Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Học tập và vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng từ thực tiễn thành...

Tài liệu Học tập và vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng từ thực tiễn thành phố hải phòng

.PDF
83
1111
66

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỌC NGUYỄN THỊ LIÊN HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG CHUYÊN NGÀNH : CHÍNH TRỊ HỌC Mã số : 60310201 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS CAO THU HẰNG HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Cao Thu Hằng, Viện Triết học - Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Các nhận định nêu ra trong luận văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, độc lập của tác giả luận văn, dựa trên sự tìm tòi nghiên cứu các tài liệu khoa học đã được công bố, đảm bảo tính khách quan, khoa học và trung thực. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Liên MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ........... 9 1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng .................................................................................. 9 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng – một số khía cạnh cơ bản 14 1.3. Ý nghĩa của việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng ở nước ta hiện nay..................................................................... 28 CHƢƠNG 2 - HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ............................. 34 2.1. Một số đặc điểm của thành phố Hải Phòng ................................................ 34 2.2. Thực trạng học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng từ thực tiễn thành phố Hải Phòng hiện nay....................................... 37 2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng ở thành phố Hải Phòng hiện nay ..................................................................................... 63 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 76 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, người lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam – trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, luôn luôn khẳng định vai trò quyết định của đạo đức cách mạng. Người nói: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang…”[30, tr.283-284]. Người cách mạng chỉ có bản lĩnh chính trị chưa đủ, còn phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, đạo đức dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bàn một cách sâu sắc, cô đọng, thấm thía về vấn đề đạo đức mà chính bản thân Người đã thực hiện một cách mẫu mực những tư tưởng và khát vọng đạo đức do mình đặt ra. Người là tấm gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân noi theo. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, trong tất cả các lãnh tụ cách mạng thế giới ở thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là người nhấn mạnh nhiều nhất đến đạo đức. Trong quan niệm của Người, đạo đức cách mạng luôn là một bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội, là động lực to lớn góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất nước. Đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi mới đồng thời cũng có nhiều khó khăn, thách thức mới. Trong Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta đã chỉ rõ, bên cạnh các thành tựu quan trọng của quá trình 5 năm thực hiện nghị quyết của Đại hội lần thứ XI, còn có những bất cập mà một trong số đó là sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, Đảng viên: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. (…) đạo đức xã hội 1 có mặt xuống cấp nghiêm trọng.”[16]. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đặt ra rất nhiều vấn đề cho công tác cán bộ, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có phẩm chất cách mạng, có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác đã lựa chọn. Cùng với sự hội nhập, phát triển của cả nước, trong những năm qua, thành phố Hải Phòng đã gặt hái nhiều thành công trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong việc học tập và vận dụng tư tưởng đạo đức cách mạng, có thể thấy trên địa bàn thành phố đã có nhiều chuyển biến tích cực, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên được nâng lên. Song, thực tế cho thấy một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa chú ý đến tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống dẫn đến suy thoái, vi phạm kỷ luật, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ. Một số cấp ủy đảng, cán bộ cơ sở chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Vì thế, việc học tập và vận dụng tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, thành phố Hải Phòng là hết sức cấp thiết và hết sức ý nghĩa. Với các lý do trên, tôi đã lựa chọn nội dung “Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã và đang có rất nhiều tác giả, tác phẩm, tài liệu, nội dung nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Có thể xem xét một số công trình như sau: Hồ Chí Minh nói về đạo đức cách mạng, PGS. TS. Lê Quý Đức, Nhà xuất bản lý luận chính trị Hà Nội, 2007. Cuốn sách đề cập đến quan điểm chung của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức, nội dung cơ bản của tư tưởng 2 đạo đức Hồ Chí Minh, những chuẩn mực đạo đức cơ bản, những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức đối với các tầng lớp nhân dân, những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Cuốn sách được biên soạn nhằm hưởng ứng và cung cấp tài liệu phục vụ cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Những câu chuyện thành bài học lịch sử, Đỗ Hoàng Linh, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2009: Cuốn sách không chỉ dừng lại ở việc biên soạn, tuyển chọn những mẩu chuyện về tấm gương đạo đức sáng ngời, trí tuệ, tài năng lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn tổng hợp, sắp xếp ngắn gọn thành hệ thống những sự kiện lịch sử chính trong cuộc đời và sự nghiệp của lãnh tụ cách mạng Hồ Chí Minh. Cuốn sách có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, không những đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của đông đảo nhân dân mà còn đặc biệt gần gũi với trình độ, tâm lý của tuổi trẻ, phù hợp với nhận thức, lòng tin của thanh, thiếu niên, học sinh, sinh viên. Qua đó, tác giả khuyến khích thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của nước nhà, học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ. Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, GS. TS. Hoàng Chí Bảo, Nhà xuất bản Hà Nội, 2013: Cuốn sách đề cập đến Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh - Một kiểu mẫu văn hóa đạo đức; các vấn đề lớn cần quan tâm trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Sửa đổi lối làm việc” - Tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền; Về giá trị và ý nghĩa của tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Minh triết Hồ Chí Minh về đạo đức. Nội dung của cuốn sách đã giúp người đọc nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh để từ đó học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người. Bên cạnh các công trình trên, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu nguồn gốc, nội dung, vị trí, vai trò, giá trị của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 3 như: Phạm Hoàng Điệp (2009), “Hồ Chí Minh trong ký ức bạn bè quốc tế”, Nxb Chính trị Quốc gia; Võ Nguyên Giáp (2015), “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia; Trần Viết Hoàn (2015), “Nơi ở và làm việc của chủ tịch Hồ Chí Minh tại khu phủ chủ tịch”, Nxb chính trị Quốc gia, v.v.. Về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” - hoạt động đầy ý nghĩa nhằm hiện thực hoá tư tưởng và đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh trong thực tiễn đời sống hiện nay - có rất nhiều công trình, bài viết đề cập đến quá trình, kết quả và tác dụng của cuộc vận động này. Có thể kể đến các công trình như: Giá trị thời đại của văn hóa Hồ Chí Minh, Bùi Kim Hồng, Đỗ Hoàng Linh, Văn Thanh Mai, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2010: Cuốn sách phân tích, làm rõ những giá trị lý luận và thực tiễn của việc Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cùng với đó, cuốn sách đã phân tích các công việc cụ thể, các tấm gương về làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cuốn sách cung cấp thêm cho bạn đọc những tư liệu quý giá, góp phần tích cực vào việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của mỗi cá nhân; đồng thời, góp phần làm phong phú thêm kho tàng tư liệu viết về Người. Học tập đạo đức Bác Hồ, Vũ Khiêu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2014: Cuốn sách đề cập đến tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; những vấn đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp của nhân dân ta ngày nay. Trong tác phẩm này, GS. Vũ Khiêu đã đi sâu nghiên cứu nguồn gốc, nội dung, tư tưởng và những giá trị to lớn của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ngoài các công trình trên, còn có các bài viết, các báo cáo có tính sơ kết, đánh giá kết quả triển khai, tổ chức thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ chính trị (khóa X) về phát động cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 4 14/05/2011 của Bộ chính trị (khóa XI), Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”… của các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị, từ đó đề xuất chủ trương, biện pháp đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động trong thời gian tiếp theo. Đó là bài viết “Tiếp tục đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng” của PGS.TS. Phạm Ngọc Anh đăng trên Tạp chí Báo cáo viên tháng 5/2016 của Ban Tuyên giáo Trung ương. Riêng về thành phố Hải Phòng trong quá trình học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, có thể thấy thông qua các công trình tiêu biểu như sau. Hải Phòng làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Hải Phòng, 2015. Cuốn sách gồm toàn bộ những tư liệu, hình ảnh liên quan đến 9 lần Bác Hồ về thăm Hải Phòng đã được các tác giả sưu tầm và biên soạn một cách hết sức công phu. Cuốn sách có kết cấu gồm hai phần, trong đó phần 2 là tổng kết những thành tựu của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thành phố suốt quá trình thực hiện lời dạy của Người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ, phát triển thành phố và đất nước. Cùng với đó là những bài viết, bài báo của Người viết về Hải Phòng; những lá thư của Người gửi cán bộ, chiến sỹ và đồng bào Hải Phòng… Cuốn sách đã nêu bật được giá trị tư tưởng, lý luận của những lời dạy của Hồ Chí Minh, giá trị khoa học của di sản Hồ Chí Minh với Hải Phòng. Ngoài ra, còn có thể kể đến những tài liệu khác: Kế hoạch số 18KH/TU ngày 10/10/2011 của Ban Thường vụ Thành uỷ về việc “Triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2015; Báo cáo Kết quả bước đầu triển khai thực hiện Chỉ thị 03CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ 5 Chí Minh; Phương hướng triển khai năm 2012, số 01-BC/BPGV, ngày 17/01/2012; Báo cáo Kết quả bước đầu triển khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, số 03-BC/BPGV, ngày 29/6/2012. Báo cáo tổ chức và hoạt động của Bộ phận giúp việc BTVTU thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị, số 07BC/BPGV, ngày 07/02/2014; Báo cáo Kết quả 6 tháng đầu năm 2015 thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh số 12-BC/BPGV, ngày 9/7/2015; Báo cáo Bổ sung kết quả thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, số 13-BC/BPGV, ngày 19/10/2015; Báo cáo về việc đăng cai tổ chức Hội nghị giao lưu điển hình tiêu biểu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh giai đoạn 2011–2015, số 01-BC/BPGV, ngày 16/3/2016; Kế hoạch phối hợp tổ chức giao lưu điển hình tiêu biểu về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2015, số 01-KH/BPGV, ngày 17/3/2016… Các tài liệu đó đã phản ánh chủ đề học tập và vận dụng tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Tuy nhiên, trong số các công trình, các báo cáo nêu trên chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt và hệ thống về vấn đề “Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng”. Song đây là những tài liệu quý giá để trong quá trình làm luận văn chúng tôi có thể tiếp thu, kế thừa thành quả nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đề tài đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả việc học tập và vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ở Thành phố Hải Phòng hiện nay. 6 Nhiệm vụ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Phân tích thực trạng việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trên địa bàn Thành phố Hải Phòng hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng Nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Nghiên cứu việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng. Phạm vi nghiên cứu Việc nghiên cứu vấn đề học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng được xem xét trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận Phương pháp luận của luận văn: luận văn sử dụng các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đạo đức, về học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng ở nước ta hiện nay. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác, như lôgíclịch sử, phân tích- tổng hợp, diễn dịch, quy nạp,… 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và việc học tập và vận dụng tư tưởng đó từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn, từ những kết quả nghiên cứu, luận văn cung cấp thêm nguồn tư liệu cho các cuộc việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng nói riêng; cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn gồm 2 chương, 6 tiết. 8 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG 1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng 1.1.1. Truyền thống đạo đức dân tộc Việt Nam là một nước nông nghiệp, các điều kiện tự nhiên khắc nghiệt thiên tai, hạn hán, mất mùa - khiến cho người Việt Nam phải đoàn kết, hợp sức để lao động và sinh tồn. Điều đó đã tạo nên truyền thống gắn kết, sự quan tâm giữa mọi người với nhau. Bên cạnh đó, do có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí địa lý – chính trị quan trọng nên Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều quốc gia. Chính những điều kiện tự nhiên và những điều kiện xã hội như vậy nên trong các mối quan hệ xã hội, người Việt đề cao các giá trị thương người, yêu nước, lao động cần cù, tiết kiệm… Hay nói cách khác, trong các thang bậc giá trị, người Việt Nam thường đề cao các giá trị đạo đức. Những giá trị đạo đức truyền thống này đã tạo nên lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Đó là những nhân tố quan trọng định hướng tư tưởng, tình cảm, hành động của con người Việt Nam trong suốt quá trình phát triển của mình. Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu những giá trị đạo đức hết sức quý báu đó của dân tộc, biến chúng thành những phẩm chất, những giá trị, những chuẩn mực trong các hoạt động sống của mình. Người đã sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã có ở xã hội cũ để đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức mới của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người dân Việt Nam đều cảm thấy gần gũi. 9 1.1.2. Tinh hoa văn hóa đạo đức nhân loại Tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh không chỉ bắt nguồn từ đạo đức truyền thống của dân tộc, mà còn là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại. Cùng với đạo đức truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh còn tiếp thu một cách chủ động, tinh hoa văn hóa đạo đức nhân loại ở phương Đông cũng như phương Tây. Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo và tư tưởng tiến bộ khác của văn hoá phương Đông. Đó chính là tinh thần “tu thân” của Nho giáo, về chữ nhân - yêu thương con người; về điều mình không muốn thì cũng không làm cho người khác; về tinh thần kính trên, nhường dưới; về sự lễ giáo, hiếu học. Người cũng đã tiếp thu tư tưởng vị tha, nhân ái, độ lượng, khoan dung; tiếp thu nếp sống đạo đức, trong sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động của Phật giáo. Người cũng đã tiếp thu những giá trị tốt đẹp của Thiên Chúa giáo, như lòng nhân ái, sự hy sinh vì người khác,… Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa phương Tây. Đó là tư tưởng tự do, bình đẳng, dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của các nhà tư tưởng, các nhà hoạt động chính trị phương Tây và châu Mỹ. Với nhãn quan sâu rộng, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Người nói: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng bác ái cao cả. Chủ nghĩa Mác – Lênin có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là lòng yêu nước, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu 10 hạnh phúc cho nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ ở một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống chung rất tốt đẹp như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”[35, tr.152]. 1.1.3. Đạo đức học Mác – Lênin Tư tưởng Hồ Chí minh về đạo đức cách mạng còn được hình thành từ những quan điểm, nguyên tắc đạo đức Mác – Lênin. Đó là sự phù hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung; là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản và không ngừng vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó. Đó là thực hành chủ nghĩa tập thể, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân; là lao động trung thực và tận tâm vì sự tiến bộ xã hội; lấy việc giải phóng triệt để giai cấp, dân tộc, con người làm mục đích tối cao; coi hạnh phúc không phải chỉ là thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, mà chính là phục vụ cho tất cả mọi người theo tinh thần mình vì mọi người, mọi người vì mình. Như vậy, Hồ Chí Minh xuất phát từ việc tìm hiểu sâu sắc các tư tưởng, học thuyết đạo đức của dân tộc và nhân loại, đã phát hiện, tiếp nhận những gì tích cực nhất cho sự hoàn thiện tư tưởng đạo đức cách mạng của mình. Người vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta để xây dựng nền đạo đức mới – đạo đức cách mạng. 1.1.4. Thực tiễn đất nước và thế giới cùng nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh Bên cạnh những tiền đề lý luận, thực tiễn đất nước và thế giới những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cũng là một nhân tố tác động đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Mnh về đạo đức cách mạng. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Năm 1884 triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước thừa nhận sự thống trị của Pháp tại Việt Nam. Thực dân Pháp thống trị Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, như chính trị, kinh tế và văn hóa. Kết quả của sự 11 thống trị đó là: đời sống nhân dân vô cùng lầm than, đói kém luôn thường trực, nền kinh tế kém phát triển, phụ thuộc hoàn toàn vào Pháp; nhiều người bị mù chữ, ốm đau thiếu thuốc chữa bệnh. Trước tình hình đó, nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp, giải phóng dân tộc nổ ra. Tuy đã rất cố gắng, rút kinh nghiệm và có sự học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, nhưng kết quả của các phong trào này đều gặp thất bại. Nguyên nhân của sự thất bại có nhiều và đa dạng như chính các phong trào đấu tranh đó, nhưng về cơ bản, tựu trung ở vấn đề sau: phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến đã trở nên lỗi thời, lạc hậu ; giai cấp tư sản mới thành lập còn non yếu chưa đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho thấy sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Yêu cầu khách quan phải có đường lối cứu nước đúng đắn và một giai cấp mới lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cùng lúc đó, trên thế giới, các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, sự lan rộng của chủ nghĩa Mác – Lênin đến nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước thuộc địa, cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thành công... đã ảnh hưởng đến sự hình thành đường lối cứu nước nói chung, sự hình thành tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh nói riêng. Cùng với các nhân tố trên, một nhân tố quan trọng khác góp phần quyết định vào việc hình thành tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh là phẩm chất, năng lực, đạo đức của Người. Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An – một mảnh đất quê hương giàu truyền thống cách mạng và nhiều tên tuổi nổi tiếng với ý chí bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Vì thế, Người được học tập, tiếp xúc với nền văn hóa dân tộc một cách bài bản, có hệ thống; qua đó tư tưởng yêu nước, thương dân đã được vun đắp và ngày càng bùng cháy mạnh mẽ. Đây là nguồn gốc đầu tiên của quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng đạo đức. 12 Trước cảnh đất nước bị xâm lược, người dân trong nước bị bóc lột thậm tệ và các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc chưa đạt hiệu quả như mong muốn, ngày 5 tháng 6 năm 1911 Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Đây là cơ sở thực tiễn để Người tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có những nguyên tắc đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, dù gặp những khó khăn gian khổ, nhưng Hồ Chí Minh luôn có sự khổ công học tập, rèn luyện tiếp thu vốn tri thức phong phú của nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin với tư cách là học thuyết về cách mạng của giai cấp vô sản. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn của các phong trào cộng sản quốc tế thời đó, trên những nguyên tắc đạo đức của chủ nghĩa Mác – Lênin, kết hợp với tinh hoa văn hóa đạo đức nhân loại và truyền thống dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã hình thành trong mình tư tưởng đạo đức - đạo đức cách mạng Việt Nam. Đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh cũng được hình thành từ thực tiễn đấu tranh, hoạt động cách mạng của Người ở Việt Nam. Hồ Chí Minh có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại, là Người có bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân, khiêm tốn bình dị; nhạy bén với cái mới, có đầu óc thực tiễn. Người luôn khổ công học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu thương nhân dân, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ Quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Người hội tụ đầy đủ và hoàn thiện nhất tinh hoa văn hóa của toàn nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng để nhân dân đời đời học tập và noi theo. Tóm lại, nguồn gốc tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là kết quả hội tụ của truyền thống đạo đức dân tộc, tinh hoa văn hóa đạo đức nhân loại, cùng với đó là thực tiễn đời sống đất nước lúc bấy giờ và sự tu dưỡng, 13 rèn luyện bền bỉ của Người. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới – đạo đức cách mạng, xây dựng một hệ thống tư tưởng đạo đức phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam. 1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng – một số khía cạnh cơ bản 1.2.1. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Trước khi xem xét khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng”, chúng ta tìm hiểu khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951) đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phong cách... của Hồ Chí Minh. Tại Đại hội XI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định điều này và làm rõ quan niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”[39]. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là một nội dung trong toàn bộ hệ tư tưởng của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về “Đạo đức cách mạng” “đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”[27, tr.252]. Theo Hồ Chí Minh: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức 14 làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”[30, tr.285]. Theo đó, “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”[30, tr.289]. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng, một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân”[31, tr.306]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không những khác mà còn đối lập với đạo đức của các giai cấp bóc lột thống trị xã hội. Đạo đức cách mạng là sự phản ánh thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, sự thống nhất hữu cơ giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức, tạo nên nền tảng nhân cách của người cách mạng, là động lực cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới nhằm thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam là giành độc lập dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. 1.2.2. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng 1.2.2.1. Vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của Người. 15 Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của con người, của cách mạng. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”[27, tr.252-253]. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc. Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém. Đạo đức và tài năng góp phần quan trọng trong đời sống của mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa tài và đức, Hồ Chí Minh cho rằng, có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Người viết: “Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người”[30, tr.172]. Đạo đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang…”[30, tr.283-284]. Do đó, Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cho con người, trước hết là cho cán bộ, đảng viên. Người nhấn mạnh, Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo 16 đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Có đạo đức mới có sức mạnh hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo, mới nâng cao uy tín với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, hiệu quả công việc là thước đo của đạo đức cách mạng. Nói đi đôi với làm, nói ít, làm nhiều, làm hiệu quả, thống nhất giữa nói và làm là người có đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng hành động, nói đi đôi với làm, lí luận nhuần nhuyễn với thực tiễn, gắn tư tưởng đạo đức với hành vi và hiện thực cuộc sống, Người đã diễn đạt những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin thành những phương châm chỉ đạo hành động, những chuẩn mực đạo đức để rèn luyện đạo đức cán bộ, đảng viên qua các giai đoạn cách mạng. Thấy rõ vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng, suốt đời Hồ Chí Minh kiên trì giáo dục cán bộ, đảng viên phải giữ gìn đạo đức cách mạng. Người cho rằng, trong đầu óc mọi người đều có sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác hoặc nói theo cách mới là sự đấu tranh giữa tư tưởng cộng sản và tư tưởng cá nhân. Người nói: người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu. Trong xã hội cũng có thiện và ác. Từ quan niệm về thiện và ác, chính và tà, Hồ Chí Minh đề ra yêu cầu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức làm cho phần chính, phần thiện trong mỗi người tăng thêm, để phần tà, phần ác của mỗi người bớt dần đi. 1.2.2.2. Các chuẩn mực của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh a. Trung với nước, hiếu với dân Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất. Trong thời phong kiến, “trung”, “hiếu” được hiểu là “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng quan điểm đó và đưa vào nội dung mới, tức là kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và phát triển để hợp với tình hình mới. Hồ Chí Minh đã đưa quan niệm “trung” 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan