Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở ...

Tài liệu Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố hà nội

.PDF
111
96
146

Mô tả:

LUẬN VĂN: Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngay từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền về tay nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [37, tr. 698]. Thực hành dân chủ là công việc của quần chúng lao động ở cơ sở, trước hết là những người tiên tiến, tích cực, những cán bộ, đảng viên. Mỗi người phải nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ làm chủ của mình trong cuộc sống và quan hệ xã hội hàng ngày. Quan hệ công việc và cuộc sống hàng ngày giữa con người với con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta là quan hệ dân chủ, bình đẳng. Dân chủ là một lý tưởng lớn của loài người và là động lực quan trọng của sự phát triển xã hội, ở mỗi giai đoạn lịch sử đều được đánh dấu bởi những nấc thang giá trị, những nội dung và hình thức dân chủ nhất định. Kinh tế, xã hội phát triển càng cao, thì nên dân chủ càng có điều kiện và khả năng phát triển. Dân chủ mang tính nhân loại và có sự kế thừa, phát triển cả về nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện ở mỗi chế độ xã hội. Ngày nay, trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi phát huy dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa VI của Đảng đã nêu rõ: "Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân" [16]. Để phát huy động lực dân chủ đòi hỏi phải có nhiều hình thức, phương pháp, lịch trình sáng tạo, trong đó điều quan trọng hàng đầu là phải nâng cao được chất lượng dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) đã nhấn mạnh: "Tiếp tục phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia và bảo vệ nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ công chức nhà nước" [19]. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi dân chủ những năm qua đã bộc lộ không ít khó khăn, thách thức do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, của hội nhập kinh tế quốc tế và những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước của các cấp chính quyền; dân chủ ở cơ sở có lúc, có nơi bị vi phạm nghiêm trọng, tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu gây phiền hà cho dân vẫn tiếp diễn làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng và chính quyền. Trong bối cảnh mới của đất nước, vấn đề giữ vững và phát huy bản chất dân chủ của Nhà nước ta, của chế độ xã hội ta, phát huy quyền làm chủ của người dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ. Vì vậy, hơn lúc nào hết chúng ta phải có những biện pháp tích cực, cụ thể và đổi mới nhằm phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội của địa phương. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: " Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xó trờn địa bàn thành phố Hà Nội " làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua, việc nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã được quan tâm một bước đáng kể như: Luận văn thạc sĩ Chính trị học của tác giả Nguyễn Thị Tâm năm 2000 về: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở". Luận văn tiến sĩ Chính trị học của tác giả Nguyễn Thị Xuân Mai năm 2004 về: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp; Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thanh Bình năm 2005 về: Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Hoặc trong các tạp chí của Trung ương và các ngành cũng quan tâm đến vấn đề dân chủ ở cơ sở nhằm đưa ra những thông tin, những hoạt động của cơ sơ trong thực hiện dân chủ, như bài viết của Tiến sĩ Đỗ Minh Cương đăng trên Tạp chí Cộng sản, số phát hành 107, 2006 về: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chế độ chính trị dân chủ nhân dân ở nước ta. Đặc biệt, trong cuốn "Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" của Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu và Giáo sư Hồ Văn Thông (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, đã có cách nhìn sinh động trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã trên một số hoạt động như quản lý xã hội, hoạt động kinh tế, quản lý tài chính, thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo … Những công trình trên đều mang tính thời sự, xã hội đề cập đến việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên cả bình diện của hệ thống chính trị từ hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội đến các tầng lớp nhân dân, đề cập và giải quyết những vấn đề cụ thể, như việc tuyên truyền thực hiện quy chế dân chủ, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND), ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã đến các giải pháp về tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó chưa đề cập có hệ thống, toàn diện vấn đề kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Do vậy, có thể coi đề tài: "Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội" là công trình mới được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội. * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi cấp xã trên địa bàn thành phố Hà Nội, thời gian từ năm 1998 đến 2006. Về nội dung, luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trực tiếp liên quan đến đề tài 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận về dân chủ, quy chế dân chủ ở cơ sở và thực trạng kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất và luận chứng các giải pháp góp phần tăng cường sự kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội. * Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận về dân chủ, quy chế dân chủ ở cơ sở cũng như những vấn đề lý luận liên quan đến việc kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, yêu cầu khách quan cần tăng cường sự kết hợp đó trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. - Phân tích những thành tựu và hạn chế trong kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội những năm vừa qua. - Đề xuất và luận chứng các giải pháp tăng cường sự kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân chủ nói chung và kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nói riêng. Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học Mác - Lênin, trực tiếp là phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử và cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp của xã hội học, phương pháp hệ thống 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn là công trình nghiên cứu về dân chủ, song không nghiên cứu dân chủ nói chung cũng như dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, mà nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn cấp xã ở thành phố Hà Nội. - Luận văn góp phần đánh giá khách quan thực trạng kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội, các số liệu mới nhất, cập nhật nhất hiện nay, luận văn đã đề xuất và luận chứng các giải pháp thực hiện sự kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ, phát huy sức mạnh của nhân dân trong thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân, thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng - Nhà nước và nhân dân. 7. ý nghĩa của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân chủ, về dân chủ ở cơ sở, về kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong quá trình thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, mở rộng các hình thức dân chủ của nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Luận văn góp phần nâng cao nhận thức cho các cấp chính quyền và cho nhân dân về vai trò của dân chủ, quy chế dân chủ, sự cần thiết phải kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, từ đó phát huy tính tích cực, trách nhiệm xã hội, ý thức làm chủ của nhân dân. Luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo trong việc tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tình hình thực hiện cũng như các giải pháp nhằm làm cho mối quan hệ giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp có sự kết hợp hài hòa trong thực hiện qui chế dân chủ cũng như trong quá trình thực hiện công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương, cơ sở. Mặt khác, nó cũng đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng - chính quyền và nhân dân là một chỉnh thể thống nhất thực sự là cầu nối giữa Đảng với dân, thực sự là nơi "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 11 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận về dân chủ, về kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở 1.1. dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp 1.1.1. Khái niệm dân chủ, bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VI, VII trước công nguyên. Theo đánh giá của Arustotle (384 - 322 trước công nguyên) thì Solon (khoảng 638 - 559 trước công nguyên) là người đầu tiên đặt nền tảng cho nguyên lý dân chủ. Solon mong muốn xây dựng một nhà nước trên cơ sở một nền dân chủ thông qua tuyển cử và hòa nhập sức mạnh với pháp luật. Trong tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ (Demokratia) được cấu thành từ hai gốc là: Demos tức là nhân dân và kratia nghĩa là nhân dân cai trị. Sau này các nhà chính trị học giản lược mệnh đề đó thành "tất cả quyền lực thuộc về nhân dân". Như vậy, thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba yếu tố đó là nhân dân, quyền lực cộng đồng và mối quan hệ giữa chúng. Trong lịch sử Hy Lạp cổ đại, hình thức quyền lực công cộng đầu tiên của các quốc gia, đô thị được sử sách ghi lại chính là nhà nước. Do vậy, có thể khẳng định, dân chủ là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng đồng dân cư với nhà nước. Theo đó, cộng đồng là chủ thể và có quyền năng áp đặt ý chí lên nhà nước. Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước", Ph.Ăngghen đã không coi chế độ thị tộc là một thể chế dân chủ, tuy nhiên ông dùng thuật ngữ dân chủ để giải thích về hội nghị thị tộc: "Thị tộc có một hội đồng, tức đại hội dân chủ của toàn thể các thành viên của thị tộc, trai cũng như gái, tất cả đều có quyền bầu cử như nhau" [35, tr. 136]. Bản thân thuật ngữ dân chủ ngày càng được hiểu và được sử dụng theo nhiều nghĩa. Nếu sử dụng phương pháp logic để phân tích dân chủ thì có thể thấy dân chủ hiện diện ở nhiều bình diện khác nhau: Dân chủ là một dòng triết học, dân chủ là một chỉnh thể hiện thực, dân chủ là một hiện thực chính trị, dân chủ là một hiện thực kinh tế, dân chủ là một hiện thực xã hội và dân chủ là một trạng thái của hệ thống quan hệ quốc tế. Nếu đi theo tiến trình lịch sử nhân loại thì dân chủ bao gồm các kiểu hình sau: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ XHCN. Tóm lại, dân chủ bao gồm một tổ hợp các giá trị nhân bản, duy lý và cao đẹp. Dân chủ là sự hòa hợp của các giá trị: tự do, bình đẳng, sự thống nhất trong tính đa dạng. ở chiều cạnh này dân chủ được hiểu như một lý tưởng mà con người khao khát hướng đến và cố gắng thực hành trong cuộc sống. Dân chủ còn hàm chứa những phương pháp luận giải khác nhau, nhằm khẳng định tính hợp lý và tính đáng được tuân thủ của những giá trị dân chủ. Nó đề ra các phương pháp thực hiện các giá trị đó trong đời sống, mà chủ yếu tập trung vào ba khâu quan trọng: Nhà nước - pháp luật - xã hội công dân. "Dân chủ là một giá trị xã hội chỉ có thể đạt đến một trình độ cao khi có sự phấn đấu của toàn thể cộng đồng nhân dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt của các cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền" [45, tr. 12]. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ xin đề cập đến vấn đề dân chủ XHCN: đó là nền dân chủ ra đời từ khi thành lập chính quyền nhà nước của giai cấp công dân và nhân dân lao động thông qua cách mạng XHCN (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng và giai cấp công nhân lãnh đạo). Bản chất của nền dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ: Nền dân chủ XHCN mang bản chất của giai cấp công nhân, là nền dân chủ của đa số nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của đa số nhân dân. Trong xu hướng phát triển của nó là tiến tới một chế độ xã hội không còn sự khác biệt giai cấp. Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhất nguyên về chính trị. Nền dân chủ XHCN được thực hiện bằng hệ thống tổ chức với tính cách là một chế độ chính trị, trước hết được thực hiện chủ yếu bằng nhà nước và thông qua nhà nước. Quá trình đó diễn ra cùng với quá trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của cộng cuộc đổi mới đất nước. Trong văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mực tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước [25]. Trên cơ sở quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ XHCN của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Đảng ta đã tiếp tục kế thừa và mở rộng dân chủ XHCN để các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị, đặc biệt là thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở nhằm mục tiêu: Thứ nhất, đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị: "Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ" cả ba mặt này đều phải được coi trọng, không vì nhấn mạnh mặt này mà coi nhẹ, hạ thấp mặt khác. Thứ hai, vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động Quốc hội, HĐND và UBND các cấp, vừa thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình. Thứ ba, phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả. Thứ tư, phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với Hiến pháp, pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự, quyền hạn gắn với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật. Thứ năm, gắn quá trình xây dựng và thực hiện qui chế dân chủ với công tác cải cách hành chính, sửa đổi cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính không phù hợp với thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước. 1.1.2. Khái niệm dân chủ đại diện, các phương thức thực hiện dân chủ đại diện ở cơ sở Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. ở nước ta tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là người làm chủ nhà nước và xã hội. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trước hết thông qua các cơ quan, tổ chức đại diện cho họ (dân chủ đại diện) theo nghĩa rộng, các cơ quan, tổ chức đại diện cho quyền lực và quyền làm chủ của nhân dân bao gồm Quốc hội, HĐND các cấp, các cơ quan nhà nước khác, các đoàn thể, các tổ chức xã hội. Theo nghĩa hẹp, cơ quan tổ chức đại diện cho nhân dân là Quốc hội, HĐND và các tổ chức chính trị xã hội. Mặt khác, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình còn thông qua việc trực tiếp bày tỏ ý chí, ý kiến, nguyện vọng của mình trong quá trình tham gia xây dựng nhà nước, pháp luật, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng như đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình, của người khác, cũng như của Nhà nước và của xã hội nói chung (dân chủ trực tiếp). Bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề cốt tử, thể hiện bản chất của Nhà nước kiểu mới và chế độ xã hội XHCN, cội nguồn tạo nên sức mạnh và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở, nơi nhân dân trực tiếp thực hiện quyền làm chủ của họ. Nhưng ở cơ sở nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua những phương thức nào? Vai trò của HĐND trong thực hiện dân chủ ở cơ sở được biểu hiện như thế nào? Cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND theo những phương hướng nào để đảm bảo thực hiện dân chủ ở cơ sở. ở cơ sở, nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ đại diện, nghĩa là thông qua HĐND và các đoàn thể, tổ chức xã hội. Dân chủ đại diện thể hiện tập trung, thống nhất quyền lực của nhân dân, tạo ra những điều kiện đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Phương thức thực hiện dân chủ đại diện ở cơ sở: Dân chủ đại diện ở cơ sở được thực hiện thông qua hoạt động của HĐND và các đoàn thể tổ chức xã hội, trong đó HĐND đóng vai trò quan trọng. Do vậy, các phương thức thực hiện dân chủ đại diện chủ yếu bao gồm: Một là, dân chủ đại diện được thực hiện thông qua hoạt động của đại biểu HĐND; đại biểu HĐND ở cơ sở là những người do cử tri diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của cử tri. Trong hoạt động của mình, đại biểu HĐND phải gần gũi nhân dân, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của họ, nắm bắt những vấn đề đặt ra trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, trật tu ở địa phương, cơ sở. Trên cơ sở tập hợp ý chí, nguyện vọng, ý kiến của nhân dân và những vấn đề đặt ra trên các lĩnh vực đời sống xã hội, căn cứ vào quy định của pháp luật, đại biểu HĐND sẽ tham gia xây dựng các nghị quyết của HĐND nhằm quyết định những chủ trương, biện pháp thể hiện tập trung ý chí của nhân dân, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết, quyết định của HĐND, UBND cấp trên. Chất lượng trong và ngoài kỳ họp của đại biểu HĐND sẽ quyết định tính chất, hiệu quả đại diện của HĐND. Hai là, dân chủ đại diện được thực hiện thông qua việc HĐND thực hiện các chức năng do pháp luật quy định: Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đối với HĐND cơ sở bản chất đó được thể hiện thông qua việc thực hiện các chức năng của HĐND; Hội đồng nhân dân ban hành các nghị quyết nhằm tổ chức, thực hiện pháp luật và giải quyết những vấn đề quan trọng trên các lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội ở địa phương, cơ sở, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân; HĐND thực hiện chức năng giám sát hoạt động của UBND (cơ quan chấp hành của HĐND) bảo đảm cho hoạt động của UBND phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, thực hiện tốt các nghị quyết của HĐND, đồng thời hoạt động giám sát của HĐND được thực hiện theo sự phản ánh và nguyện vọng của nhân dân đối với tổ chức, hoạt động của UBND. Ba là, dân chủ đại diện còn được thực hiện thông qua hoạt động của các đoàn thể, tổ chức xã hội như: Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, hội Phụ nữ, hội Nông dân, hội Cựu chiến binh. Đây là những tổ chức quần chúng theo giai cấp, giới tính, nghề nghiệp, sở thích nhằm tập hợp, vận động quần chúng, thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, tham gia xây dựng nhà nước, quản lý nhà nước và xã hội; giúp đỡ nhau trong học tập, sản xuất kinh doanh, đời sống, sinh hoạt, hoạt động xã hội, đồng thời bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên. Do cách thức tổ chức, nội dung, mục đích hoạt động của các đoàn thể, tổ chức quần chúng nên các tổ chức này thể hiện rõ hơn tính chất đại diện cho đoàn viên, hội viên của mình và ngược lại tính chất đại diện của chúng lại được thể hiện cụ thể trong nội dung, mục đích tôn chỉ, hoạt động của tổ chức này. Trong các phương thức thực hiện dân chủ nêu trên, phương thức thực hiện thông qua hoạt động của HĐND có vai trò quyết định. Bởi vì, thông qua hoạt động của HĐND, ý chí của nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước, được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước và phương thức tác động của Nhà nước, có tính bắt buộc chung đối với các thành viên ở địa phương, cơ sở. Việc mở rộng dân chủ đại diện đòi hỏi phải tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, đảm bảo cho nhân dân được tiếp xúc, đối thoại với các đại biểu của mình, có đầy đủ thông tin để trao đổi, nhận xét, lựa chọn thực sự dân chủ. Mặt khác, phải tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, HĐND các cấp ở địa phương, các cơ quan HĐND, UBND cần tạo được mối quan hệ thường xuyên giữa các cơ quan dân cử với nhân dân, kịp thời giải quyết, đáp ứng được những yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Ngoài ra, muốn hoàn thiện dân chủ đại diện, một vấn đề cấp bách là: Nâng cao chất lượng của các tổ chức quần chúng (từ trung ương đến địa phương) làm cho các tổ chức đó thực sự có được sự quan tâm thiết thân của các thành viên của mình, gần gũi với họ. Để phát huy dân chủ đại diện phải khắc phục bệnh quan liêu của các tổ chức quần chúng, các tổ chức đó phải nắm bắt nhanh, nhạy những vấn đề bức xúc của cuộc sống để huy động trí tuệ, sức lực của các thành viên trong tổ chức mình tham gia, giải quyết những vấn đề đó. 1.1.3. Khái niệm dân chủ trực tiếp Cùng với việc mở rộng dân chủ đại diện, cần phải mở rộng dân chủ trực tiếp. Về tầm quan trọng của vấn đề này Lênin đã từng nói: Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện dân chủ cho những người đại diện nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ. Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng với sự tham gia trực tiếp của quần chúng vào tất cả đời sống của Nhà nước. Dân chủ trực tiếp xét về bản chất, là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của con người. Nó bắt nguồn từ cách bày tỏ ý chí, thái độ của các tập thể, cộng đồng thị tộc, bộ lạc trước khi xã hội phân thành giai cấp và có Nhà nước. Khi đó để bày tỏ thái độ, bày tỏ ý chí như một quyền lực tối cao, mọi thành viên đều reo hò, tán thưởng, cùng vỗ tay đồng tình hoặc "bỏ phiếu" bằng vỏ sò, viên đá... Đó là hình thức dân chủ "tự quản nguyên thủy" được xem là biểu hiện sơ khai của chế độ dân chủ trực tiếp, những đặc trưng cơ bản của "tự quản nguyên thủy" gồm những yếu tố sau: Một là, người đứng đầu thị tộc, bộ lạc do tất cả các thành viên thị tộc, bộ lạc bầu ra. Hai là, mọi thành viên trong thị tộc, bộ lạc đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau. Ba là, mọi công việc trong thị tộc, bộ lạc đều được thành viên tham gia bàn bạc, quyết định. Như vậy, xét từ nguồn gốc, dân chủ trực tiếp chính là nền dân chủ của bình dân (DemociatiePopulaire). Hình thức sớm nhất của dân chủ trực tiếp Athenes (Hy Lạp) và Florenxia (ý). ở đó, trong một cộng đồng không quá 20.000 người, những người dân tự do (trừ nô lệ và kiều dân) cùng bàn bạc và bỏ phiếu bằng đa số quyết định trực tiếp các công việc của cộng đồng. Sau đó, các nhà dân chủ tư sản tiếp tục phát triển nền móng tư tưởng cho hình thức dân chủ này, điển hình là nhà tư tưởng người Pháp JJ Roussean (thế kỷ XVIII) trong tác phẩm nổi tiếng "Bàn về khế ước xã hội" (Ducontrat Social", 1762). Sau khi khẳng định nguồn gốc quyền lực là ở dân đã đề ra mô hình lý tưởng về dân chủ trực tiếp của tất cả các thành viên xã hội để thực hiện cái mà ông gọi là "ý nguyện chung". Trên nền tảng tư tưởng đó, đến xã hội dân chủ tư sản, các hình thức dân chủ trực tiếp phát triển từ chỗ là "những kỹ thuật lấy ý kiến trực tiếp của đa số" đến chỗ hình thành các chế định pháp lý. Tiêu biểu nhất là thể thức "trưng cầu ý dân" do Nhà nước tổ chức để quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia. Đặc trưng bản chất nhất của hình thức dân chủ trực tiếp là ở chỗ: Sự quyết định không phải do Nhà nước, mà do chủ thể quyền lực trực tiếp quyết định, Nhà nước chỉ đứng vai trò tổ chức, ghi nhận ý nguyện trực tiếp đó và bảo đảm thực hiện. Xét một cách cụ thể hơn về bản chất pháp lý, để được coi là dân chủ trực tiếp phải có các yếu tố sau: Thứ nhất, là yếu tố phổ thông, đại chúng, nghĩa là bất cứ ai có đủ tư cách (có năng lực pháp lý và năng lực hành vi) thì đều có quyền tự mình bày tỏ ý chí của mình. Thứ hai, là yếu tố trực tiếp, nghĩa là không thông qua cá nhân hay tổ chức thay mặt mình Thứ ba, là yếu tố có hiệu lực thi hành, nghĩa là ý chí các công dân quyết định. Tóm lại, "dân chủ trực tiếp" là sự thể hiện một cách trực tiếp ý chí của chủ thể quyền lực về những vấn đề quan trọng nhất. Do đó, bộ máy của chủ thể chỉ đơn thuần đóng vai trò tổ chức và bảo đảm các điều kiện để thực hiện ý chí đó. Chủ thể của quyền lực tự mình giải quyết các vấn đề về lập pháp, về hành chính và quản lý về tư pháp… hình thức sớm nhất của dân chủ trực tiếp là Quốc hội Athenes (Hy Lạp) và Flonenxia (ý). Dân chủ công xã nguyên thủy cũng có thể được coi là biểu hiện của chế độ dân chủ trực tiếp. Ngày nay, những hình thức dân chủ trực tiếp phổ biến nhất gồm: Trưng cầu ý dân (phạm vi toàn quốc), thực hiện các sáng kiến pháp luật, bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp, hoạt động của các tổ chức xã hội, hiệp hội quần chúng và nghề nghiệp, các hình thức tự quản trong sản xuất và cơ sở địa phương… [48, tr. 659]. Từ khái niệm trên, có thể xác định hai phạm vi nội dung và cách thực thi dân chủ trực tiếp sau đây: Về nội dung: "Dân chủ trực tiếp là sự thể hiện trực tiếp ý chí của chủ thể quyền lực về những vấn đề quan trọng nhất". Những vấn đề quan trọng nhất ấy thuộc hai cấp độ sau: Một là, những vấn đề quốc gia (vĩ mô) như: Trưng cầu ý dân về Hiến pháp hoặc một đạo luật, những chính sách lớn về đối ngoại, kinh tế, văn hóa, xã hội, bầu Quốc hội, HĐND các cấp… Hai là, những vấn đề liên quan trực tiếp, sát sườn (mở rộng) đối với cuộc sống của các cộng đồng dân cư ở cơ sở (vi mô) như "điện, đường, trường, trạm", xóa đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh trật tự, khuyến học, tương thân, tương trợ… Về cách thức thực hiện: Tương ứng với hai nội dung trên, Dân chủ trực tiếp được thực hiện bằng hai cách. Một là, bằng công cụ nhà nước - bộ máy của chủ thể, trong khuôn khổ và các thiết chế nhà nước (trưng cầu ý dân, bầu cử…). Hai là, Bằng các hình thức tự quản ở cơ sở ngoài Nhà nước, ở đây, chủ thể quyền lực tự quyết định những vấn đề riêng, thiết thân của cộng đồng. Đây cũng là một dạng quản lý, không phải bằng pháp luật, mà bằng quy ước, bằng sự thỏa thuận của cộng đồng. Cần lưu ý rằng: "Dù dưới chủ nghĩa xã hội không có sự đối lập giữa Nhà nước và xã hội nhưng ranh giới của Nhà nước và xã hội vẫn đang tồn tại và không nên xóa nhòa để dẫn đến những mơ hồ trong quan niệm và trong việc áp dụng các biện pháp đảm bảo thi hành Hiến pháp" [56, tr. 76]. * Chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta về phát huy và mở rộng quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở: Vấn đề mở rộng dân chủ trực tiếp, thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", chính thức trở thành chủ trương của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), tiếp đến là Đại hội VII (1991) và đặc biệt là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã nêu rõ trong báo cáo chính trị tại Đại hội là: Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: Làm chủ thông qua đại diện bằng các cơ quan dân cử và các đoàn thể; làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với pháp luật Nhà nước [18]. Tại Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (6/1997), vấn đề phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân được đặt ra một cách cụ thể hơn trong nghị quyết chuyên đề về "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước XHCN trong sạch, vững mạnh". Nghị quyết nhấn mạnh: Phải tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước... Thể chế hóa và có cơ chế thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả [19]. * Các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp: - Văn kiện Đại hội IX xác định nhiều phương thức cụ thể để thực hiện dân chủ trực tiếp như: + Trưng cầu dân ý + Chế độ bầu và bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp. + Hỏi ý kiến nhân dân, đưa ra dân thảo luận các chủ trương, chính sách, các quyết định quản lý. + Khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu tố của nhân dân. + Chế độ công khai, báo cáo công việc trước dân của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức Nhà nước. + Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp những vấn đề phát triển kinh tế - văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh trật tự, trên địa bàn địa phương, cơ sở. + Chế độ tự phê bình trước dân. + Tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu tố, đơn thư dân nguyện. + Xây dựng chế độ và các tổ chức tự quản đời sống cộng đồng, tập thể. Để thực hiện các phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp nêu trên, ở các đơn vị cơ sở xã, phường, thị trấn đều phải thông qua hoạt động của HĐND bằng các nghị quyết của mình, HĐND xã thực hiện việc miễn nhiệm đại biểu HĐND, các cán bộ công chức của UBND theo đề nghị của nhân dân, quyết định hỏi ý kiến nhân dân về chủ trương, quyết định của chính quyền cơ sở, hướng dẫn nhân dân thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc quyền quyết định trực tiếp của nhân dân, xây dựng chế độ công khai báo cáo công việc, tự phê bình trước nhân dân và tiếp nhận giải quyết đơn thư khiếu tố, đơn thư dân nguyện. HĐND không chỉ ra nghị quyết để thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân mà còn thực hiện quyền giám sát, đánh giá những quá trình thực hiện những quyền đó. Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở những năm qua cho thấy ở đâu HĐND phát huy được vai trò, chức năng là cơ quan đại diện cho nhân dân thì cũng thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy được quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân; ngược lại, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở càng nâng cao vị thế, vai trò của HĐND trong quá trình thực hiện chức năng quyết định và chức năng giám sát của HĐND. 1.2. nội dung và vai trò của Quy chế dân chủ ở cơ sở 1.2.1. Nội dung của quy chế dân chủ ở cơ sở Trước hết, chúng ta có thể hiểu khái niệm quy chế, theo Từ điển tiếng Việt: "Quy chế là tổng thể nói chung những điều quy định thành chế độ để mọi người thực hiện trong những hoạt động nhất định nào đó" [59, tr. 812]. Quy chế thực hiện dân chủ ở xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Thực hiện dân chủ ở cơ sở phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật đi đôi với nghĩa vụ, kiên quyết xử lý những hành vi lợi dung dân chủ vi phạm Hiến pháp, pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích tập thể, quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân. Từ khái niệm, nhiệm vụ của quy chế dân chủ nói trên, chúng ta có thể đưa ra nội dung quy chế dân chủ ở cơ sở, bao gồm: Một là, trong xây dựng Nhà nước, quy chế dân chủ ở cơ sở có nội dung sau: - Nhân dân tham gia xây dựng các tổ chức, bộ máy của quyền lực nhà nước và lựa chọn các đại biểu của mình bằng việc bầu cử ra các đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp theo phương thức dân chủ đại diện. - Nhân dân tham gia các công việc quản lý nhà nước để thực hiện quyền làm chủ của mình. Đó là thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự thảo luật, đóng góp ý kiến vào xây dựng hoặc sửa đổi Hiến pháp và các văn bản pháp luật, các quy định, quy chế mang tính pháp lý. Đề xuất các kiến nghị với chính quyền các cấp thông qua các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND những vấn đề về pháp luật và chính sách liên quan đến cuộc sống và quyền lợi của mình. - Nhân dân tham gia đánh giá chính sách của Nhà nước trung ương và chính quyền địa phương, đề xuất những kiến nghị điều chỉnh, bổ sung, sửa chữa chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của mình. - Nhân dân đánh giá, nhận xét và chất vấn về hoạt động của các tổ chức nhà nước, về thực hiện nhiệm vụ của các đại biểu được dân ủy quyền, giám sát công việc, hành vi, tư cách của họ trong quan hệ với dân, thái độ đối xử với dân, hiệu quả phục vụ nhân dân theo cương vị, chức trách của người đại biểu. - Nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, phát hiện và đề nghị thanh tra, xử lý các biểu hiện tham nhũng, các vụ việc vi phạm chính sách, luật pháp, đạo đức, của công chức, của các quan chức nhà nước gây tổn hại đến lợi ích chung và lợi ích của công dân, ảnh hưởng xấu đến uy tín, thanh danh của Nhà nước, của chế độ. - Nhân dân có quyền đòi hỏi, các tổ chức, cơ quan nhà nước và các công chức, đặc biệt là những người có chức, có quyền, có trọng trách do dân ủy thác phải cung cấp thông tin kịp thời theo những quy định được ban hành cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây chính là công cụ pháp lý để bảo đảm thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Các đại biểu của dân và chính quyền của dân phải thực hiện chế độ, trách nhiệm, kỷ luật công cụ và đạo đức công chức trong sự giám sát thường xuyên của nhân dân. Bằng những việc làm cụ thể đó, nhân dân chẳng những tham gia xây dựng tổ chức nên các cơ quan quyền lực, tham gia quản lý để thực thi quyền lực nhà nước mà còn tham gia vào việc kiểm soát quyền lực nhà nước. - Việc thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của dân trong xây dựng Nhà nước còn đồng thời gắn liền với việc nhân dân thực hiện các nghĩa vụ công dân của mình đối với Nhà nước. Nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến chính sách và pháp luật cho dân biết, dân hiểu và dân tự giác thực hiện. Giáo dục ý thức chấp hành trong toàn dân, từng bước hình thành văn bản pháp luật, nhu cầu và thói quen tôn trọng pháp luật, tạo ra tập quán pháp trong đời sống xã hội. Cần tiến hành một cách công phu, bền bỉ với những biện pháp đồng bộ, những hình thức vận động, tuyên truyền giáo dục thiết thực, cũng như áp dụng các chế tài cần thiết để mọi công dân nghiêm chỉnh thi hành nghĩa vụ, mọi công chức nghiêm chỉnh chấp hành chế độ trách nhiệm, kỷ luật và đạo đức công chức, kết hợp đạo đức với sức mạnh điều tiết, kiểm soát của luật pháp để tạo ra sự lành mạnh của xã hội, tính minh bạch, nghiêm minh của pháp luật, kỷ luật, kỷ cương. - Pháp luật là đối tượng, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật - đó là điều không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền. Đó cũng là sức mạnh để thực hiện dân chủ và đảm bảo quyền làm chủ của người dân. - Thực hiện dân chủ và làm chủ. Đó vừa là quyền vừa là nghĩa vụ. Với công dân, thoái thác nghĩa vụ, không thực hiện nghĩa vụ là sự tự làm suy giảm quyền của mình, tự cản trở việc thực hiện dân chủ của mình, cho mình. Nguyên lý dân chủ trong nhà nước pháp quyền là gắn với nghĩa vụ, lợi ích gắn liền với trách nhiệm, dân chủ đồng thời là pháp luật. Dân chủ hóa đồng thời là pháp chế hóa. Dân chủ chỉ thực sự lành mạnh khi nó vận động trong hành lang pháp lý, do pháp luật kiểm soát và điều tiết.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan