LUẬN VĂN:
Kết quả điều tra xã hội học về thực hiện
chính sách đền bù và tái định cư
Lời nói đầu
Vai trò của đất đai đối với nền sản xuất xã hội ngày càng được nhìn nhận đầy đủ,
toàn diện và khoa học, đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước,
các ngành các cấp hết sức quan tâm. Đất đai ngày càng trở nên có giá thông qua sự tích
tụ giá trị thặng dư theo thời gian do có sự đầu tư của Nhà nước, của xã hội và con người.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam xác định mục
tiêu, nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001 – 2010: “... Hình thành
đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ...” (Mục tiêu IV), “...
Hình thành thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật...” để “... Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển hoàn thiện các loại thị
trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế...”, Tổng cục Địa chính đã xây
dựng và từng bước hoàn thiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai 1993
(năm 1998), sửa đổi bổ sung lần thứ hai trình Quốc hội thông qua taịo kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá X (năm 2001), cùng với các Bộ, ngành liên quan thể chế hoá Luật đất đai
vào Luật sửa đổi, bổ sung xây dựng hệ thống các văn bản dưới luật, các chế độ chính
sách, tạo lập hành lang pháp lý cơ bản để thực hiện nhiệm vụ quản lý, sử dụng đất đai
trong cả nước.
Quá trình đổi mới, cùng với nhịp độ hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước, các
dự án đầu tư trong nước và nước ngoài không ngừng gia tăng nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng. Để thực hiện các mục tiêu này, vấn đề thu hồi đất là yếu tố tiên quyết
được Nhà nước ghi nhận tại Điều 27 - Luật Đất đai 1993 và cụ thể hoá chính sách trong
Nghị định 22/1998/NĐ - CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ (gọi tắt là NĐ 22/CP).
Sau ba năm triển khai thực hiện chính sách đến bù giải phóng mặt bằng (GPMB)
và tái định cư theo NĐ 22/CP của Chính phủ, về cơ bản, các điều khoản của Nghị định
đã được áp dụng có hiệu quả, song cũng còn nhiều nội dung cần phải được phân tích,
đánh giá cơ sở khoa học thông qua việc điều tra, khảo sát thực tế để bổ sung, sửa đổi
hoàn thiện chính sách này nhằm đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất và người bị
thu hồi đất; duy trì trật tự, kỷ cương của pháp luật; hạn chế tối đa những tranh chấp,
khiếu kiện về đất đai của nhân dân trong việc đền bù giải phóng mặt bằng khi Nhà nước
thu hồi đất.
Mục tiêu của đề tài:
Tổng hợp, phân tích, đánh giá những mặt tích cực, tiêu cực trong quá trình thực
hiện chính sách đền bù giải phóng mặt bằng về đất đai, tài sản gắn với đất và chính sách
tái định cư (TĐC). Xác định nguyên nhân cơ bản của những mặt tiêu cực làm hạn chế
hiệu quả của việc áp dụng chính sách và ảnh hưởng của nó đối với quá trình và quy luật
phát triển của đời sống xã hội trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Đưa ra những luận cứ khoa học và thực tiễn trong việc xây dựng cs đền bù TĐC
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá hoá,
hiện đại hoá. Đề xuất các giải pháp bảo đảm cho việc thực hiện chính sách đền bù TĐC
đạt hiệu quả cao, tăng cường củng cố công tác quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp
luật.
Nội dung nghiên cứu đề tài:
- Tổng quát về quan điểm, cách nhìn nhận các vấn đề liên quan đến chính sách
đền bù TĐC của một số nước trên thế giới và trong khu vực.
- Nghiên cứu khái quát chính sách đền bù TĐC ở Việt Nam, tính ưu việt và
những hạn chế trong quá trình áp dụng thực hiện chính sách các chế độ xã hội và các
hình thức sở hữu.
- Cơ sở lý luận khoa học chính sách TĐC bắt buộc; điều tra, khảo sát thực tế
phân tích, tổng hợp phiếu điều tra về việc áp dụng chế độ chính sách của Nhà nước của
người sử dụng đất đối với người bị thu hồi đất và trình độ hiểu biết pháp luật của nhân
dân.
- Tác động của pháp luật và khuôn khổ các chính sách hiện hành đối với công tác
thu hồi đất GPMB, kết quả thực hiện NĐ 22/CP ở các địa phương trong khu vực điều
tra.
- Luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách đền bù TĐC - những nội
dung cụ thể và các giải pháp thực hiện, đề xuất, khuyến khích Nhà nước sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện một số điều khoản của NĐ 22/CP.
Chương I
đánh giá chính sách ban hành từ sau 1993 có liên quan đến chính sách đền bù TĐC
I. Cơ sở lý luận chính sách TĐC bắt buộc
Di dân TĐC, đền bù thiệt hại khi thu hồi đất vì mục đích phát triển của xã hội từ
trước đến nay vẫn bị coi là sự "hy sinh" mà một số người phải chấp nhận vì lợi ích của
số đông và lợi ích cộng đồng. Các chương trình đền bù TĐC chỉ giới hạn trong phạm vi
đền bù theo Luật cho đất bị dứan chiếm dụng, hoặc cho một số ít trường hợp đất TĐC.
Tuy nhiên, quan điểm nhìn nhận về công tác đền bù TĐC đang từng bước thay
đổi, nhận thức về hậu quả xấu có thể xảy ra đối với các vấn đề kinh tế, xã hội, môi
trường trong quá trình thu hồi đất và di dân, mặt khác, từ thực tế khách quan và sự
chuyển biến về nhận thức, người bị ảnh hưởng quan tâm ngày càng lớn về quyền lợi và
phúc lợi của họ. Vì vậy, TĐC ngày càng được xem như những chương trình phát triển
của quốc gia. Kinh nghiệm thực tiễn đã giúp cho các nhà hoạch định chính sách, các
chuyên gia lập kế hoạch và các nhà thực thi và đi lên thống nhất rằng chi phí phải trả,
cho những tổn thất do sự thiếu quan tâm và đầu tư trong quá trình thực hiện chính sách
TĐC có thể lớn hơn rất nhiều chi phí TĐC đúng đắn. Hơn nữa, những người bị bần cùng
hoá, đến một thời điểm nhất định sẽ là những nguyên nhân làm kiệt quệ nền kinh tế
quốc dân. Do vậy, những người bị ảnh hưởng, ngoài việc đạt được lợi ích về mặt kinh
tế, còn đảm bảo tính công bằng đối với họ, điều này giúp cho các chủ thể an tâm trong
quá trình triển khai thực hiện dự án.
