văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam. Trần Đăng Khoa nhập ngũ tại trường Lục quân Việt Nam, làm lính hải quân. Sau đó, ông theo học trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học thế giới mang tên M.Goocky thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở 12 về nước, ông làm biên tập viên Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang phụ trách Ban văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam. Nhắc đến Trần Đăng Khoa là ta nhớ đến một thần đồng thơ. Có lẽ, đến cả trăm năm sau, câu chuyện về một cậu bé biết là thơ từ khi bảy, tám tuổi và theo đuổi thơ cả cuộc đời như một sứ mệnh, vẫn sẽ được những bạn đọc yêu thơ kể lại một cách say sưa. Hơn 50 năm làm thơ, đó là một chặng đường dài với một người chưa tròn 60 năm tuổi đời. Lên tám tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968, khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên đó là Từ góc sân nhà em, tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời được nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Tác phẩm nhiều người biết đến nhất của Trần Đăng Khoa là bài thơ Hạt gạo làng ta, sáng tác năm 1968, được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Những tác phẩm của Trần Đăng Khoa Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm, và danh hiệu "thần đồng thơ trẻ" của nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau khi nhà thơ vào lính, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm báo. Thi hứng một thời, hiển nhiên, không là động lực cho xúc cảm khi tác giả đã cao tuổi. Các tác phẩm chính: In ở trong nước: Từ góc sân nhà em (1968). Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1 (tuyển 1966-1969, 1970). Khúc hát người anh hùng ( tường ca, 1975). Kể cho bé nghe (1979). Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2 (tuyển 1969-1975, 1983). In ở nước ngoài: Tiếng hát còn tiếp tục (Pháp 1971). Góc sân và khoảng trời của tôi (Cuba, 1973). 13 Cánh diều no gió (CHDC Đức,1973). Con bướm vàng (Hung-ga-ri, 1973). Các giải thưởng: Giải thưởng thơ Báo thiếu niên Tiền phong (1968, 1969, 1971). Giải thưởng văn học của Bộ lao động – thương binh xã hội (1975) với trường ca Khúc hát người anh hùng. Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ (1981 – 1982) với bài Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn. Giải thưởng Báo Người giáo viên nhân dân (1987). Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật ( đợt I năm 2001) với tập thơ Góc sân và khoảng trời. 1.3.2. Đặc điểm ngôn ngữ trong thơ Trần Đăng Khoa Nhờ việc sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ đã làm nên thành công cho các tác phẩm của Trần Đăng Khoa. Biện pháp tu từ nhân hóa được sử dụng nhiều trong thơ Trần Đăng Khoa nhằm làm cho sự vật thêm sinh động. Mọi cây cỏ, con vật đều có hành động, cử chỉ của con người. Từ đó tăng giá trị biểu cảm, nhân hóa đã góp phần làm cho câu thơ thêm ngộ nghĩnh, đáng yêu trong con mắt trẻ thơ. Trần Đăng Khoa sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa như một phương tiện nghệ thuật bộc lộ tình cảm của thơ mình. Từ khi bắt đầu làm thơ, Trần Đăng Khoa chưa được đi đâu xa, thế giới thơ ca của chú bé chỉ giới hạn từ “góc sân” ra đến “cánh đồng” và một khoảng trời xanh biếc nhưng thật mênh mông, rộng lớn. Đây là một thế giới riêng huyền diệu, đầy bí ẩn. Từ đó, Trần Đăng Khoa đã viết nên những vần thơ ngộ nghĩnh, đáng yêu về cỏ cây, con vật. Cùng với biện pháp tu từ nhân hóa, biện pháp tu từ so sánh cũng được Trần Đăng Khoa sử dụng trong các bài thơ của mình để tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo, làm nên nét riêng cho tác giả. Ở lứa tuổi của Trần Đăng Khoa, làm thơ là chuyện lạ nhưng trong những câu thơ, bài thơ đó được sử dụng những hình ảnh so sánh rất tinh tế về cảm giác, chọn lọc câu chữ rất cô đọng, hàm súc lại càng lạ hơn. Ngoài biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, Trần Đăng Khoa còn sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp ngữ. Nhờ đó mà thơ Trần Đăng Khoa đã làm cho sự vật thêm 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan