Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết , ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa phát triển
ngày càng mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và dần dần trở thành một xu thế
khách quan cuốn hút tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia. Động lực chính của
của xu hướng toàn cầu hóa là sự phát triển của lực lượng sản xuất mà lực lượng sản
xuất thì không ngừng lớn mạnh, đây là quy luật chung của mọi quốc gia, mọi thời
đại và mọi chế độ xã hội. Sự lớn mạnh đó không chỉ theo cấp số cộng mà còn theo
cấp số nhân.Các cấp số này lớn mạnh đến mức nào không chỉ phụ thuộc vào khoa
học công nghệ mà còn phụ thuộc vào các cách tổ chức quản lý sản xuất và càng về
sau càng mở rộng.
Trong xã hội phong kiến trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém,
của cải vật chất sản xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất của con người.
Bên cạnh đó quá trình tái sản xuất lại chỉ vận động trong lãnh thổ của một vùng
hoặc một quốc gia theo kiểu “ nội bất xuất ngoại bất nhập”.
Cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ nhất diễn ra làm cho lực lượng sản xuất
phát triển thêm một bước cao hơn, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất phong kiến ngày càng trở lên gay gắt, quan hệ sản xuất ấy đã không còn có
thể dung nạp nổi lực lượng sản xuất nữa. Để ra giải quyết mâu thuẫn cuộc cách
mạng tư sản đã nổ ra quật đổ chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa đã ra
đời. Đó là một bước tiến lớn trong sự phát triển mới của xã hội loài người.Nhờ vậy
mà lực lượng sản xuất được giải phóng, của cải vật chất được sản xuất nhiều hơn và
thị trường dân tộc được hình thành thay cho thị trường vùng trước kia.Nhưng của
cải vật chất được sản xuất ngày càng nhiều dư thừa để đáp ứng nhu cầu trong nước
và yêu cầu đặt ra là phải mở rộng thị trường ra các nước khác.Các cuộc chiến tranh
xâm lược thuộc địa, cuộc đại chiến thế giới thứ nhất và thứ hai do các nước tư bản
phát động chủ yếu là vì mục đích này.
Càng phát triển, chủ nghĩa tư bản ngày càng thể hiện rõ bản chất bóc lột xấu xa
của nó. Mâu thuẫn giữa chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và tính xã hội hóa ngày
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
càng cao của lực lượng sản xuất ngày càng trở lên gay gắt và yêu cầu giải quyết
mâu thuẫn để giải phóng lực lượng sản xuất trở thành một yêu cầu vô cùng cấp thiết
cần phải thực hiện ngay. Đến thế kỷ XX cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đẩu tiên
nổ ra ở Nga lật đổ chế độ Nga hoàng, cùng với đó là sự ra đời của hàng loạt các
nước xã hội chủ nghĩa đã một phần giải quyết được mâu thuẫn trên, lực lượng sản
xuất được giải phóng và phát triển mạnh mẽ hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu, quá trình
tái sản xuất xã hội ngày càng được nâng cao
Trong giai đoạn hiện nay, khi xu hướng chính của thế giới là các quốc gia
chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại thì quá trình toàn cầu hóa càng có môi trường
phát triển. Không một quốc gia nào có thể phát triển khi không tham gia quá trình
toàn cầu hóa trong đó có Việt Nam của chúng ta.
Đảng và nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa mà muốn phát triển kinh tế thì phát triển lực
lượng sản xuất đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bất cứ một quốc gia nào muốn phát
triển kinh tế cũng phải tập trung phát triển và nâng cao trình độ của lực lượng sản
xuất. Với vai trò và vị trí quan trọng như vậy nên em đã chọn đề tài nghiên cứu “
Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội và vận dụng trong phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
B. NỘI DUNG
I. Lực lượng sản xuất và vai trò của lực lượng sản xuất.
1.Lý luận chung về lực lượng sản xuất.
1.1.Định nghĩa về lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người
nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
1.2.Cấu trúc.
Lực lượng sản xuất bao gồm 3 yếu tố:
1.2.1.Người lao động.
Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh, kỹ
năng kỹ sảo lao động của mình đã tác động vào tư liệu sản xuất trước hết là công cụ
lao động, tác dụng vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Do vậy
Nguời lao động giữ vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội.
Bằng cách sử dụng tài năng về trí tuệ, sự khéo léo trong tay nghề cùng với các công
cụ sản xuất người lao động đã thực hiện cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu của con
người, tác động vào tự nhiên và sản xuất ra của cải vật chất. C. Mác đã từng nhấn
mạnh rằng, "thiên nhiên không chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện
báo, máy sợi con dọc di động... Tất cả những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc
con người, do bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh đã vật hoá của tri thức” [3]
1.2.2.Tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất gồm 2 yếu tố:
- Đối tượng lao động:Đối tượng lao động là một bộ phận của giới tự nhiên mà
con người tác động và làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với nhu cầu của
con người.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
- Tư liệu lao động: Tư liệu lao động bao gồm: tư liệu lao động và công cụ hỗ
trợ. Cùng với người lao động, công cụ lao động là một trong những yếu tố cơ bản
nhất của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ
lao động là do con người sang tạo ra, là sức mạnh của tri thức đã được vật chất hóa,
nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình sản xuất. Công cụ lao động là
yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm,
với những phát minh, những sáng chế khoa học, công cụ lao động không ngừng
được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện đó đã làm biến đổi toàn
bộ tư liệu sản xuất. Đó chính là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình
độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con
người, là tiêu chuẩn để phân biệt giữa các thời đại kinh tế [10].
1.2.3.Khoa học kỹ thuật.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học kĩ thuật đóng vai trò ngày
càng to lớn. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật gắn liền với sản xuất là động lực
mạnh mẽ nhất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sự phát triển của khoa học
kĩ thuật đến mức nó đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều hoạt động kinh tế
xã hội và đang dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những tác động của khoa
học kĩ thuật vào công cụ lao động đã khiến công cụ lao động có những biến đổi sâu
sắc, càng ngày càng có nhiều công cụ mang tính tự động hóa, tính linh hoạt và độ
chính xác cao.Những tác động vào đối tượng lao động cũng khiến cho đối tượng
lao động từ chỗ chủ yếu là sản phẩm của tự nhiên thì nay còn là sản phẩm của lao
động, của khoa học kĩ thuật. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại cũng
không còn chỉ là kinh nghiệm, thói quen mà còn là tri thức khoa học.Sự phát triển
của khoa học kĩ thuật đã làm thay đổi gần như hoàn toàn lực lượng sản xuất, những
thay đổi này là những thay đổi tích cực giúp cho lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển.
1.3.Ý nghĩa của quan hệ của các yếu tố trong cấu trúc của lực lượng sản xuất
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
3 yếu tố trong cấu trúc của lực lượng sản xuất có quan hệ mật thiết gắn bó và tác
động qua lại lẫn nhau hay có thể nói rằng các yếu tố này có quan hệ biện chứng với
nhau.
Thứ nhất là người lao động với vai trò là chủ thể của hoạt động sản xuất tác
động vào tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất xã hội.LêNin đã từng nhận xét
rằng “ lực lượng sản xuất hang đầu của toàn thể nhân loại là công nhân người lao
động”. Bằng những tri thức thu thập được trong quá trình sản xuất tác động vào
thiên nhiên, người lao động đã không ngừng cải tiến, nâng cao và phát triển tư liệu
sản xuất. Trước kia đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên thì
trong thời đại ngày nay đối tượng lao động còn là những bộ phận của sản phẩm của
lao động, của khoa học, công nghệ mà hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày
càng giảm. Công cụ lao động cũng được cải tiến càng ngày càng hoàn thiện với
trình độ cao hơn, từ chỗ chỉ là những công cụ lao động thô sơ sử dụng chủ yếu là
sức người thì ngày nay những công cụ lao động ấy đã được thay thế bằng những
máy móc tự động hóa với hàm lượng tri thức và tính chính xác cao.
Ngược lại, tư liệu sản xuất cũng có những tác động nhất định đến người lao
động. Sự phát triển nhanh chóng của tư liệu sản xuất trong đó công cụ lao động là
yếu tố động nhất đã làm biến đổi nhanh chóng người lao động. Trình độ nhận thức
của người lao động càng ngày càng cao, tính chuyên môn hóa trong lao động sản
xuất càng ngày càng mạnh mẽ làm cho tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất càng
ngày càng sâu sắc. Chính sự phát triển ấy đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
không ngừng không những tăng theo cấp số cộng mà còn theo cấp số nhân.
2.Các yếu tố tác động đến lực lượng sản xuất.
Có rất nhiều yếu tố tác động đến lực lượng sản xuất trong đó có thể kể đến 2 yếu
tố chính là quan hệ sản xuất và dân số.
2.1. Quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất.
Chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động qua lại một cách biện chứng với
nhau, tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
lực lượng sản xuất. Ở mỗi giai đoạn nhất định trình độ sản xuất của lực lượng sản
xuất lại khác nhau thể hiện ở trình độ của công cụ lao động kỹ năng lao động người
lao động. Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
xuất. Tính chất của lực lượng sản xuất phát triển từ tính cá nhân đến tính xã hội hóa.
Khi sản xuất ở trình độ thấp kém thì tính chất của lực lượng sản xuất là tính cá
nhân. Khi sản xuất đã đạt đến trình độ cơ khí hiện đại thì tính chất của lực lượng sản
xuất là tính xã hội hóa và tính xã hội hóa này càng trở lên sâu sắc hơn.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái
sản xuất xã hội. Muốn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó thể hiện
ở chỗ tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều là môi trường thuận lợi để phát triển
lực lượng sản xuất. Khi đó lực lượng sản xuất phải tạo điều kiện sử dụng và kết hợp
một cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất tạo cơ sở để lực lượng sản
xuất phát huy tối đa khả năng của mình.
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất từ
chỗ phù hợp đã trở lên không phù hợp với lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản
xuất lại là “ xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Và yêu cầu
khách quan đặt ra là phải thay thế kiểu quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp hơn để tạo điều kiện để lực lượng sản xuất phát triển.Các Mác đã từng
nhận xét rằng “ tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng ta lực lượng sản xuất
vất chất xã hội mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có …trong đó từ trước đến nay
lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi
đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội”. Điều đó đã thúc đẩy xã hội
phát triển. Từ đó có thể kết luận rằng sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết
định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
Với tư cách là một hình thức xã hội của sản xuất, quan hệ sản xuất cũng có tính
độc lập tương đối tác động trở lại lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định
mục đích của sản xuất, tác động đến sự phân công quản lý lao động xã hội và do đó
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Ngược lại quan hệ sản xuất không phù hợp, lỗi thời lạc hậu hoặc tiến tiến hơn
một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Và theo quy
luật chung thì quan hệ sản xuất cũ sẽ phải thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp hơn.
Quan hệ sản xuất là yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất nhưng trong
bất kì thời kỳ nào lực lượng sản xuất muốn phát triển đều phải tuân theo quy luật
phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
2.2.Dân số.
Dân số là nguồn lực chính tạo ra người lao động- chủ thể của quá trình lao động sản
xuất. Do đó quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số có ảnh hưởng trực tiếp tới người lao
động của lực lượng sản xuất. Quốc gia nào có dân số trẻ thì nước đó rất có lợi thế về
lao động với nguồn lao động trẻ dồi dào, năng động và đầy tính sáng tạo. Chất
lượng dân số cũng có tác động tới người lao động. Đất nước nào có mức sống cao,
giáo dục, y tế phát triển thì chắc chắn rằng chất lượng và trình độ nguồn lao động ở
nước cũng sẽ ở mức cao. Và sự phân bố dân cư cũng kéo theo sự phân bố nguồn lao
động. Ở đa số các quốc gia dân cư phân bố không đều dẫn đến sự tập trung không
đều của nguồn lao động. Đa số lao động tập trung ở các khu vực thành thị, ở khu
vực nông thôn chiếm tỷ lệ rất ít.Do vậy muốn phát triển lực lượng sản xuất ta cũng
phải chú trọng tới vấn đề dân số.
3.Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội
Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ tác động giữa con người với tự nhiên,
biểu hiện trình độ sản xuất của con người , năng lực hoạt động thực tiễn của người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Do vậy lực lượng sản xuất có vai trò rất
quan trọng.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Lực lượng sản xuất phát triển sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá
trình tái sản xuất xã hội sản xuất ra nhiều của cải vật chất phục vụ đời sống con
người.
Sự phát triển kinh tế suy cho cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do
vậy Lực lượng sản xuất phát triển sẽ kéo theo sự phát triển kinh tế và đưa tới sự tiến
bộ xã hội.
Lực lượng sản xuất phát triển, của cải vật chất sản xuất ra nhiều hơn với chất
lượng cao hơn chính là điều kiện để nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, xóa đói
giảm nghèo, giảm bớt thất nghiệp, thúc đẩy kinh tế, văn hóa, chính trị phát triển và
thực hiện thành công công bằng xã hội.
4.Kết luận
Qua đó ta có thể thấy rằng lực lượng sản xuất là yếu tố cơ bản nhất của hoạt động
lao động sản xuất trong xã hội, là nguyên nhân sâu xa của mọi sự phát triển kinh tế
và tiến bộ xã hội. Do vậy, bất cứ quốc gia nào, bất cứ thời đại nao, bất cứ cũng phải
chú trọng tới phát triển việc phát triển lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố hợp
thành lực lượng sản xuất thì người lao động bao giờ cũng là chủ thể là lực lượng cơ
bản nhất của sản xuất xã hội.
II. Quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
1. Bối cảnh của quá trình phát triển lực lượng sản xuất.
1.1.Thế giới.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế
giới đã mở ra một trang sử mới cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Rõ ràng
rằng phương thức sản xã hội chủ nghĩa có tính ưu việt hơn so với phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, nó đã xóa bỏ đi chế độ người bóc lột người trong sản xuất, ở
đây tư liệu sản xuất là của chung của cả cộng đồng chứ không còn là của riêng giai
cấp tư sản nữa. Ở đó, lực lượng sản xuất được giải phóng và ngày càng phát triển
mạnh mẽ hơn theo đúng quy luật chung- quy luật phù hợp giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Sự ra đời của phương thức sản xuất mới đã làm nảy sinh một
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
cuộc đấu tranh có tính quy luật giữa cái mới và cái cũ, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản. Trong cuộc chiến tranh gay gắt này có những lúc tưởng chừng như cái
mới đã đẩy cái cũ tới bên bờ vực thẳm, nhưng chủ nghĩa tư bản đã kịp thời đưa ra
những điều chỉnh phù hợp nhằm xoa dịu mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ
và phương thức sản xuất tư bản lạc hậu và chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại song song
với chủ nghĩa xã hội.Còn trong quá trình xây dựng và phát triển của mình, chủ
nghĩa xã hội đã có những bước đi sai lầm dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là sự tan rã
của một loạt các nước các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Liên Xô – nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bị đổ vỡ đã làm thay đổi
hoàn toàn tình hình chính trị trên thế giới.
Từ sau sự tan rã của hai cực IANTA và sự kết thúc của cuộc chiến tranh lạnh,
thế giới đã xuất hiện một xu thế mới, đó là xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại,
các quốc gia trên thế giới có xu hướng giải quyết các tranh chấp chính trị, kinh
tế…..bằng các biện pháp hòa bình, không xung đột không chiến tranh. Cùng với đó
là sự ra đời của nhiều tổ chức chính trị, kinh tế lớn như Liên Hợp Quốc, Khối
ASEAN, khối thị trường chung Châu Âu EEC…. Sự xuất hiện của các khối này
chính là do tác động của xu hướng toàn cầu hóa mà nguyên nhân sâu xa là do sự
phát triển ngày càng cao dẫn đến tính xã hội hóa sâu sắc của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh đó, sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của các cuộc cách mạng công
nghiệp, cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi hẳn tình hình sản xuất trên thế
giới. Mức đóng góp của tri thức và kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng
lớn. Do vai trò và vị trí ngày càng lớn của tri thức trong nền kinh tế, do thông tin và
tri thức ngày càng trở thành nguồn lực phát triển kinh tế chủ yếu, nên cơ cấu đầu tư
để phát triển lực lượng sản xuất có những thay đổi rất lớn. Ở Hoa Kỳ, mỗi năm số
tiền chi vào việc sản xuất tri thức và các hoạt động liên quan khác chiếm khoảng
20% GDP, trong đó, chi phí cho giáo đục chiếm 10% GDP. Ngày càng có nhiều giá
trị gia tăng kinh tế do trí tuệ tạo ra. Trong lĩnh vực sản xuất, các máy tự động hóa
với tính linh hoạt và độ chính xác cao liên tục ra đời đã chiếm vai trò quan trọng
trong ứng dụng sản xuất thực tiễn.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
1.2. Trong nước.
Nước ta vốn đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, lại chịu hậu quả nặng
nề của chiến tranh. Nền kinh tế mang nặng tính chất tự cấp tự túc, công nghiệp nhỏ
bé và lạc hậu, các ngành dịch vụ chưa phát triển. Chiến tranh kéo dài làm tổn hao
lớn về người và của ; nhiều cơ sở công nghiệp mới được khôi phục và xây dựng đã
bị tàn phá ; đường sá và các cơ sở hạ tầng kỹ thuật bị hư hỏng nặng ; đời sống kinh
tế xã hội bị đảo lộn.
Trước đây, đặc biệt là trong thời kì chiến tranh, những cân đối lớn trong nền kinh
tế của đất nước được đảm bảo bằng viện trợ và vay nợ của nước ngoài. Vì thế, tuy
có những năm mức tăng trưởng kinh tế tương đối khá, nhưng tỉ lệ nhập siêu rất lớn.
Từ sau khi đất nước thống nhất, các nguồn viện trợ bị cắt giảm đột ngột, Hoa Kì lại
duy trì chính sách cấm vận chống Việt Nam trong nhiều năm. Các quan hệ kinh tế
xuất nhập khẩu trước đây bị phá vỡ. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng vào cuối thập kỉ 70, nửa đầu thập kỉ 80 của thế kỷ
XX.
Công cuộc Đổi mới được triển khai từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến
nay đã đưa nước ta từng bước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Lạm phát được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, nền kinh tế đã bắt đầu có
tích luỹ nội bộ, tuy còn thấp. Đời sống nhân dân được cải thiện.
Tuy nhiên, trong quá trình Đổi mới, nền kinh tế của nước ta phải trải qua nhiều
khó khăn, thử thách. Những đổi mới trong cơ cấu kinh tế còn chậm, tốc độ tăng
trưởng trong một số ngành còn chưa thật sự vững chắc. Đời sống nhân dân ở nhiều
vùng còn gặp khó khăn. Tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao, tỉ lệ thất nghiệp ở
thành thị còn khá trầm trọng. Sự phân hoá giàu nghèo đang có xu hướng tăng.
Vì vậy muốn phát triển nền kinh tế theo hướng tích cực loại bỏ những tiêu cực
tồn tại, trước hết nước ta phải xây dựng một lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ
về mọi mặt cả mặt chất lẫn mặt lượng.
2.Thực trạng lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
2.1.Thành tựu
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang lôi cuốn, tác động đến tất cả các nước
cũng như đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với nước ta, từ xuất phát
điểm là nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng
đạt đến trình độ của một nước phát triển theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh", tất
yếu phải tiến hành thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như là "một
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội".
Đây cũng là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới của
cách mạng nước ta. Trong hàng loạt phương thức và biện pháp để thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề xây dựng và phát triển lực lượng sản
xuất là hết sức cần thiết và có tính chiến lược lâu dài, bởi lực lượng sản xuất đắc
biệt là người lao động đã, đang và sẽ tham gia đắc lực vào tiến trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa là nguồn lực quyết định đối với các nguồn lực khác cũng quyết
định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn xem con
người là yếu tố đặc biệt quan trọng, nên đã không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nguồn
lao động đáp ứng yêu cầu, mục tiêu của thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đẩt
nước và nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể.
Về số lượng, nước ta hiện có 44,4 triệu lao động và vẫn tiếp tục tăng nhanh.
Đáng lưu ý là lực lượng lao động này hầu hết (75,1%) ở nông thôn và tập trung
đông nhất là 2 vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Trong những năm
gần đây, từ năm 2000 đến 2006 mỗi năm bình quân có gần một triệu người bước
vào tuổi lao động. Như vậy, đến nay có thể nói rằng Việt Nam là một trong những
nước có nguồn lao động dồi dào.Và theo dự báo đến năm 2020 nước ta có 62.2 triệu
lao động đến lúc đó nước ta chắc chắn sẽ có nguồn lao động dồi dào để đáp cho
phát triển kinh tê.[6]
Về chất lượng: Trình độ học vấn của lao động Việt Nam, kể cả lao động ở khu
vực nông nghiệp nông thôn được chuyên gia quốc tế đánh giá vào loại khá so với
nhiều nước trên thế giới, nếu như năm 2004 mới chỉ có 47% nguồn lao động có
trình độ phổ thông cơ sở và phổ thông trung học, thì đến đầu năm 2006 con số này
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
là 58% [6]. Điều đó đã chứng tỏ trình độ lao động của nước ta không những không
thấp mà còn có lợi thế là lao động trẻ, năng động và nhiều tính sáng tạo.
Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước ta cũng chủ trương đầu tư phát triển khoa học
kĩ thuật trong nước để theo kịp đà phát triển của các nước phát triển khác. Mỗi năm
Đảng và nhà nước ta dành 45 tỷ đồng để phát triển các ngành khoa học cơ bản. Đó
là một sự ưu ái rất lớn danh cho khoa học công nghệ trong điều kiện nước ta vẫn
còn ở trong tình trạng kém phát triển so với nhiều nước khác như hiện nay[7].Cùng
với đó nước ta cũng nhập khẩu khoa học công nghệ từ các nước đang phát triển để
nước ta có thể học tập kinh nghiệm từ họ tập trung vào phát triển sản xuất. Trong
mấy năm gần đây tỷ lệ nhập siêu của nước ta khá cao, cao hơn nhiều so với những
năm trước chủ yếu là do nguyên nhân này.
Từ khi thực hiện đổi mới và năm 1986, cơ sở vật chất kỹ thuật của phục vụ cho
sản xuất của nước ta cũng có những bước tiến đáng ghi nhận.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật của các ngành từng bước được hình thành. Trong công
nghiệp, cả nước có 2821 xí nghiệp trung ương và địa phương, 590.246 cơ sở sản
xuất ngoài quốc doanh – (tính đến hết năm 1998). Một số ngành công nghiệp khai
thác (than, dầu khí), công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng (dệt, giấy v.v…), xi măng.
Mạng lưới giao thông chính đã toả đi nhiều nơi từ Bắc đến Nam, từ đồng bằng
lên trung du và miền núi. Dọc vùng duyên hải là hệ thống cảng biển, trong đó đáng
kể nhất là các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn. Năng lực vận chuyển hàng hoá
của các cảng biển đạt 11,6 triệu tấn/năm (năm 1999). Mạng lưới thương mại phát
triển rộng khắp với 1,5 triệu người kinh doanh chuyên nghiệp và không chuyên
nghiệp. Có được những thành công như vậy là nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng và nhà nước. Hiện nay nước ta vẫn còn là nước kém phát triển, nhưng với
những tiềm năng dồi dào như trên thì chắc chắn tới năm 2010 theo mục tiêu đặt ra
nước ta sẽ thực sự trở thành một nước công nghiệp với nền sản xuất đại công
nghiệp.
2.2. Hạn chế.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, lực lượng sản xuất của nước ta cũng có
những hạn chế không thể tranh khỏi do nước ta vẫn còn là một nước đang phát
triển.
Thứ nhất là về nguồn lao động, tuy trình độ học vấn khá, nhưng chất lượng nguồn
lao động Việt Nam lại thấp so với nhiều nước khu vực và thế giới.
Sức cạnh tranh, khả năng làm việc của nguồn lao động nhìn chung bị hạn chế do
tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thấp và kỹ năng làm việc còn thấp. Hiện
có tới 75,21% lao động chưa qua đào tạo nghề [6]. Điều đáng quan tâm nhất là một
tỷ lệ lớn lao động tuy đã qua đào tạo, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng. Đa số
học sinh tốt nghiệp các trường dạy nghề hoặc chuyên môn, nghiệp vụ nhưng còn
thiếu kỹ năng cơ bản để có thể thực hiện công việc độc lập, sau khi ra trường vẫn
cần bổ túc thêm từ 6 tháng đến 1 năm mới có thể làm việc với thiết bị, máy móc của
doanh nghiệp hiện đang sử dụng.
Một bộ phận không nhỏ người lao động chưa có tác phong công nghiệp, mang
nặng thói quen và tập quán sản xuất nhỏ, kỷ luật lao động lỏng lẻo, thiếu trách
nhiệm đối với công việc; quan hệ hợp tác yếu và hầu hết không biết ngoại ngữ. Đặc
điểm này đã làm nẩy sinh mâu thuẫn giữa chủ và thợ tại nhiều doanh nghiệp trong
nước và liên doanh, nhất là đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài, ảnh hưởng
đến sự tham gia của lao động Việt Nam trong hợp tác và phân công lao động quốc
tế.
Thứ hai là về tư liệu sản xuất, công suất sử dụng tư liệu sản xuất của nước ta rất
thấp đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Qua công tác kiểm kê cho thấy, tài sản cố định của các doanh nghiệp nhà nước
này đã cũ và lạc hậu về kỹ thuật. Ở một số ngành công nghiệp và xây dựng, tỷ lệ
thiết bị kỹ thuật có trình độ công nghệ từ trung bình trở lên chỉ chiếm từ 30 đến
35% tổng giá trị tài sản, thiết bị của doanh nghiệp. Số máy móc thiết bị đã sử dụng
từ 20 năm trở lên chiếm 33% [2]
Hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị của các doanh nghiệp chưa cao, khoảng 80%
số doanh nghiệp chỉ sử dụng 1 ca/ngày. Hệ số sử dụng công suất thiết bị đạt 30Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
35%, riêng ngành cơ khí đạt 20% [2]. Trong khi đó, dây chuyền của phần lớn doanh
nghiệp lại thiếu đồng bộ.
Cùng với đó là sự yếu kém trong khoa học kĩ thuật, vốn đầu tư cho khoa học
công nghệ ở nước ta còn thấp trong khi đó hiệu quả sử dụng vốn lại chưa cao. Khả
năng nghiên cứu khoa học vẫn còn ở dạng tiềm năng. Kỹ năng làm việc theo nhóm
của các nhóm nghiên cứu khoa học còn chưa cao và đặc biệt khoa học công nghệ
của nước ta vẫn chưa có khả năng chiếm lĩnh thị trường như các nước phát triển
khác.
Như vậy lực lượng sản xuất của nước ta vẫn tồn tại rất nhiều hạn chế cần phải
giải quyết ngay. Đó là một vấn đề thực sự là cấp thiết đối với đất nước ta hiện nay.
3.Nguyên nhân.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự hạn chế của lực lựợng sản xuất ở nước ta hiện
nay.Trước hết là về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quan
hệ sản xuất ở nước ta vẫn còn chứa đựng nhiều tư tưởng lạc hậu từ chế độ phong
kiến để lại, đó là một nền sản xuất nhỏ manh mún thô sơ lạc hậu trong khi đó lực
luợng sản xuất ở nước ta thì đang phát triển rất mạnh mẽ cùng với sự phát triển của
lực lượng sản xuất thế giới. Chính quan hệ sản xuất lạc hậu ấy đã kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Nó tạo ra những vật cản trên con đường phát triển của
lực lượng sản xuất.
Nguyên nhân thứ hai đó là do các chính sách quản lý vĩ mô của Đảng và nhà
nước còn chưa nhất quán, thiếu vững chắc, chậm đổi mới, môi trường đầu tư còn
hạn chế. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ còn có nhiều khe hở tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp nhà nước cũng như tư nhân lách luật.
Thứ ba là do hệ thống giáo dục của nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu của đất
nước, Cơ cấu đào tạo chưa phù hợp, Có nhiều gian lận, tiêu cực trong thi cử. Điều
đó đã làm cho trình độ học vấn của lao động nước ta vẫn còn ở mức thấp.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
4.Giải pháp phát triển lực lượng sản xuất
Trước hết để phát triển lực lượng sản xuất Đảng và nhà nước phải có những
đường lối chính sách để xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
Với tư cách là một hình thái xã hội, quan hệ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Nó có thể thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nếu như quan hệ sản xuất phù hợp, nó cũng có thể kìm hãm nếu như quan hệ sản
xuất không phù hợp.
Thứ hai là phải có những chính sách thích hợp để nâng cao nguồn nhân lực phù hợp
với tình hình của nước ta hiện nay đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Đầu tiên, ngành lao động thương binh và xã hội tăng cường và thực hiện hiệu quả
hơn công tác quản lý Nhà nước về đào tạo và dạy nghề. Trước mắt, kịp thời triển
khai hướng dẫn thực hiện Luật Dạy nghề. Hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp
luật về dạy nghề. Từng bước đổi mới cơ chế quản lý trong đào tạo và dạy nghề, tập
trung rà soát, quản lý hệ thống dạy nghề trên phạm vi cả nước.
Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch hệ thống đào tạo, dạy nghề
nhằm khắc phục những bất hợp lý, tạo tiền đề để hệ thống dạy nghề mạnh, phát
triển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập. Đẩy mạnh việc xã hội
hoá công tác dạy nghề. Khuyến khích phát triển hình thức liên kết với doanh nghiệp
để đào tạo nghề.
Thứ ba, đổi mới phương pháp, và các hình thức dạy nghề để phát huy tính chủ
động sáng tạo của người học.
Chủ động tổ chức nghiên cứu, dự báo yêu cầu và tác động của Hội nhập đến chất
lượng nguồn lao động, từ đó xây dựng chương trình và nội dung đào tạo hợp lý.
Thứ tư, quản lý chất lượng đào tạo làm nhiệm vụ trọng tâm. Nghiên cứu đổi mới
quản lý chất lượng đào tạo. Tăng cường kiểm soát, kiểm định chất lượng đào tạo.
Nâng cao chất lượng công tác thống kê dự báo. Đổi mới công tác xây dựng kế
hoạch đào tạo theo hướng thị trường.
Thứ năm, để đội ngũ giáo viên đạt tiêu chuẩn chất lượng, cần nâng cao năng lực
dạy nghề thông qua sử dụng có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
và đào tạo. Đảm bảo chương trình hoạt động đúng mục tiêu, nội dung và mức vốn
được hỗ trợ.
Thứ sáu, tăng cường nguồn lực tài chính đầu tư cơ sở vật chất cho công tác đào
tạo nghề, đảm bảo đủ năng lực và quy mô đào tạo phục vụ nhu cầu học nghề của
người lao động.
Thứ bảy, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo và dạy nghề trên tất cả
các phương diện: Tổ chức, đào tạo, xây dựng chương trình và nội dung đào tạo. Cần
có chính sách thích hợp để thu hút nhân lực, tài lực trong và ngoài nước tham gia
đào tạo, dạy nghề.
Thứ tám, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về công tác dạy nghề: Nội
dung thông tin tuyên truyền tập trung phổ biến chủ trương của Đảng và Nhà nước
về công tác dạy nghề; sự cần thiết phải học và nâng cao trình độ lành nghề để nhân
dân, nhất là lực lượng lao động thấy được sự cần thiết và giá trị của việc học nghề,
nâng cao trình độ lành nghề đối với vấn đề tìm việc làm và thu nhập của người lao
động.
Vấn đề cấp thiết thứ hai là nước ta phải tập trung phát triển khoa học công nghệ
đặc biệt là khoa học cơ bản
Đầu tiên là phải tạo động lực cho nhà khoa học. Như chúng ta đã biết, đối
với nhà khoa học có 4 vấn đề quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau. Đó là:
Niềm say mê và khát vọng sáng tạo khoa học, điều kiện làm việc, thu nhập và sự
tôn vinh của xã hội.Niềm say mê và khát vọng sáng tạo khoa học thuộc về bản chất
của người làm khoa học chân chính. Nó là đặc điểm phân biệt nhà khoa học, nghề
làm khoa học với những ngành, nghề khác. Điều kiện làm việc rất quan trọng đối
với nhà khoa học, bởi những đặc thù lao động trí óc: Cần tập trung tư tưởng cao độ,
sự sáng tạo chỉ diễn ra ở những thời điểm nhất định và trong độ tuổi nhất định. Do
vậy, cần tạo những điều kiện làm việc tốt cho nhà khoa học như các trang thiết bị,
phòng làm việc, người giúp việc… Về thu nhập: Lao động trí óc là loại lao động
phức tạp, mang đặc thù riêng, đòi hỏi quá trình tích lũy kiến thức lâu. Vì vậy, thu
nhập của nhà khoa học phải tương xứng với những đóng góp của họ và cũng phải
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
đủ để trang trải những nhu cầu tối thiểu. Có như vậy, nhà khoa học mới toàn tâm,
toàn ý cho công việc và sẽ không xảy ra sự lãng phí hoặc trôi chảy chất xám.
Sự phồn vinh của xã hội là hệ quả tất yếu của sự thành đạt của nhà khoa học.
Tuy nhiên, nó cũng có tác dụng tích cực trở lại đối với người làm khoa học, nhất là
đối với những người có ý định theo con đường khoa học. Ở đây, điều đặc biệt quan
trọng đối với nhà khoa học là sự công bằng trong đánh giá.
Thứ hai, Nhà nước cần đặc biệt quan tâm việc đào tạo đội ngũ cán bộ đầu
ngành thế hệ mới trong lĩnh vực KHCB với một hệ thống các chính sách nhằm
khuyến khích học sinh giỏi theo học và làm việc trong các ngành KHCB (cung cấp
học bổng, được học tại các trung tâm chất lượng cao ở trong và ngoài nước, được
bố trí công việc ngay sau khi tốt nghiệp và được trả lương thoả đáng...). Tận dụng
các nhà giáo, nhà khoa học cao tuổi để bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục sự nghiệp giảng
dạy và nghiên cứu KHCB
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học, giữa
viện nghiên cứu và trường đại học. Mạnh dạn chuyển một số viện nghiên cứu về các
trường đại học và cho phép viện nghiên cứu mở các trung tâm đào tạo sau đại học.
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KHCB, thu hêt sự tham gia của
các nhà khoa học quốc tế hàng đầu và trí thức Việt kiều trong việc phát triển KHCB
ở Việt Nam. Xúc tiến thường xuyên các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và
cử cán bộ tham gia các hội nghị khoa học quốc tế. Xây dựng tại Việt Nam một số
trung tâm nghiên cứu và đào tạo hàng đầu của Đông Nam Á trong lĩnh vực KHCB.
Đó là một số giải pháp chính để nâng cao trình độ và chất lượng của lực lượng sản
xuất của nước ta trong thời kì mở cửa và hội nhập như hiện nay.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
C. KẾT LUẬN
Lực lượng sản xuất là vấn đề cơ bản, mọi quốc gia, mọi dân tộc. Đất nước nào cũng
vậy muốn phát triển kinh tế thì tất yếu phải phát triển lực lượng sản xuất. Và xu thế
chung của mọi thời đại đó là lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Đó là quy
luật chung của mọi thời đại. Lực lượng sản xuất luôn có xu hướng chung là phát
triển không ngừng. Vì vậy để có thể theo kịp được xu hướng ấy thì các Đảng, nhà
nước và các tổ chức xã hội cần phải luôn luôn tạo ra môi trường thuận lợi để có thể
tận dụng được quy luật chung ấy. Sau khi thực hiện đổi mới, lực lượng sản xuất của
nước ta đã có những điều kiện để phát triển và thu được những thành tựu đáng
khích lệ. Nhưng tồn taị bên cạnh những thành tựu ấy là những hạn chế nghiêm trọng
cần phải khắc phục ngay. Điều đó đã làm ảnh hưởng tới xu hướng phát triển chung
của lực lượng sản xuất và la vật cản cho sự phát triển của xã hội. Để khắc phục hạn
chế một cách có hiệu quả nhất thì Đảng và nhà nước cần phải có những bước đi
đúng đắn, có những chính sách phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể của đất
nước.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Con người tiền đề của sự phát triển.
Tác giả: Trần Tiến Đạt – đăng ngày: 16/04/2007
Website: http://www.chungta.com
2.Công suất sử dụng tư liệu sản xuất của doanh nghiệp nhà nước thấp
Ngày đăng:05/04/2003. Website:http://vietnamnet.vn
3.Kinh tế tri thức xét từ giác độ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Tác giả: Phạm Ngọc Quang- đăng ngày 08/10/2006
Website:http://www.chungta.net
4.Một số vấn đề về nền giáo dục nước ta trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa.
Tác giả:GS.TSKH Nguyễn Hòa Thịnh- Website:http://www.100years.vnu.edu.vn
5.Một số suy nghĩ về việc đảng viên là kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Tác giả:Lê Minh Phụng- Website:http://www.tapchicongsan.org.vn
6.Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Website:http://www.quangngai.gov.vn- ngày đăng:26/02/2007.
7.Sáu giải pháp phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản.
Tác giả:Nguyễn Văn Đạo- ngày đăng:25/10/2006.
Website: http://www.vietscience.free.fr.
8. Toàn cầu hóa- cách tiếp cận, cơ hội và thách thức.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Tác giả:bộ trưởng thương mại Trương Đình Tuyển- ngày đăng: 17/01/2005.
Website: http://www.mofa.gov.vn
9.Về luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tác giả: Lê Huy Thực- Ngày đăng: 10/10/2006
Website: http://www.chungta.com
10. Giáo trình Triết Học Mac- LêNin
Nhà xuất bản:Chính trị quốc gia- xuất bản năm 2006.
MỤC LỤC.
Chú dẫn
trang
A.Phần mở đầu
1
B.Nội dung
3
C.Kết Luận
17
D.Tài liệu tham khảo.
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368