Ngân hàng và các nước thành viên đang phát triển cần nhìn nhận những thay đổi
về nhận thức này như cơ hội chứ không phải trở ngại, cần xây dựng, chính thức thông
qua và thể chế hoá, thực hiện một chính sách TĐC bắt buộc nó sẽ tạo nên một trường
pháp chế lành mạnh khi Nhà nước cần thu hồi đất phục vụ cho các mục đích công cộng
của quốc gia. Mặt khác, cần cải tiến cách hiểu và lập kế hoạch thực hiện, sao cho các dự
án luôn hướng tới sự phát triển. Sự phát triển đó không chỉ mang lợi ích về kinh tế mà
còn môi trường - xã hội. Phương thức này phù hợp với 2 mục tiêu tương đồng là giảm
nghèo đói và phát triển bền vững.
TĐC bắt buộc có ba yếu tố quan trọng
- Đền bù tài sản bị thiệt hại, nghề nghiệp và thu nhập bị mất;
- Hỗ trợ di chuyển trong đó có cấp và bố trí nơi ở mới với cách dịch vụ và
phương tiện phù hợp.
- Trợ cấp khôi phục để ít nhất người bị ảnh hưởng có được mức sống đạt hoặc
gần đạt so với mức sống trước khi có dự án.
Đối với các dự án có di dân TĐC, việc lập kế hoạch, thiết kế nội dung di dân là
yếu tố không thể thiếu được ngay từ chu kỳ đầu tiên của việc lập dự án đầu tư và những
nguyên tắc chính phải được đề cập đến, bao gồm:
- Nghiên cứu kỹ phương án khả thi của các dự án để giảm thiểu việc di dân bắt
buộc, nếu không thể tránh được khi triển khai dự án.
- Người bị ảnh hưởng phải được đền bù và hỗ trợ để triển vọng kinh tế, xã hội
của người bị ảnh hưởng nói chung ít cũng thuận lợi như trong trường hợp không có dự
án - đất đai, nhà cửa, cơ sở hạ tầng thích hợp và các loại đền bù khác tương xứng như
trước khi có dự án phải được cấp cho người bị ảnh hưởng, chú trọng đến người dân bản
địa (các dự án nước ngoài) dân tộc thiểu số, nông sân vì họ là những người có quyền lợi
hoặc quyền hoa lợi theo phong tục đối với đất và các tài sản khác bị dự án chiếm dụng.
- Bất kỳ dự án nào về TĐC cần có nhận thức và ý thức, thực hiện đạt hiệu quả ở
mức càng cao càng tốt, các kế hoạch TĐC phải được soạn thảo và xác lập tương ứng với
thời gian và ngân sách phù hợp, người di chuyển được hưởng các cơ hội về nơi ở, nguồn
sống, nguồn lực ổn định cuộc sống càng nhanh càng tốt.
- Người bị ảnh hưởng phải được thông báo đầy đủ, được tham khảo ý kiến chi tiết
về các phương án đền bù TĐC - người bị ảnh hưởng phải được hỗ trợ ở mức cao nhất về
hoà nhập cộng đồng dân cư địa phương bằng cách mở rộng lợi ích của dự án đến cả các
cộng đồng dân địa phương.
- Chú ý tới người nghèo nhất, trong đó có những người không hoặc chưa có
quyền hợp pháp về đất đai, tài sản, những hộ gia đình do phụ nữ làm chủ. Đồng thời,
sớm có kế hoạch xác định quyền hợp pháp của họ, cố gắng hạn chế những trường hợp
coi lý do ngăn trở đền bù TĐC là việc thiếu quyền sở hữu, quyền sử dụng đất hợp pháp.
Để không ngừng cải tiến sự hỗ trợ của ngân hàng với các dự án trong lĩnh vực
nhạy cảm này, cần chính thức thông qua và thực hiện một số chính sách đền bù TĐC bắt
buộc. Chính sách này không thể thiếu trong việc nêu rõ các mục tiêu và phương pháp,
định ra các tiêu chuẩn trong hoạt động của các tổ chức ngân hàng, mở ra một cách nhìn
bao quát rõ ràng về tất cả các vấn đề đó và vận dụng thủ tục chính thức để giải quyết có
hệ thống những khía cạnh này trong các hoạt động của ngân hàng.
II. Khuôn khổ pháp luật đất đai hiện hành về đền bù TĐC
Chính sách đền bù TĐC ở Việt Nam ngày càng được quan tâm và hoàn thiện để
đáp ứng các mục tiêu đặt ra trong công tác giải toả mặt bằng cho việc thực hiện các dự
án trong từng giai đoạn phát triển.
Đối tượng đền bù thiệt hại về đất được xác định đầy đủ, chính xác, phù hợp hơn
với tình hình thực hiện về quỹ đất đai trong cả nước. Mức đền bù thiệt hại được nâng
cao hơn, cùng với một số biện pháp hỗ trợ bổ sung giúp cho người bị ảnh hưởng mau
chóng tạo lập ổn định cuộc sống.
Đất nước ta hiện đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế cũng như
hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật. Vì vậy, chính sách đền bù TĐC còn có những
hạn chế và khó khăn nhất định, thể hiện ở các điểm sau:
1. Về đối tượng được đền bù
Do trình độ quản lý còn có những hạn chế nhất định, việc áp dụng thực hiện
chính sách, pháp luật trong toàn xã hội nói chung, trong từng địa phương và dự án nói
riêng chưa nghiêm minh, dẫn đến việc xác định đối tượng được đền bù thiệt hại và đối
tượng không được đền bù thiệt hại gặp nhiều khó khăn, cơ sở trong thực tế, việc cấp
chứng thư pháp lý này mới đạt tỷ lệ rất thấp ở các địa phương, đặc biệt là đối với đất ở
cũng như việc giải quyết quyền sử dụng đất trong hành lang bảo vệ công trình dọc theo
hệ thống giao thông, đê điều thuỷ lợi.
Đối với đất ở, do phải trả tiền sử dụng đất, chủ thể sử dụng đất mới được cấp
GCN - QSDĐ (điều 22 - Luật đất đai năm 1993. Nghị định 89/CP ngày 17/8/1994 về
việc thu tiền sử dụng đất và lệ phí địa chính), một mặt là số tiền phải nộp tương đối lớn
so với thu nhập của người dân hiện nay, mặt khác ở nhiều nơi nhất là vùng nông thôn,
người dân chưa nhận thức được tầm quan trọng của GCN - QSDĐ với quan niệm "đối
với gia đình tôi, có hay không có ai có thể tịch thu đất chỉ vì không có GCN - QSDĐ".
Từ nhận thức đơn giản đó, các chủ thể sử dụng đất không muốn trả một khoản tiền lớn
(so với mức thu nhập của họ) để đổi lấy một tờ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tương tự, đối với các trường hợp chuyển nhượng đất đai, nhà ở, người dân không
chuyển quyền sử dụng đất vì không muốn nộp thuế theo Luật thuế chuyển quyền sử
dụng đất được ban hành ngày 22/6/1994. Điều này gây khó khăn cho việc thống kê, xác
định diện tích, lập hồ sơ địa chính... trong lĩnh vực quản lý đất đai cũng như việc giải
quyết đền bù giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất. Vì vậy, công tác cấp GCN QSDĐ cần phải tiến hành đồng bộ cho các loại đất và tất cả các địa phương trong cả
nước. Để thực hiện được mục tiêu này, đòi hỏi việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của các tỉnh, quản lý Nhà nước về đất đai trong đó có định giá đất nói chung, định
giá đất cho đền bù thiệt hại nói riêng (trong trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng
đất không theo ý muốn) và lập khu TĐC.
Đối với đất thuộc phạm vi hành lang an toàn giao thông, tình trạng xây dựng nhà
cửa, lều quán trong hành lang bảo vệ đường bộ vẫn tiếp tục xảy ra. Mặc dù vậy rất nhiều
địa phương không triển khai thực hiện quy định bảo vệ hành lang an toàn giao thông
đường bộ như: không cắm mốc và thông báo tới dân lộ giới trên đoạn đường đi qua, địa
phương vẫn cho phép xây dựng trong phạm vi bảo vệ đường bộ hoặc thậm chí còn bán
phần đất trong hành lang này cho dân xây dựng nhà cửa, làm ki-ốt bán hàng... Trong
những trường hợp đó, chúng ta không thể kết luận họ là những hộ, cá nhân vi phạm
hành lang bảo vệ công trình hoặc coi các công trình hoặc coi các công trình xây dựng
của họ trên phần đất này là bất hợp pháp và không được đền bù. Vì vậy, việc xác định
đất sử dụng hợp pháp hay bất hợp pháp trong phạm vi lưu không đường bộ để thực hiện
chính sách đền bù giải toả mặt bằng trong các dự án là rất khó khăn và thường không
thống nhất giữa các địa phương. Trong dự án khôi phục quốc lộ 1 đoạn Vinh - Đông Hà
thực hiện bằng nguồn vốn WB, tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Trị quy định một số nhà cửa,
công trình nằm trong phạm vi hành lang bảo vệ đường xây dựng sau năm 1982 (năm
ban hành Nghị định 203/HĐBT) là bất hợp pháp, hưởng chế độ đền bù 60% giá trị công
trình thì tỉnh Quảng Bình lại coi các công trình này là hợp pháp và được đền bù 100%
giá trị công trình. Bên cạnh đó phải kể đến sự khác biệt trong chính sách đền bù, kinh
phí đầu tư cho đền bù thu hồi đất giữa các dự án với nhau, trong nhiều dự án thực hiện
bằng nguồn vốn đầu tư trong nước thực hiện theo Nghị định của Chính phủ, các công
trình này có thể hoàn toàn không được đền bù.
Đối với đất nông nghiệp, tuy được giao không phải trả tiền sử dụng đất song tiến
độ cấp GCN - QSDĐ còn chậm do đó nhiều địa phương chưa có bản đồ về địa chính...
Ngoài những tồn tại nêu trên, việc chưa hoàn thành giao đất theo quản lý, sử dụng đất
đai yếu kém đã làm phức tạp hoá việc đền bù TĐC trong các dự án.
2. Chính sách về giá đền bù
Một trong các tông tại lớn nhất của các dự án là vấn đề chính sách đền bù đất thổ
cư. Chính sách đền bù đất thổ cư theo văn bản hiện hành (Nghị định 22/CP) là chính
sách đền bù trên cơ sở pháp lý về quyền sử dụng đất, các điều khoản quy định về hạn
mức đất ở tối đa của mỗi địa phương, về tính hợp pháp công trình trên đất. Tính pháp lý
này căn cứ vào các văn bản, pháp lệnh liên quan tới phạm vi hành lang an toàn giao
thông đường bộ, bảo vệ các công trình công cộng.
Quá trình triển khai thực hiện áp dụng các chính sách về đền bù đất đai gặp rất
nhiều khó khăn do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đất thổ cư bao gồm đất ở và đất vườn. Giá đền bù đất ở cao hơn đất
vườn, sự chênh lệch về giá đó thể hiện rõ rệt, đặc biệt ở các khu đô thị khi mà GCN QSDĐ thổ cư của người dân không ghi rõ ranh giới diện tích đất ở và đất vườn. Do lịch
sử để lại, hiện trạng quy mô diện tích đất thổ cư của người dân đang sử dụng thực tế
không giống nhau giữa các vị trí địa lý, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các
xã, thôn xóm. Như vậy, hạn mức đất quy định tại Điều 54 - Luật đất đai có sự khác biệt
với hiện trạng quy mô sử dụng đất thổ cư cả ở đô thị và nông thôn, sự chênh lệch này
thể hiện rõ rệt nhất là ở vùng nông thôn.
ở các khu đô thị hay những nơi đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ giá trị đất đai ngày
càng tăng, giá trị này phụ thuộc vào khả năng sinh lợi của đất mà không phụ thuộc vào
hiện trạng, mục đích sử dụng của nó.
ở nông thôn không có quy định về diện tích mà người dân được xây dựng cũng
như quy hoạch xây dựng trong phạm vi khuôn viên đất thổ cư của mình. Ngoài ra việc
cấp đất dọc các trục đường chỉ tính theo chiều rộng mặt đường mà không chỉ có giới hạn
chiều sâu.
Thứ hai, đối với đất nông nghiệp. ở những nơi việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đã diễn ra phổ biến giá chuyển nhượng lại cao hơn khả năng sinh lợi của đất,
trong trường hợp người bị ảnh hưởng muốn tái tạo lại tư lượng với điều kiện canh tác
như thửa đất ban đầu (huyện Thanh Trì). Ngoài ra, luật chưa có quy định rõ ràng về
miễn lệ phí trước bạ trong trường hợp người bị ảnh hưởng tự mua đất mới và tự lo làm
nhà, dẫn đến chính sách đền bù đất thổ cư có thể khác nhau giữa các dự án trong cùng
một địa phương. Cụ thể một phương án đền bù trong dự án giao thông địa bàn tỉnh Hoà
Bình.
- Hộ A, có diện tích đất thổ cư đang sử dụng nhỏ hơn diện tích theo hạn mức quy
định, dù đã xây dựng hay chưa xây dựng, đều được đền bù theo giá đất ở nhưng lại theo
đơn giá đền bù ứng với cả hai vị trí (vị trí 1, vị trí 2), phần diện tích còn lại không đủ để
ở lại không được đền bù.
- Hộ B: có diện tích đất thổ cư vượt hạn mức quy định, đất đã được xây dựng một
phần khi Nhà nước thu hồi đất, hộ B được đền bù theo giá đất ở vị trí ứng với diện tích
hạn mức đất ở theo quy định, phần còn lạidc đền bù theo đất vườn.
Mặc dù, ba mảnh đất này ở vị trí như nhau, khả năng sinh lợi gần như nhau,
nhưng do hiện trạng sử dụng khác nhau nên quyền lợi đền bù cũng khác nhau. Đơn giá
của đất ở thì phụ thuộc vào vị trí, còn đất vườn thì lại được đền bù theo đơn giá đất
vườn, đây là điểm khúc mắc lớn nhất và phổ biến ở các địa phương khu vực điều tra.
Trường hợp nêu trên, nên chăng Nhà nước cần thừa nhận, tôn trọng lịch sử sử dụng đất
của người bị ảnh hưởng, có thể đền bù toàn bộ là đất ở hoặc có thể theo tỷ lệ hạn mức
đất giao theo quy định của tỉnh và tổng diện tích đang sử dụng nhân với diện tích bị thu
hồi, phần còn lại (diện tích bị thu hồi trừ đi diện tích tính theo tỷ lệ) theo một đơn giá
khác. phương pháp này đã được áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội, Đà Nẵng.
Tỉnh Hải Dương lại căn cứ vào chiều sâu công trình để phân bổ giá trị đền bù.
- Hộ A được quyền sử dụng diện tích 140m2 ở vị trí tiếp giáp với mặt đường M >
6m, khi Nhà nước thu hồi đất thì tại vị trí có diện tích 60m2 tính theo đơn giá
400.000đ/m2, vị trí 2 có diện tích 80m2 còn lại tính theo đơn giá 170.000đ/m2.
- Bộ B được quyền sử dụng diện tích 100m2 ở vị trí tiếp giáp với mặt đường N <
6m, khi Nhà nước thu hồi đất, hộ B được đền bù toàn bộ diện tích theo đơn giá
220.00đ/m2.
Cách xác định đơn giá đền bù có căn cứ vào chiều sâu của thửa đất là phù hợp
với nguyên tắc định giá nhưng cần tiến hành đồng loạt trên tất cả các thửa đất bị thu hồi.
Như trong trường hợp này để đảm bảo tính công bằng khi thực hiện chính sách đền bù
thì thửa đất của hộ B cũng phải tính phân bổ theo chiều sâu như thửa đất tính cho hộ A.
Ngoài các nguyên nhân trên, thông tin về chính sách - pháp luật đất đai chưa
được quyền sâu rộng nên người dân vô tình vi phạm hành lang bảo vệ công trình công
cộng, những trường hợp như vậy, dự án không nên phân loại vào dạng đất hợp pháp mà
nên coi đó là các trường hợp được coi là hợp pháp.
Theo chính sách dự án không đền bù đối với diện tích đất thổ cư nằm trong hành
lang giải toả vì phần đất này vẫn nằm trong quyền hạn sử dụng của người dân nhưng
mục đích sử dụng bị hạn chế. Thực tế, diện tích đất nằm trong hành lang này đã bị giảm
giá trị, song giá trị của nó vẫn cao hơn giá trị đất nông nghiệp. Điều chưa hợp lý ở đây là
người dân vẫn phải đóng thuế sử dụng đồng bộ với việc phân hạng đất, khi tính thuế có
áp dụng hệ số K (do chỉ có một mức thuế duy nhất 0,05 kg thóc/m2) nhưng khi tính đền
bù thì không có đường trên cùng một đường phố hay tuyến đường tồn tại sự đột biến
giá, đây là điều mà các dự án chưa thể giải quyết, vì mỗi tỉnh đều xây dựng một khung
giá độc lập cho phù hợp với địa phương mình. Trong trường hợp như này đòi hỏi có sự
can thiệp của Nhà nước nhằm giảm bớt những bất hợp lý này.
Sử dụng hạng đất để tính thuế làm cơ sở pháp lý áp giá đền bù của các dự án là
có cơ sở, nhưng trong quá trình sử dụng do có sự đầu tư cải tạo, bồi bổ đất đai nên độ
phì, khả năng sinh lợi của đất có sự thay đổi nên tại thời điểm đền bù cần chú ý đến
điểm này, nhất là đối với đất nông - lâm nghiệp.
3. Đề bù về tài sản
Đơn giá đền bù cho tài sản trên đất hầu hết được người dân chấp nhận, một số dự
án đền bù cho các công trình, cây cối hoa màu với mức giá cao hơn giá thị trường địa
phương. Tuy nhiên, một số người bị ảnh hưởng có nhà từ cấp III trở lên cho rằng đơn
giá đền bù thấp hơn giá thay thế (do bị tính khấu hao).
Vì thế, cần quy định rõ ràng cách tính giá trị thiệt hại thực tế của nhà, công trình
kiến trúc, cụ thể là cách tính tỷ lệ % trên giá trị hiện có của nhà, công trình (Điều 17
Nghị định 22/CP) cũng như cách tính chi phí đã đầu tư vào đất trong trường hợp đền bù
cho đất giao để sử dụng tạm thời, đất cho thuê, đất đấu thầu (một số dự án hỗ trợ
25.000đ/m2 cho các chi phí đã đầu tư vào đất là chưa phù hợp giữa những thửa đất có vị
trí canh tranh tác thuận lợi, đất đai màu mỡ với những thửa đất xấu, xa kênh mương
canh tác khó khăn).
4. Chính sách hỗ trợ và lập khu TĐC
Tuỳ thuộc vào số lượng hộ bị ảnh hưởng bởi dự án và khả năng đất sẵn có.
UBND cấp tỉnh chỉ đạo thiết lập các khu TĐC. Những người bị ảnh hưởng có đủ điều
kiện được cấp đất sẽ được giao đất tại một khu TĐC phân tán hoặc có đủ điều kiện được
cấp đất sẽ được giao đất tại một khu TĐC phân tán hoặc tập trũng. Khi tái bố trí đến các
địa điểm chưa được chuẩn bị sẽ được hưởng đền bù để có thể xây dựng địa điểm mới
bao gồm việc chuẩn bị đất đai và các dịch vụ thiết yếu như đường xá, điện, nước, điện
thoại...
Các khu TĐC cộng đồng sẽ được xây dựng với cơ sở hạ tầng và tiếp cận đầy đủ
các dịch vụ. Khu TĐC gồm hai loại: chỉ dùng cho nhà ở hoặc dùng cho nhà ở và sản
xuất nông nghiệp. Trong đó cần xác định theo các tiêu chuẩn:
- Tiềm năng đáp ứng các yêu cầu của người TĐC - Dễ dàng liên hệ với các địa
điểm cũ - nhất thiết phải có sẵn nguồn nước - gần các dịch vụ công cộng - điều kiện đất
đai thích hợp.
Trong trường hợp không có đất tập trung làm khu TĐC ở khu vực xung quanh,
để giải quyết cho người bị ảnh hưởng hợp pháp hoặc bất hợp pháp về đất đai chính
quyền xã sẽ phân lô phân tán theo các tiêu chuẩn.
- Các lô đất nên chọn ở vị trí cách nơi ở trước đây khoảng 3km - vị trí của đất
phải gần quốc lộ hoặc đường tỉnh huyện - gần nguồn nước, điện, các dịch vụ công cộng.
Nguồn đất sử dụng cho đền bù thiệt hại bao gồm:
- Quỹ đất cộng đồng: đất do Nhà nước thu hồi: đất Nhà nước chưa sử dụng, đất
khai hoang; đất dư thừa đối với các yêu cầu của dự án hạ tầng; đất 5% của xã; đất do
ban đền bù TĐC thu hồi và các nguồn khác.
Khi áp dụng vào điều kiện cụ thể cho thấy việc xây dựng các khu TĐC hầu như
bị động, thiếu đồng bộ nhất là các dự án thuộc nguồn vốn TW. Trong đó vấn đề còn tồn
tại lớn nhất là cơ sở hạ tâng khu TĐC, các biện pháp nhằm khôi phục nguồn thu nhập tại
nơi ở mới. Nguồn đất xây dựng khu TĐC ở các đô thị loại I và loại II rất khan hiếm,
mặc dù đã có chính sách xây dựng nhà ở ra vùng ven đô thị nhưng chưa được người dân
chấp thuận, do có sự chênh lệch qúa lớn về các dịch vụ xã hội, những hộ với nghề
nghiệp buôn bán thì hầu hết không lựa chọn phương án đổi đất lấy đất, còn ở khu dân cư
nông thôn việc thu hồi đất làm ảnh hưởng lớn đến tập quán sinh sống, đất giao mới với
quy mô diện tích như hiện nay không đáp ứng được yêu cầu nhà phải có sân phơi, vườn
cây, gang gũi họ hàng làng xóm, đi lại canh tác thuận tiện...Bởi vậy cần quy định rõ
thêm dự án nào có tái định cư, dự án nào không có TĐC và quy trình lập thẩm định kế
hoạch TĐC cụ thể giúp cho người bị thu hồi đất không bị thiệt thòi và ổn định cuộc sống
sau giải toả.
Một trong những hạn chế của chính sách TĐC ở Việt Nam là chủ yếu tập trung
vào đền bù thiệt hại về đất và các tài sản gắn liền với đất. Tên gọi của các Nghị định, chỉ
thị, thông tư có liên quan đã cho thấy rõ mục tiêu của các chính sách này (QĐ
186/QĐBT, NĐ 90/CP và NĐ 22/CP đều có cùng tên gọi là Nghị định về đền bù thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất). Trên thực tế, chính sách này đã được cụ thể hoá vào điều
kiện của từng địa phương, ví dụ Thành phố Hà Nội đã áp dụng một số biện pháp mà Hà
Tây không có như:
- Hỗ trợ đời sống (trợ cấp di chuyển và trợ cấp đời sống) hỗ trợ chuyển nghề đối
với các hộ bị mất đất nông nghiệp vĩnh viễn - Thưởng tiến độ.
Các khoản hỗ trợ của dự án tính theo m2, một mặt đảm bảo tính công bằng là mất
bao nhiêu đất hợp pháp thì sẽ được đền bù bấy nhiêu, mặt khác sẽ là không công bằng
trong các trường hợp.
- Mất hết đất nông nghiệp nhưng không có ngành nghề phụ. Mất hết đất Nhà
nước nhưng có ngành nghề phụ - Mất một phần đất nông nghiệp.
Có thể minh hoạ bằng việc đền bù dcủa dự án đường 1 ở xã Ninh Hiệp (Gia Lâm)
là một xã có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi nhiều nhất, nhưng do xã không có
nghề phụ là buôn bán vải, chế biến dược liệu, việc đồng áng hầu hết là đi thuê, nên với
số tiền trên đền bù cộng với các khoản hỗ trợ đã đem lại một số tiền để người dân
chuyển đổi nghề nghiệp.
Bên cạnh đó Dương Hà - một xã có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi khá lớn
song người dân ở đây không có ngành nghề phụ. Về trước mắt, với số tiền đền bù xem
như là có lợi nhưng nếu như chia đều cho 20 năm thì người dân không được là bao, việc
tự xoay xở trong cơ chế thị trường để tìm một công việc phù hợp là hết sức khó khăn.
Đó là chưa kể đến những trường hợp khi nhận tiền đền bù, người bị ảnh hưởng chỉ lo
mua sắm, sửa sang nhà cửa chứ không chú trọng đến vấn đề tìm việc làm (xã hội xá Gia Lâm - Hà Nội).
Giữa các dự án khác nhau mà chính sách hỗ trợ như nhau là không hợp lý, vì đối
với các dự án kinh tế thì căn cứ vào diện tích đất Nhà nước thì bị thu hồi sẽ được cử một
người đi đào tạo nghề nghiệp, phương án này một mặt giảm bớt khoản tiền đền bù cho
chủ đầu tư, mặt khác đem lại công ăn việc làm cho người dân. Còn đối với các dự án
phát triển cơ sở hạ tầng thì không thể thực hiện theo phương án này, vì không thể giải
quyết được đầu ra.
Nên đối với các dự án phát triển cơ sở hạ tầng cần xem xét lại khoản hỗ trợ 20
năm chuyển nghề, tạo ngành nghề ngay tại địa phương, tránh việc di chuyển lđ ồ ạt vào
các thành phố lớn. Phần diện tích đất nông nghiệp còn lại cần có biện pháp chuyển đổi
cơ cấu cây trồng giúp người dân nhanh chóng khôi phục nguồn thu nhập. Đối với đất
thổ cư, cần có biện pháp hỗ trợ khôi phục cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần.
5. Công tác tổ chức thực hiện đền bù GPMB và TĐC
Nghị định 22/CP quy định: huyện chịu trách nhiệm chính trong công tác đền bù
TĐC, chủ đầu tư là một trong các thành viên của Ban đền bù TĐC. Điều này chưa phù
hợp với các dự án có nguồn vốn do các Bộ, ban ngành ở Trung ương quản lý.
Thứ nhất, có thể có sự khác biệt đáng kể trong chính sách đền bù và TĐC ở mỗi
địa phương do có sự chỉ đạo hoàn toàn khác nhau.
Thứ hai, các Ban quản lý Trung ương không thể tác động trực tiếp tới Ban đền bù
và TĐC của huyện để thúc đẩy công tác này trong trường hợp cần thiết, mà phải thông
qua Bộ chủ quản, tác động tới UBND cấp tỉnh rồi UBND cấp tỉnh chỉ đạo xuống cấp
huyện.
Ngoài ra, do có một số kinh nghiệm nhất định qua các dự án đã và đang triển
khai trong thời gian gần đây, cán bộ của Ban quản lý dự án TW và địa phương của một
só ban ngành đã có những hiểu biết tốt hơn về chính sách cũng như thực hiện đền bù và
TĐC đối với người bị ảnh hưởng. Vì vậy, nên để chủ đầu tư vào vị trí phó Ban GPMB
như khi thực hiện NĐ 90/CP là phù hợp và đem lại hiệu quả hơn nhất là đối với các dự
án lớn.
Trong khi thông tư 145/TT - BTC của Bộ Tài chính ra ngày 4/11/1998 hướng dẫn
thi hành Nghị định 22/CP lại giao trách nhiệm trực tiếp cho chủ đầu tư là thành viên của
Hội đồng đền bù GPMB phải lập phương án đề bù và cung cấp các tài liệu cần thiết để
Hội đồng đền bù GPMB xem xét, thẩm định. Trên cơ sở đó trình UBND cấp tỉnh phê
duyệt hoặc Hội đồng thẩm định thoả thuận để UBND cấp Huyện phê duyệt. Điều này
mâu thuẫn với quy định của Nghị định 22/CP giao trách nhiệm này cho Hội đồng đền bù
GPMB cấp Huyện hoặc cấp Tỉnh mà chủ dự án chỉ là thành viên trong Hội đồng này.
Khó khăn hiện nay trong nhiều dự án là chưa có quy định rõ ràng về thời gian trả
tiền đền bù TĐC. Để kiểm kê chính xác các tài sản bị thiệt hại và lập phương án đền bù
cần có các thiết kế kỹ thuật trên cơ sở đó cắm mốc dự án. Rất nhiều dự án thi công và
thiết kế kỹ thuật gần như song song, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp và chủ đầu tư
chưa chặt chẽ, việc tổ chức thực hiện công tác GPMB nhiều nơi thiếu sự quan tâm, chỉ
đạo của cấp uỷ đảng và chính quyền cơ sở, thiếu sự kiểm tra sâu sát của các phòng ban
chuyên môn, bộ máy tổ chức thực hiện công tác GPMB, có nơi sử dụng cán bộ kiểm
nghiệm chưa thành thạo, chưa am hiểu chế độ chính sách... những lý do trên dẫn đến sai
sót trong công tác khảo sát, điều tra lập phương án gây nên khiếu kiện thắc mắc trong
dân. Một số dự án có chính sáh TĐC, cuộc sống của người dân sau đền bù hầu như
không được quan tâm, trách nhiệm của Hội đồng đền bù GPMB chỉ dừng lại sau khi đền
bù về đất đai, tài sản hoàn tất.
Về phía người sử dụng đất, NĐ 22/CP chưa có quy định về trách nhiệm sử dụng
triệt để quỹ đất được giao, được cho thuê. Hiệu quả sử dụng đất thu hồi cho các mục
đích xây dựng khu công nghiệp, khu chế suất không cao. Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng là do: khung giá xây dựng còn thấp xa so với khả năng sinh lợi của đất (mới chỉ
đạt đến 30 - 40%). Khi Việt Nam tham gia góp vốn liên doanh đều góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất, để đảm bảo vốn pháp định chỉ có cách duy nhất là tăng diện tích góp
vốn làm cho các liên doanh sử dụng vượt quá nhu cầu sử dụng gây lãng phí đất.
Ví dụ: ở hai xã của huyện Thanh Oai, Thanh Trì - Hà Nội, Bộ Giao thông vận tải
đã thực hiện đền bù GPMB trên 100 ha đất (kể cả đã đổ san nền theo thiết kế đường sắt
và gia tàu hoả từ năm 1991), đến nay, diện tích đó vẫn chưa đưa vào khai thác sử dụng,
tình trạng xô xát giữa dân với dân, thậm trí lấy cát san nền để bán vật liệu xây dựng.
Khi công nghiệp Bắc Thăng Long, hàng trăm ha đất nông nghiệp đã được đền bù.
Xây dựng rào khuôn viên cho khu công nghiệp từ năm 1998, hiện nay diện tích đất đó
chưa được khai thác sử dụng.
Nếu xét về hiệu quả kinh tế, nguồn thu nhập từ việc cho thuê có thể lớn hơn rất
nhiều so với làm nông nghiệp, nhưng sẽ làm cho một bộ phận bị mất tư liệu sản xuất
dẫn đến không có việc làm, có thể xảy ra nhiều tệ nạn xã hội. Để đưa lực lượng này vào
làm việc trong các khu công nghiệp là vấn đề rất khó khăn, vì đây là công việc đòi hỏi
một đội ngũ có tay nghề cao. Có thể coi sử dụng đất trong trường hợp này là không có
hiệu quả về xã hội, trái với nguyên tắc sử dụng đất "Bảo vệ nghiêm ngặt đất nông
nghiệp".
Ngược lại trên địa bàn Sóc Sơn - Hà Nội dự án mở đường quốc lộ 18 với diện
tích chiếm dụng là 131 ha tuyến Nội Bài - Bắc Ninh trong trục quốc lộ khu vực tam giác
kinh tế được khởi công ngày 01/12/2000, đất công nghiệp, đất ở nông thôn đã được đền
bù để GPMB nhưng lại thời điểm đó diện tích đất thu hồi UBND thành phố Hà Nội
chưa trình Chính phủ ra quyết định giao đất.
Như vậy, nhiều Luật, Thông tư, văn bản dưới luật không được xã hội và nhân dân
hoặc thiếu hướng dẫn thi hành cụ thể và năng lực thể chế để thi hành đặc biệt trong quản
lý đất đai và quản lý xây dựng dẫn đến nhiều phức tạp khi thực hiện đền bù và TĐC.
Bên cạnh đó còn nhiều điều mâu thuẫn và bất hợp lý, đôi khi còn chồng chéo giữa các
nghị định, thông tư làm cho việc thực hiện càng trở nên khó khăn.
Chương II
Kết quả điều tra xã hội học về thực hiện chính sách đền bù và tái định cư
I. Thực trạng công tác đền bù về đất đai và TS theo NĐ 22/CP
1. Thực trạng xác định giá đất hiện nay
Trong một thời gian dài Nhà nước không thừa nhận đất đai có giá, nhưng thực tế
thị trường bất động sản (bao gồm đất đai) vẫn diễn ra theo những kênh ngầm, giá
chuyển nhượng hình thành không dựa trên một căn cứ nào mà chỉ là "thuận mua vừa
bán" viết giấy trao tay không cần chứng nhận của Nhà nước, theo đó Nhà nước không
thể xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất, ở các tỉnh, thành phố chưa thành lập được các tổ
chuyên môn thu thập thông tin về thị trường bất động sản, ngay cả khi có dự án thu hồi
nhiều đất của những người đã được Nhà nước giao sử dụng ổn định lâu dài, khâu thu
thập giá chuyển nhượng thực tế trước thời điểm dự án tiến hành hầu như không có chủ
yếu căn cứ vào khung giá, sử dụng hệ số K để điều chỉnh, do chi phí thực hiện thu thập
số liệu trong trường hợp định giá đột xuất (theo yêu cầu của chủ đầu tư) rất lớn.
Xuất phát từ thực trạng, việc xác định giá đất không tránh khỏi sự áp đặt mang
tính chất chủ quan, do vậy khi áp dụng vào các mục đích thường phát sinh tồn tại. Tuy
nhiên, không nên xây dựng khung giá riêng trong cho từng mục đích vì sẽ tạo nên nhiều
mặt bằng giá gây khó khăn cho công tác quản lý của Nhà nước. Nhưng mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố (tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý) đến mỗi mục đích sử dụng đất
khác nhau, dẫn đến các nguyên tắc phương pháp định giá được sử dụng cũng rất khác
nhau. Vì vậy, cần có quy định, hướng dẫn cụ thể để các tỉnh xây dựng giá đất phục vụ
cho các mục đích phù với điều kiện của địa phương mình, tiến tới xoá bỏ khung giá, xác
định giá trị của đất đúng với khả năng sinh lợi và giá chuyển nhượng thực tế.
Chi phối trực tiếp đến chính sách điều chỉnh sự phát triển của thị trường bất động
sản hiện nay là bảng giá đất quy định của các tỉnh, thành phố, áp dụng mức giá này vào
các mục đích (chủ yếu là thu tiền sử dụng đất và đền bù GPMB) nhưng cả hai nội dung
trên vẫn còn những tồn tại nhất định:
- Mặt bằng giá đất đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng ... đã lạc hậu, nhiều vị trí không đảm bảo 50 - 60% giá chuyển nhượng
thực tế.
- Giá không đồng đều giữa các tuyến đường, còn sự chênh lớn giữa các đoạn trên
cùng một tuyến đường.
- Nhiều con đường mới đã được nâng cấp cải tạo nhưng chưa điều chỉnh giá hoặc
quy định để thực hiện.
- Giá đất ở vị trí có nhiều đường đi vào quy định chưa rõ ràng.
- Giá đất nông nghiệp (TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội) hoàn toàn căn cứ vào khung
giá đất theo Nghị định 87/CP (tính theo hạng đất). Quy định này phù hợp đối với đất
nông nghiệp trong vùng quy hoạch sản xuất nông nghiệp ổn định. Khi đất nông nghiệp
được quy hoạch đầu tư phát triển đô thị thì giá đất không phụ thuộc vào hạng đất mà có
quy luật vận hành đặc biệt, cần sử dụng phương pháp định giá riêng.
- Đối với đất ở nông thôn, khung giá hiện nay có sự chênh lệch rất lớn, giữa vị trí
ven đường giao thông và vị trí chỉ cách nhau bởi một ranh giới đất.
- Đối với đất bị thu hồi GPMB không chỉ chịu tác động của chất lượng định giá
bất động sản mà còn chịu tác động của các chính sách quản lý đất đai đòi hỏi cần có các
quy định riêng.
2. Thực trạng đền bù về đất đai và các tài sản gắn liền với đất
* Đối với đất đai
Thực hiện NĐ 22/1998/NĐ - CP của Chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc
TW đã ban hành các văn bản hướng dẫn, giá đất của các địa phương và các quyết định
áp dụng cho công tác này. Ví dụ:
- Hà Nội, UBND Thành phố ra quyết định 20/1998/QĐ - UB về đền bù thiệt hại
trên địa bàn thành phố, trong gần 2 năm, đã đạt được kết quả sau:
+ Có 76 dự án đã thực hiện xong công tác GPMB
+ 555.151 m2 (78.837m2 đất ở) diện tích đất đã đền bù
+ Số hộ phải di chuyển để giải phóng mặt bằng: 2.224 hộ
+ Tổng giá trị đền bù hỗ trợ: 96.615.952.000đồng
+ Diện tích đất giao TĐC cho các hộ: 13.328m2
+ Tiền sử dụng đất nộp khi giao đất ĐC: 12.563.745.000đồng
Cùng các dự án khác đang được đầu tư triển khai các thủ tục đền bù GPMB như
dự án khu công nghiệp Bắc Thăng Long, dự án khu liên hiệp xử lý chất thải Nam Sơn,
dự án thoát nước Nam Hà Nội, dự án xây dựng gia cố đê Hà Nội, dự án khu đô thị mới
Trung Yên, Định Công, Linh Đàm...
Để đáp ứng nhu cầu cho các dự án trên địa bàn Hà Nội, việc thu hồi đất đã làm
ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều đối tượng, trong khi một bộ phận dan cư giàu lên khá rõ
rệt, lại có không ít số hộ dân cư đi đến chỗ bần cùng vì không có tư liệu sản xuất, không
không phục được nguồn thu nhập, nó tác động đến những tồn tại mang tính lịch sử trong
quản lý đất đai của thành phố và những diễn biến phức tạp trong quan hệ sở hữu về tài
sản và những thay đổi về chính sách Nhà nước qua các thời kỳ, nên khi thực hiện phát
sinh nhiều khiếu kiện, chỉ tính trong năm 1998 đã có 464 trường hợp có đơn thư khiếu
nại, tố cáo. Nội dung chủ yếu tập trung vào vấn đề quyền sử dụng đất, giá đất đền bù
thiệt hại, giao đất TĐC.
+ Việc đền bù hỗ trợ đối với các trường hợp thuê nhà ở riêng biệt (đất và khuôn
viên riêng) của Nhà nước thường thắc măc vì hiện nay thành phố chỉ xây dựng nhà ở
chung cư cao tầng để TĐC. Nếu tự lo chỗ ở được hỗ trợ 60% tiền đất và 60% tiền thuê
nhà là không công bằng với với các hộ không có giấy tờ hợp pháp nhưng sử dụng trước
ngày 15/10/1993 được hỗ trợ theo thời gian sử dụng có tỷ lệ cao hơn (80% giá đất).
Diện tích đất ở khu dân cư nông thôn khi thu hồi chỉ được đền bù phần diện tích
đã xây dựng nhà và các công trình phục vụ cho sinh hoạt, diện tích còn lại xác định là
đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất liền kề, một số hộ gia đình đất đai do ông cha để lại
diện tích sử dụng thường lớn hơn rất nhiều so với hạn mức quy định, hiện nay không
chấp nhận di chuyển, vì bản thân giá đất ở nông thôn do UBND TP. Hà Nội quy định
trong 3519/QĐ-UB đã rất thấp cộng với số tiền đền bù tính theo giá đất vườn thì người
dân không thể tìm mua được một mảnh đất có giá trị tương đương như mảnh đất cũ. Tại
thời điểm có dự án giá đất chuyển nhượng thực tế thường gấp từ 10 - 12 lần so với
khung giá quy định.
Giá đất nông nghiệp và giá đất ở trong cùng một khu vực chênh lệch quá lớn gây
khó khăn cho việc đền bù khi thu hồi đất nông nghiệp. Đất hạng 3, hạng 4 được đền bù
theo giá quy định cộng thêm một khoản hỗ trợ cho ngang bằng với giá đất hạng 1, hạng
2. Trước đây, để giảm thuế sử dụng đất Nhà nước các xã đã khai giảm hạng đất xuống,
thực hiện hỗ trợ trong trường hợp này nhằm giảm bớt thiệt thòi cho dân nhưng sẽ là
không công bằng giữa các hạng đất với nhau. Sử dụng hạng đất để xác định giá đất được
đền bù đến nay là không phù hợp vì bản thân công tác phân hạng thực hiện chưa tốt,
quản lý Nhà nước về đất đai của các cấp chính quyền cơ sở chưa chặt chẽ gây thất thu
lớn cho ngân sách Nhà nước, đồng thời gây nên vướng mắc cho công tác đền bù giải
phóng mặt bằng. Thông tư 145/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định đền bù đất nông
nghiệp theo giá chuyển nhượng thực tế và khả năng sinh lợi là hợp lý nhưng để thu thập
cơ sở dữ liệu về giá đất là khó khăn, công tác thống kê, kê khai năng suất sản lượng hiện
nay chưa được cập nhật đầy đủ.
- Tại huyện Chí Linh (Hải Dương), hạn mức đất áp dụng trong dự án nâng cấp
cải tạo đường 18 không giống nhau giữa các đối tượng sử dụng đất, thường dao động
150 - 400 m2. Khi tính phân chia tỷ lệ giữa hạn mức theo quy định và hiện trạng sử dụng
thì có lợi cho các chủ sử dụng đất chỉ bị thu hồi một phần, diện tích đang sử dụng càng
lớn thì thiệt thòi càng nhiều, gây nên sự phản ứng mạnh mẽ của người dân. Một số hộ
làm đơn như khiếu nại nhưng không được giải quyết còn bị chính quyền địa phương đe
doạ.
- Để chuẩn bị mặt bằng cho một số công trình trọng điểm tuyến quốc lộ 1A,
đường Lê Duẩn, đường Lê Đình Dương, Liên Chiểu, Thuận Phước, khu công viên nước
Hoà Cường, đường từ sông Hàn ra biển. UBND thành phóo Đà nẵng, các Quận, Huyện
ban hành 14.200 quyết định thu hồi đất, giao đất, chuyển quyền sử dụng đất với tổng
diện tích 210 ha. Đơn giá đền bù đất ở và đơn giá thực tế chênh lệch từ 1 - 3 lần. Do có
sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành, đặc biệt là sự quan tâm các quận, huyện và sự
hỗ trợ nỗ lực phấn đấu của cán bộ công nhân viên Ban giải toả đền bù, cùng một lúc
triển khai nhiều công trình khối lượng công việc rất lớn nhưng là phục vụ kịp thời tiến
độ.
- Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giá đất đền bù thiệt hại có tính đến hệ số K làm cho
giá đền bù sát với giá chuyển nhượng thực tế nhưng lại tạo ra hai mặt bằng giá trong khi
tỉnh chủ trương xây dựng khung giá ổn định.
- ở thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết nhân dân cho rằng đơn giá đền bù đất khu
dân cư nông thôn, đất đô thị còn thấp nhiều so với giá thị trường, cụ thể thị trấn Củ Chi
giá chuyển nhượng thực tế gấp 3,0 - 9,0 lần giá đền bù, phường Trung Mỹ Tây sự chênh
lệch này từ 3,1 - 5,0 lần. Diện tích đất thổ cư tối đa được đền bù thường từ 160 - 300 m2,
phần còn lại đền bù theo giá đất cây lâu năm. Theo quyết định 05/1995/QĐ- UB mức
giá giữa hai loại đất này có sự chênh lệch rất lớn, người dân chấp nhận tính đền bù đất
thổ cư theo hạn mức, phần còn phải được đền bù theo đơn giá riêng nhưng không phải
là giá đất lâm nghiệp.
- Tỉnh Hoà Bình giá đất nông nghiệp tính đền bù có áp dụng hệ số K cho phù hợp
với mức thuế mà người dân phải nộp, nhưng không có khoản hỗ trợ 20 năm chuyển
nghề dẫn đến tình trạng cuộc sống của người nông dân khu vực miền núi vốn đã khó
khăn lại càng khổ hơn, đi ngược với chính sách xoá đói giảm nghèo của Chính phủ.
- Trên địa bàn phường Quang Vinh - Thành phố Biên Hoà áp dụng giá đền bù
không đúng theo giá đóng thuế sử dụng đất, giá đất nông nghiệp nông thôn đền bù thấp
hơn nhiều so với giá đất nông nghiệp trong đô thị (đất nông nghiệp nông thôn đền bù
9720đ/m2; đất nông nghiệp trong đô thị đền bù 15.000đ/m2).
Xét một mặt bằng chung nhất giá đền bù đất nông nghiệp thực hiện theo NĐ
22/CP là phù hợp có thể chấp nhận được.
+ Việc xác định đền bù cho đất chuyên dùng quy định trong NĐ 22/CP mới chỉ
rừng lại ở các đối tượng. Cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của
các tổ chức chính trị - xã hội, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, đơn vị
kinh tế tập thể, doanh nghiệp tư nhân. Đối với đất chuyên dùng cá nhân chưa có chính
sách quy định cụ thể.
* Đối với tài sản gắn liền với đất bị thu hồi
Đơn giá đền bù công trình cay cối hoa màu gắn liền với đất bị thu hồi đa số được
người dân đồng tình ủng hộ, một số dự án đơn giá đền bù cho dcc công trình, cây cối
hoa màu cao hơn 10% so với giá thị trường.
Vướng mắc lớn nhất hiện nay đối với tất cả các công trình là đơn giá đền bù với
loại nhà từ cấp II chưa thoả đáng, do việc xác định giá trị khấu hao chưa chính xác... Có
địa phương tính khấu hao 20% đối với tất cả loại nhà từ cấp II trở lên không xét đến
công trình đó xây dựng từ năm nào (dự án nâng cấp cải tạo quốc lộ 1A trên địa bàn
huyện Gia Lâm).
Tỉnh Hoà Bình tính khấu hao 10% cho các công trình này sau đó cộng thêm 10%
hỗ trợ để đảm bảo đền bù theo giá xây dựng mới, đối với cây cối hoa màu tuy có áp
- Xem thêm -