Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh bắc nin...

Tài liệu Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh bắc ninh hiện nay

.PDF
85
36
82

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TP.HCM LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG ĐỀ TÀI: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay. GVHD : PGS.TS.Ngô Hữu Thảo HVTH : Hà Thị Xuyên DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHG Ban Hành giáo CNH-HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá CNLĐ Công nhân lao động CNXH Chủ nghĩa xã hội CSVN Cộng sản Việt Nam GHPG Giáo hội Phật giáo HĐND Hội đồng nhân dân HTCT Hệ thống Chính trị MTTQ Mặt trận Tổ quốc QLNN Quản lý nhà nước TCN Trước Công nguyên UBĐK Uỷ ban Đoàn kết UBND Uỷ ban nhân dân UBTV Uỷ ban Thường vụ UBTVQH Uỷ ban Thường vụ Quốc hội XHCN Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1 6 NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH 1.1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QLNN ĐỐI VỚI TÔN 6 GIÁO 1.1.1 Nhận thức chung về tôn giáo 6 1.1.2 Quản lý nhà nước đối với tôn giáo 11 1.2 19 TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở BẮC NINH 1.2.1 Một số đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh liên quan đến tôn giáo 19 1.2.2 Tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 21 Chương 2 29 CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO Ở BẮC NINH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 2.1 SỰ CHỈ ĐẠO CỦA TỈNH UỶ, UBND TỈNH VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY 29 LÀM CÔNG TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH 2.1.1 Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo công tác Tôn giáo 29 2.1.2 Tổ chức bộ máy làm công tác QLNN về tôn giáo ở Bắc Ninh 33 2.2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI 35 TÔN GIÁO Ở BẮC NINH 2.2.1 Quản lý về hoạt động xây dựng, trùng tu, sửa chữa cơ sở thờ tự 35 2.2.2 Quản lý đối với việc phong chức, phong phẩm và hoạt động 37 thuyên chuyển của các chức sắc 2.2.3 Quản lý việc đào tạo, bồi dưỡng chức sắc 38 2.2.4 Công tác quản lý đối với các hoạt động từ thiện, nhân đạo 39 2.2.5 Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 41 2.2.6 Quản lý hoạt động truyền đạo trái pháp luật 42 2.2.7 Quản lý các hoạt động khác 43 2.2.8 Công tác phối hợp 43 2.3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC QLNN ĐỐI VỚI TÔN 47 GIÁO Ở BẮC NINH 2.3.1 Vấn đề đặt ra từ phương diện khách thể quản lý 47 2.3.2 Vấn đề đặt ra từ phương diện chủ thể quản lý 50 Chương 3 53 DỰ BÁO TÌNH HÌNH, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QLNN ĐỐI VỚI TÔN GIÁO Ở BẮC NINH 3.1 DỰ BÁO TÌNH HÌNH TÔN GIÁO VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG 53 TÁC QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH THỜI GIAN TỚI 3.1.1 Dự báo tình hình các tôn giáo ở Bắc Ninh 53 3.1.2 Một số yêu cầu từ xu hướng tôn giáo ở Bắc Ninh đối với QLNN 55 về tôn giáo ở Bắc Ninh 3.2 GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC 57 QLNN VỀ TÔN GIÁO Ở BẮC NINH 3.2.1 Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm 57 của HTCT về công tác tôn giáo và QLNN đối với tôn giáo 3.2.2 Công tác quản lý nhà nước cần tăng cương, tập trung hơn nữa tới 58 các hoạt động có tính trọng điểm, phức tạp của tôn giáo trên địa bàn 3.2.3 Công tác QLNN cần quan tâm hơn đến công tác vận động quần 61 chúng, tín đồ, chức sắc các tôn giáo và xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở 3.2.4 Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, công chức làm công tác 65 QLNN về tôn giáo 3.2.5 Xây dựng và hoàn thiện phương pháp công tác tôn giáo và QLNN 68 về tôn giáo 3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 69 3.3.1 Đối với Trung ương 69 3.3.2 Đối với tỉnh Bắc Ninh 71 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội, ra đời và phát triển từ cả ngàn năm nay. Từ khi ra đời, tôn giáo đã trải qua những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội, nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân loại. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các tộc người trong một quốc gia, theo cả các chiều: tích cực và tiêu cực. Những năm gần đây, tôn giáo trên thế giới không chỉ phục hồi và phát triển, đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người, mà còn làm nảy sinh không ít cuộc xung đột giữa các dân tộc trong một quốc gia, hay giữa các quốc gia với nhau. Ở Việt Nam cũng vậy, là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo đang có xu hướng phát triển mạnh, đến nay - năm 2011, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 13 tôn giáo, với 33 tổ chức Giáo hội. Trong đó, các tôn giáo bản địa (nội sinh) và các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài vào (ngoại sinh) đều được tạo điều kiện bình đẳng hoạt động theo pháp luật. Tình hình đó như là sự phản ánh về quá trình đất nước đổi mới, Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vì thế tôn giáo càng được khẳng định rõ hơn, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Nhưng, bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành mạnh, tuân thủ pháp luật, thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, cao hơn, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Trước tình hình đó, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo càng cần phải được tăng cường, không chỉ trên bình diện vĩ mô mà còn ở các khu vực, các địa phương trong cả nước. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò của công tác 2 này và việc: “Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo” là một trong những giải pháp chủ yếu của công tác tôn giáo hiện nay. Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Bắc Ninh mặc dù có diện tích không lớn, nhưng dân số lại đông và có vị trí địa lý chính trị quan trọng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng Châu thổ Sông Hồng, có nguồn nhân lực dồi dào và là tỉnh vốn có truyền thống ngàn năm văn hiến và cách mạng. Số lượng và quy mô tôn giáo ở Bắc Ninh cũng không lớn, song lại là vị trí “địa tôn giáo” rất quan trọng. Đó là, về đạo Công giáo, Bắc Ninh có Toà Giám mục, là trung tâm, đầu não của Giáo phận Bắc Ninh, gồm 12 tỉnh khác nhau. Còn Phật giáo, Bắc Ninh từng có trung tâm Luy Lâu mà gần hai nghìn năm trước đã được xem là một trung tâm Phật giáo lớn, bằng hoặc hơn cả trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành của Trung Quốc, còn đến nay, tên chùa Dâu, Keo, Phật Tích vẫn nức tiếng toàn cõi Việt Nam. Hiện nay bên cạnh 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo, trên địa bàn Bắc Ninh đã xuất hiện cả đạo Tin Lành, một tôn giáo được xem là tôn giáo của thời CNH, HĐH. Trong những năm qua tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ổn định, sinh hoạt tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra bình thường đúng với chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong tỉnh an tâm, phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, về những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động từ thiện, nhân đạo, xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân “sống tốt đời, đẹp đạo”, tích cực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên, tình hình tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng nổi lên một số vấn đề có tính phức tạp. Đó là, hoạt động mê tín, dị đoan diễn ra khá phổ biến; một số cơ sở thờ tự của tôn giáo chưa tuân thủ các quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Di sản và của các quy định của tỉnh. Khi xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức tôn giáo vẫn thiếu hồ sơ xin phép; triển khai khi chưa được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền. Tình hình khiếu 3 kiện đòi lại đất đai, cơ sở cũ của giáo hội còn tiềm ẩn dấu hiệu phức tạp; hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép và các đạo lạ trên địa bàn tỉnh vẫn xảy ra. Công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh những năm qua đã có nhiều tiến bộ, đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh đó, công tác này cũng còn một số hạn chế, như: Một bộ phận cán bộ đảng viên nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo còn hời hợt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu tập trung và đồng bộ; việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn kéo dài, gây tâm trạng phản cảm cho quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo. Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo của chính quyền nhiều lúc, nhiều nơi còn cứng nhắc. Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn để tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay”, để làm luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu. Đó là: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển; "Một số vấn đề cấp bách trong quản lý tôn giáo ở một số tỉnh phía Bắc" của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Mác-Angghen về tôn giáo” của PGS. Nguyễn Đức Sự chủ biên); “Một số vấn đề lý luận và thực trạng tôn giáo Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm Vạn; Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, PGS, TS Ngô Hữu Thảo, chủ nhiệm (1998); Cuốn sách “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn" của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Một số tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn Thanh Xuân; “Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam” của TS.Nguyễn Đức Lữ; Đề tài cấp Bộ “55 năm đường lối chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam (1945-2000)” của Ban Tôn giáo Chính phủ; Đề tài cấp Bộ “Công tác an ninh trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam” của Bộ Công an... 4 Những công trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh, cả lý luận và thực tiễn của vấn đề quản lý tôn giáo, song cụ thể ở địa bàn Bắc Ninh thì chưa có. Ở tỉnh Bắc Ninh, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo hãy còn rất ít đề tài đi sâu nghiên cứu, nếu có thì thời điểm nghiên cứu đã khá lâu, trước khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, như luận văn cao cấp lý luận chính trị của Nguyễn Quang Khải, năm 2004. Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục tiêu nghiên cứu: Luận văn từ việc khái quát những nhận thức chung về tôn giáo, về quản lý nhà nước đối với tôn giáo và phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với tôn giáo. - Đánh giá được thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Bắc Ninh trong thời gian qua. - Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo ở Bắc Ninh trong tình hình mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là địa bàn tỉnh Bắc Ninh; về thời gian là từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2004), đến nay. 5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn: Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và quản lý nhà 5 nước đối với hoạt động tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Triển khai luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp của các khoa học cụ thể, như tổng hợp và phân tích, khái quát hoá, thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, tôn giáo học. 6. Đóng góp mới của luận văn 6.1. Về mặt lý luận: Bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với tôn giáo; khái quát mang tính lý luận từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Bắc Ninh. 6.2. Về mặt thực tiễn: - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây đựng chủ trương, biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Bắc Ninh và các tỉnh vùng đồng bằng miền Bắc có tình hình tôn giáo tương tự với Bắc Ninh. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại trường Chính trị tỉnh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. 6 Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO 1.1.1. Nhận thức chung về tôn giáo Tôn giáo, theo tiếng Latinh (Religare) có nghĩa là sự nối liền với cái tột cùng, như sự gắn bó với Chúa, với Thượng đế; hoặc được hiểu là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với thần thánh; giữa thế giới vô hình với thế giới hữu hình; giữa cái thiêng liêng với cái trần tục. Theo quan điểm mác-xít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, có kết cấu gồm: Tâm lý, tình cảm, niềm tin và hệ tư tưởng tôn giáo. Còn với tính cách là một thực thể, hay một hiện tượng xã hội, tôn giáo thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, được quy định bởi hạ tầng cơ sở xã hội. Cụ thể hơn, tôn giáo ra đời từ 3 nguồn gốc: Kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lý. Là một hiện tượng xã hội, kết cấu của tôn giáo bao gồm cả yếu tố vật chất và tinh thần, mà thông thường là các yếu tố: ý thức (giáo lý), nghi lễ, luật lệ và tổ chức. Cũng cần phân biệt tôn giáo với tín ngưỡng và mê tín dị đoan. Tôn giáo và tín ngưỡng có sự khác nhau, song có quan hệ chặt chẽ, mà ranh giới để phân biệt chỉ là rất tương đối. Tín ngưỡng có các nghĩa rộng, hẹp khác nhau, nghĩa rộng, đó là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng, một điều gì đó, thông thường để chỉ một niềm tin tôn giáo; nghĩa hẹp là các hình thức khác với tôn giáo, như người Việt Nam thường gọi “tín ngưỡng dân gian”. Còn mê tín dị đoan, đó là tình trạng người ta quá tin vào cái siêu nhiên, đến mất lý trí, mê muội, tốn tiền của và huỷ hoại sức khoẻ, thậm chí cả sinh mạng, vậy nên “Hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại bỏ”. [13] 7 Quan điểm mác - xít về tôn giáo không dừng lại ở vấn đề bản chất, nguồn gốc, chức năng và tính chất của nó, mà còn rất quan tâm đến việc chỉ ra thái độ, nguyên tắc của người cộng sản khi tiếp cận, giải quyết những vấn đề tôn giáo. Về thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo, mặc dù cho rằng, thế giới thống nhất ở tính vật chất, ngoài ra không có thế giới nào khác ngoài vật chất đang tồn tại và đương nhiên không có thần thánh, ma quỷ nào tồn tại ngoài những đam mê và dục vọng của chính con người, thế nhưng Chủ nghĩa Mác - Lênin không bao giờ chủ trương tuyên chiến với tôn giáo, mà ngược lại luôn tôn trọng niềm tin tôn giáo của nhân dân. C.Mác từng nói, kẻ nghịch đạo không phải là kẻ phỉ báng thần thánh của quần chúng mà chỉ là người đồng tình với quan điểm quần chúng, người sáng tạo ra thần thánh. Có một số người cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin mâu thuẫn tuyệt đối với đức tin tôn giáo, do đó không có thể dung hợp giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo và lập luận này là không đúng, vì đã chủ quan đẩy mâu thuẫn, từ mâu thuẫn ở phương diện nhận thức - không đối kháng, trở thành mâu thuẫn đối kháng. Lý tưởng của những người cộng sản là xây dựng “Thiên đường” nơi trần thế bằng bàn tay và khối óc của chính con người. Tuy vậy, người cộng sản không hề có chủ trương phủ nhận tôn giáo mà thừa nhận nó như một nhu cầu tất yếu của một bộ phận nhân dân trong tiến trình phát triển của lịch sử. Hơn nữa, tôn giáo và chủ nghĩa xã hội có điểm tương đồng là đều mong muốn có một xã hội hạnh phúc, công bằng, bác ái, lấy điều thiện thắng điều ác. “Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thật sự cách mạng đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường” [80, tr.174 ]. Rồi nữa, “Trong cương lĩnh của chúng ta, chúng ta không tuyên bố và chúng ta không nên tuyên bố chủ nghĩa vô thần của chúng ta... Khắp nơi bọn tư sản phản động đã chú trọng... khêu lên những sự thù hằn tôn giáo, để làm cho quần chúng chú ý về phía đó, khiến họ không để ý đến những vấn đề chính trị và kinh tế thật sự quan trọng và chủ yếu, những vấn đề mà giai cấp vô sản toàn nước Nga, thực tế đoàn kết lại 8 với nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng của mình, hiện đang giải quyết” [80, tr.174175 ]. C.Mác và Ph.Ăng ghen từng căn dặn người cộng sản: “Không thể đả kích tôn giáo dưới hình thức thù địch cũng như dưới hình thức khinh bạc, chung cũng như riêng. Nghĩa là, nói chung không được đả kích vào nó”. [20, tr. 23] Sau này, Lênin cũng viết: “Còn như tuyên chiến với tôn giáo, coi đó là nhiệm vụ chính trị của đảng công nhân, thì đó chỉ là một luận điệu vô chính phủ chủ nghĩa”. [81, tr.511.] Vậy, theo chỉ dẫn của các nhà kinh điển mác - xít, Nhà nước của giai cấp vô sản nên xem tôn giáo là việc tư nhân, nghĩa là không nên phê phán những vấn đề thuộc thế giới bên kia. Chuyện có thiên đường địa ngục, thần này thánh khác là vấn đề của thần học, của tôn giáo. Nhưng với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, trong đó có tôn giáo, thì Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn trên 2 vấn đề liên quan đến tôn giáo, đó là Pháp luật và chính trị. Theo chỉ dẫn đó, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nhà nước ta chưa bao giờ có chủ trương tiêu diệt tôn giáo, phủ nhận thượng đế của người có đạo, mà luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, nghiêm cấm phân biệt sự đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Vậy khi giải quyết vấn đề tôn giáo, chúng ta cần phải đứng vững trên những nguyên tắc nào? Về điều này, theo quan điểm mác - xít, được khái quát trên 4 nguyên tắc sau: Một: Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử khi nhận thức và tác động vào tôn giáo. Theo đó, trước hết phải “Xoá bỏ tình trạng nô lệ về mặt kinh tế, nguồn gốc thật sự của sự mê hoặc nhân loại bằng tôn giáo” [80, tr. 175]. Hay nói cách khác, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy; phải xác lập được một xã hội hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học... cùng các tệ nạn nảy sinh trong nó. Tất nhiên việc cải 9 tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải khai thác và phát huy tiềm năng của mọi cộng đồng xã hội, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Hai: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Các nhà kinh điển Mác - xít quan tâm không chỉ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, mà còn cả quyền tự do không tín ngưỡng. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng sẽ bảo đảm quan hệ tốt đẹp giữa những người vô thần và hữu thần, giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Nội dung căn bản của quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là: - Mọi công dân có quyền theo đạo, truyền đạo hoặc bỏ đạo; được hoàn toàn tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không theo một tôn giáo nào. - Tất cả mọi công dân có tín ngưỡng và không tín ngưỡng đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. - Tất cả mọi tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân đều bình đẳng như nhau. Nhà nước không coi tôn giáo nào là quốc đạo. Tuy nhiên cần chú ý rằng: Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đồng thời phải chống lại những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích phi tôn giáo, mặt khác, không dung túng cho những kẻ hành nghề mê tín dị đoan. Ba: Có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nguyên tắc này có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Nó đòi hỏi chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải phù hợp với không gian, thời gian cụ thể, như Lênin đã nhắc nhở: “Người mác - xít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể” [81, tr. 518] Bốn: Cần phân biệt hai mặt: nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và việc chính trị lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo. Việc phân biệt vấn đề chính trị và tư tưởng trong các hoạt động tôn giáo trên thực tế là vấn đề không đơn giản, nhưng lại đòi hỏi phải phân biệt rõ, từ đó mới có giải pháp chính xác. Trong đó, mặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo phải được giải quyết bằng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo; còn mặt chính trị lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo phải được giải quyết bằng giải pháp chính trị. Việc áp dụng lẫn lộn các loại 10 giải pháp, cũng như tuyệt đối hoá một loại giải pháp nào đó đều là tai hại cho cả tôn giáo và cho chính trị cầm quyền. Kế thừa và vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng đặc sắc về vấn đề này. Trước hết cần thấy, tư tưởng của Người về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Với Người, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [46, tr.268]. Nhưng, xuất phát từ đặc điểm lịch sử, văn hoá của dân tộc Á - Đông, Hồ Chí Minh cho rằng: “C.Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm (ban thuộc địa của chúng tôi vừa nhận được thư mời chúng tôi tham gia công tác này)” [45, tr.465]. Cũng trên quan điểm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến việc phải xây dựng một xã hội tiến bộ thì mới có thể giải quyết được vấn đề tôn giáo một cách tốt đẹp. Từ chỗ nhấn mạnh: Tôn giáo không hề đối lập với CNXH, Người đã chăm lo chu đáo đến đồng bào có tôn giáo theo tinh thần “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. Trong ứng xử với tín đồ, chức sắc tôn giáo, Người thể hiện nổi bật tư tưởng hoà hợp, khoan dung, đó là sự cảm thông, chấp nhận và tôn trọng cái dị biệt, miễn là không trái với lợi ích chung của dân tộc, từ đó mà đạt được mục tiêu tương đồng. Chính vì thế, đồng bào Phật tử thấy Hồ Chí Minh như "Hiện thân" của vị “Bồ tát Quán Thế Âm” vì "nhân duyên" dân tộc Việt Nam đau thương "trầm luân" trong nỗi nhục mất nước ở cõi "Sha- bà" mà xuống cứu khổ cứu nạn. Ngày nay, trong Phật giáo và trong xã hội Việt Nam, tên Hồ Chí Minh được gán với quả vị Phật giáo, là Bồ tát Hồ Chí Minh. Còn đồng bào đạo Công giáo và đạo Tin lành luôn khâm phục và cảm động về việc, Người đã nguyện hy sinh cho Việt Nam độc lập, cho thế giới hoà bình, nên thấy Người như bóng dáng của "Đức Chúa Ki-Tô” hy sinh thân mình để cứu chuộc nhân loại. 11 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo với tính cách là những quan điểm, nguyên tắc, tác giả khái quát như sau: Thứ nhất, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc, tôn giáo với cách mạng và tôn giáo với giai cấp, đó phải là nội dung cốt lõi trong chủ trương, chính sách tôn giáo của cách mạng Việt Nam. Thứ hai, luôn phải có tinh thần vận dụng, phát triển nguyên lý chủ nghĩa Mác Lênin và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác về vấn đề tôn giáo, xem đó là cơ sở quyết định cho việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách tôn giáo phù hợp với từng giai đoạn cách mạng Việt Nam. Thứ ba, tôn trọng tự do tín ngưỡng phải đi đôi với đấu tranh chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo; phải khắc phục những mặc cảm tôn giáo, những hành vi làm tổn thương đến tình cảm quần chúng tín đồ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo đã bổ sung cho Chủ nghĩa Mác - Lênin và nó có sức sống từ thực tiễn của đất nước, dân tộc ta, để người cộng sản Việt Nam có thái độ mềm mại hơn, khách quan hơn đối với tôn giáo. 1.1.2. Quản lý nhà nước đối với tôn giáo 1.1.2.1. Khái niệm "Quản lý nhà nước" và “Quản lý nhà nước đối với tôn giáo” Khái niệm “quản lý nhà nước” được hiểu ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực Nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp). Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước của Học viện Hành chính quốc gia đã nêu: QLNN là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước; là dạng quản lý xã hội 12 mang tính quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người [38]. Vậy, chủ thể QLNN là các cá nhân hay tổ chức mang quyền lực Nhà nước tác động tới đối tượng quản lý. Còn đối tượng QLNN là toàn bộ công dân Việt Nam và những người không phải là công dân Việt Nam đang sống, làm việc trên lãnh thổ Việt Nam cùng toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ các khái niệm quản lý nhà nước như trên, khái niệm quản lý nhà nước đối với tôn giáo cũng được hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp. Nghĩa rộng: Đó là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể quản lý. Nghĩa hẹp: Đó là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo đúng qui định của pháp luật. Theo đó, QLNN đối với tôn giáo ở cả 2 nghĩa rộng, hẹp, đều tập trung, trước hết và chủ yếu là quản lý các “hoạt động tôn giáo”. Cụ thể hơn, đó là các hoạt động tôn giáo liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động đó là gì? Về việc này, tại khoản 5, điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã nêu: “Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo”[77, tr.2]. Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ của tôn giáo được các tín đồ thực hiện. Còn người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu, tin và theo tôn giáo. Vậy, hoạt động truyền đạo chính là để củng cố và phát triển tín đồ. Tất nhiên, việc truyền đạo phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội dung, phương pháp truyền đạo phải đúng với giáo lý của tôn giáo đó. 13 Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành tôn giáo thể hiện sự tuân thủ nghiêm ngặt những quy định, phép tắc, thoả mãn đức tin tôn giáo của cá nhân hay cộng đồng tín đồ. Hoạt động quản lý tôn giáo là các tổ chức, giáo hội tôn giáo thực hiện các quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo. Trong các hoạt động đó, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường hợp trong hoạt động hành đạo có hoạt động truyền đạo. Từ đó chúng ta thấy, chủ thể QLNN về tôn giáo nếu theo nghĩa rộng của khái niệm, thì đó là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp các cấp. Còn khách thể QLNN đối với tôn giáo, đó là hoạt động tôn giáo của các tổ chức tôn giáo, của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Là công dân Việt Nam, tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung của người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của người có đạo. Chúng tôi, trong luận văn này thường dùng khái niệm “QLNN đối với tôn giáo”, hoặc “QLNN về tôn giáo”, khi đó được hiểu là “QLNN đối với các hoạt động tôn giáo”. Theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, tín đồ, đó là những người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận. Chức sắc tôn giáo là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo. Còn nhà tu hành, đó là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo. [77, tr.2]. Người làm công tác QLNN đối với tôn giáo, với họ, có một đòi hỏi bắt buộc là phải nắm vững về đặc điểm của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, với tư cách là khách thể QLNN. Ở nước ta, tín đồ tôn giáo có đặc điểm là: Đa số họ là nông dân, vốn có bản chất cần cù lao động, có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù kẻ xâm lược và tầng lớp bóc lột. Song bên cạnh đó, do cả vô thức và ý thức, một số tín đồ hoạt động tôn giáo 14 chưa tuân thủ pháp luật, tai hại hơn, bị các thế lực thù địch lợi dụng, nghe theo kẻ xấu tham gia vào các vụ việc phức tạp, điểm nóng tôn giáo. Một đặc điểm khác là, trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng không đồng nhất) giữa mặt công dân và mặt tín đồ. Là công dân, họ có mọi quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước như mọi công dân khác. Là người có tín ngưỡng tôn giáo, họ có niềm tin ở Chúa, Phật..., có quyền lợi và trách nhiệm đối với giáo hội. Đây chính là đặc điểm quan trọng cần phải nắm vững. Còn chức sắc, nhà tu hành tôn giáo cũng có những đặc điểm chung của một tín đồ, song họ còn có các đặc điểm riêng. Đó là: Họ là những người được tổ chức tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, nên có năng lực quản đạo và trình độ thần học cao; được tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm. Họ đại diện ở những mức độ khác nhau cho các tổ chức tôn giáo. Họ vừa chăn dắt tín đồ, vừa quản lý nền hành chính đạo theo thẩm quyền. Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất gần gũi, nắm bắt kịp thời tâm tự, nguyện vọng của tín đồ. Như thế, họ có vị trí, vai trò và ảnh hưởng rất lớn, rất sâu sắc trong tín đồ, được tín đồ yêu quí, trân trọng và bảo vệ. Tiếp nữa, người làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cũng phải nắm vững đặc điểm của tổ chức tôn giáo. Đó là: Tổ chức tôn giáo điều hành các hoạt động tôn giáo; đại diện cho tín đồ trong quan hệ với Nhà nước và với các tổ chức khác có liên quan. Mỗi tôn giáo có bộ máy tổ chức riêng, hoạt động theo hiến chương, điều lệ của mình. Các tôn giáo có tư cách pháp nhân đều thể hiện đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Đa số các tổ chức tôn giáo có liên hệ đồng đạo với tổ chức tôn giáo nước ngoài. Ngoài ra, khách thể QLNN về tôn giáo còn có cả cơ sở vật chất phục vụ các sinh hoạt tôn giáo. Trong đó, cơ sở thờ tự không đơn giản chỉ là một thực thể vật chất, mà còn bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, hội họp, văn hóa... Còn đồ dùng việc đạo như kinh sách, tượng thờ, tranh ảnh, hoành phi, câu đối, lư hương, chuông mõ, nhạc cụ,…mỗi thứ có chức năng, công dụng riêng trong sinh hoạt tôn giáo, nhưng đều có đặc điểm là có giá trị vật chất và có ý nghĩa biểu đạt. Ngoài ra, phục vụ cho sinh hoạt tôn giáo cộng đồng còn có vườn hoa, trường học, nhà dòng, cơ sở từ thiện, nhà trẻ, bệnh xá,… 15 Nó là tài sản của giáo hội và là nơi diễn ra các hoạt động tôn giáo, được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao cho tổ chức tôn giáo quản lý. Như vậy, việc nắm chắc những đặc điểm của khách thể quản lý là một yêu cầu tiên quyết đối với chủ thể quản lý, giúp cho công tác QLNN về tôn giáo có hiệu lực mạnh và hiệu quả cao. Một vấn đề khác cũng cần nhận thức rõ, đó là vấn đề pháp nhân và thể nhân tôn giáo. Pháp nhân tôn giáo, đó là bộ máy tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận. Còn thể nhân tôn giáo, đó là cá nhân tôn giáo (tín đồ) được tổ chức tôn giáo công nhận. 1.1.2.2. Tính tất yếu tăng cường QLNN đối với tôn giáo Vì sao phải tăng cường công tác QLNN đối với tôn giáo, việc này được xuất phát từ các lý do khách quan và cơ bản. Thứ nhất, hoạt động tôn giáo có liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó, với chức năng quản lý xã hội của mình, để đảm bảo cho xã hội ổn định, phát triển bình thường, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo. Thứ hai, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đời sống tôn giáo, vậy để đường lối, chính sách, pháp luật được hiện thực hoá, để đồng bào có và không có tôn giáo đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo. Thứ ba, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo hống phá cách mạng, vậy để đập tan âm mưu đó và để đồng bào lương - giáo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo. Thứ tư, Việt Nam mở cửa, hội nhập để phát triển, theo đó, các thế lực thù địch cũng thông qua con đường hợp tác, liên doanh, du lịch... thâm nhập vào những vùng nhạy cảm về tôn giáo, mua chuộc một số chức sắc, tín đồ tôn giáo, vậy để hội nhập quốc tế có nhiều thành công, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan