Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Triết học HỆ THỐNG LÝ THUYẾT TÂM LINH CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM - Hành vi con người môi trườn...

Tài liệu HỆ THỐNG LÝ THUYẾT TÂM LINH CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM - Hành vi con người môi trường và xã hội

.DOCX
43
336
82

Mô tả:

HỆ THỐNG LÝ THUYẾT TÂM LINH CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM - Mon Hành vi
ĐAI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀNH VI CON NGƯỜI & MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI BÀI TẬP NHÓM GIỮA KỲ ĐỀ BÀI : HỆ THỐNG LÝ THUYẾT TÂM LINH CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM NHÓM 11 LỚP K60 CÔNG TÁC XÃ HỘI Hà Nội, ngày 9 tháng 11 năm 2017 MỤC LỤC Table of Contents A. TÔN GIÁO...........................................................................................................4 I. Lịch sử hình thành và phát triển của tôn giáo ở Việt Nam................................4 1.Bản chất ,nguồn gốc của tôn giáo :.................................................................4 2. Chức năng xã hội của tôn giáo......................................................................5 3. Ảnh hưởng của tôn giáo lên con người và xã hội..........................................6 II. Một số hình thức tôn giáo ở Việt Nam.............................................................8 1. Nho giáo........................................................................................................9 2. Phật giáo ở Việt Nam..................................................................................15 3. Công giáo.....................................................................................................20 B TÍN NGƯỠNG....................................................................................................28 1.Tín ngưỡng thờ Mẫu.........................................................................................29 2. Thờ Thành Hoàng Làng..................................................................................33 3. Thờ cúng tổ tiên...............................................................................................37 4.Tín ngưỡng phồn thực......................................................................................42 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................44 2 A. TÔN GIÁO I. Lịch sử hình thành và phát triển của tôn giáo ở Việt Nam 1.Bản chất ,nguồn gốc của tôn giáo : Bản chất Dựa trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử , cũng như những quan niệm của C.Mác về tôn giáo , Ph. Ăng-ghen đã đưa ra một định nghĩa có tính chất kinh điển từ góc độ triết học về tôn giáo như sau : “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” . Định nghĩa này không những đã chỉ ra được bản chất của tôn giáo mà còn chỉ ra con đường hình thành ý thức hay niềm tin tôn giáo. Ở định nghĩa trên chúng ta thấy rằng ,Ph. Ănghen đã tiếp tục luận điểm cho rằng con người sáng tạo ra tôn giáo (tất nhiên con người ởđây là con người của hiện thực lịch sử ).Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người được thực hiện thông qua con đường nhận thức . Chủ thể tạo ra tôn giáo là con người , đối tượng của sự phản ánh mà con người sáng tạo ra tôn giáo là sức mạnh ở bên ngoài thống trị cuộc sống hàng ngày của con người ,còn phương thức nhận thức để tạo ra tôn giáo là phương thức hưảo .Với chủ thể ,đối tượng và phương thức của nhận thức như trên thì kết quả là con người tạo ra cai siêu nhiên thần thánh trong đầu óc của mình thuộc lĩnh vực ý thức ,niềm tin. Định nghĩa của PH.Ănghen về tôn giáo tuy là định nghĩa có tính chất bao quát về hiện tượng tôn giáo ,là định nghĩa rộng những cũng đã chỉ rõ cái đặc trưng, cái bản chất của tôn giáo đó là niềm tin hay thế giới quan hoang đường hưảo của con người . Sự ra đời hiện tượng tôn giáo với bản chất như trên là tất yếu khách quan ,vì khi con ngưòi bị bất lực trước sức mạnh của thế giới bên ngoài thì con người cần đến tôn giáo nhằm bù đắp cho sự bất lực ấy .Điều đó cũng có nghĩa là bản chất của tôn giáo được thể hiện rõ nhất thông qua chức năng đền bù hưảo của nó . Nguồn gốc : VI.Lê-nin đã gọi toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu làm nảy sinh niềm tin tôn giáo là những nguồn gốc của tôn giáo.Nguồn gốc đó bao gồm : Nguồn gốc xã hội ,nguồn gốc nhận thức ,nguồn gốc tâm lý . Nguồn gốc xã hội của tôn giáo là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện khach quan của đời sống xã hội tất yếu làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin tôn 3 giáo .Trong đó có một số nguyên nhân và điều kiện gắn với mối quan hệ giữa con người với con người .Chúng ta thấy rằng ,sự thống trị của tự nhiên đối với con người không phải được quyết địnhbởi những thuộc tính và quy luật của bản thân giới tự nhiên mà được quyết định bởi tính chất mối quan hệ của con người với tự nhiên ,nghĩa là bởi sự phát triển kém của lực lượng sản xuất xã hội mà trước hết là công cụ lao động .Như vậy không phải bản thân giới tự nhiên sinh ra tôn giáo mà là mối quan hệ đặc thù của con người với tự nhiên ,do trình độ sản xuất quyết định.Trong tất cả các hình thái xã hội trước Cộng sản Chủ Nghĩa ,những mối quan hệ xã hội đã phát triển một cách tự phát . Những quy luật phát triển của xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng ,trói buộc con người và ảnh hưởng quyết định đến số phận của họ .Những lực lượng đó trong ý thức con người được thần thánh hoá và mang hình thức của những lực lượng siêu nhiên . Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như mọi ý thức sai lầm chính là sự tuyệt đối hoá ,sự cương điệu mặt chủ thể của nhận thức con người(hay hình thức chủ quan của nó),biến nó thành cái không còn nội dung khách quan , không còn cơ sở “thế gian” , nghĩa là thành cái siêu nhiên thần thánh . Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo theo Phoi -o- bách không chỉ bao gồm những tình cảm tiêu cực (sự lệ thuộc sợ hãi ,không thoả mãn ,đau khổ ,cô đơn ,..)mà cả những tình cảm tích cực (niềm vui ,sự thoả mãn,tình yêu ,sự kính trọng ...)không chỉ những tình cảm ,mà cả những điều mong muốn ,ước vọng ,nhu cầu khắc phục những tình cảm tình cảm tiêu cực muốn được đền bù hư ảo . 2. Chức năng xã hội của tôn giáo Chủ nghĩa Mác cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội ,nguồn gốc của nó là ở trong những điều kiện tồn tại vật chất của xã hội trong những giai đoạn phát triển xã hội nhất định ,nghĩa là ở các mối quan hệ hạn chế của con người trước những sức mạnh tự nhiên và đối với nhau. Sự bất lực của con người trước những sức mạnh tự nhiên và xã hội đã nảy sinh ra nhu cầu đền bù sự hạn chế của các mối quan hệ hiện thực ,quan hệ “trần gian”-thế giới bên kia. Vì thế có thể gọi chức năng đền bù hư ảo là chức năng chủ yếu và đặc thù của tôn giáo . Luận điểm nổi tiếng của C.Mác : “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo . Giống như thuốc phiện tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của “sự làm nhẹ” tạm thời nỗi đau khổ của con người ,an ủi cho những mất mát ,những thiếu hụt hiện thực của đời sống con người , đồng thời gây ra những tác động có hại đối với con người khi tạo ra ở họ nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện thực ,tiêm nhiễm cho họ những quan niệm phản khoa học . 4 Trong những điều kiện lịch sử cụ thể ,tôn giáo thậm chí có thể là chỗdựa tinh thần cho những ước muốn chân chính của quần chúng bị áp bức ,phục vụ cho lợi ích của họ .Ví dụ nó đã từng làm vỏ bọc tư tưởng của các phong trào xã hội tiến bộ .Nhưng ở đây nó vẫn không hề mất chức năng đền bù hư ảo ,vì hạt nhân cơ bản của các tôn giáo -niềm tin vào cái siêu nhiên –luôn luôn gây tác động kìm hãm đối với tính tích cực của quần chúng , chuyển hướng niềm tin và sự nỗ lực của họ vào con đường hư ảo . Chính vì vậy VI.Lê nin đã nhấn mạnh : “Tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân – câu nói đó của C.Mác là hòn đá tảng của toàn bộ quan điểm của chủ nghĩa Mác trong vấn đề tôn giáo . 3. Ảnh hưởng của tôn giáo lên con người và xã hội Những ảnh hưởng tốt của tôn giáo lên xã hội. Tôn giáo nói chung mang lại nhiều ích lợi cho con người và xã hội. 1/ Tôn giáo giúp con người cảm thấy bớt lẽ loi nhỏ bé và bất lực trong cái vũ trụ bao la đáng sợ chung quanh họ. 2/ Tôn giáo đáp ứng nhu cầu "chinh phục sự chết" cần thiết trong bản năng sinh tồn tự nhiên của con người. 3/ Tôn giáo cung cấp phương tiện và cơ hội để thỏa mản nhu cầu tâm linh của con người; thí dụ như cảm giác thông linh, giao hòa với một huyền lực bao la vĩ đại mà nhiều tôn giáo đã nhân cách hóa và gọi là "Thượng Đế". 4/ Tôn giáo là một phương tiện giúp con người dễ bột phát những thiện tính đã có sẵn tự nhiên trong mỗi người và áp dụng những thiện tính nầy vào đời sống hàng ngày. 5/ Tôn giáo cung cấp một phương tiện khá hữu hiệu để truyền bá các tiêu chuẩn đạo đức và gìn giữ con người nằm trong khuôn khổ của các tiêu chuẩn đạo đức nầy. 6/ Tôn giáo giúp con người đoàn kết mạnh mẽ hơn khi cùng đứng với nhau trong một tập thể dưới một danh nghĩa cao cả chung. Tất cả các ảnh hưởng tốt kể trên đều có thể đạt được từ bản chất chân thiện mỹ cũng như khả năng đạo đức và tâm linh đã tự sẵn có trong tâm thức con người mà không cần sự hiện hữu của tôn giáo. Những ảnh hưởng xấu của tôn giáo lên xã hội. Tôn giáo có nhiều lãnh vực tiêu cực về phương diện trí tuệ và tâm linh lẫn xã hội và nhân văn. 1/ Tôn giáo nào cũng cho rằng chỉ có họ là chính giáo, chỉ có giáo điều và “Thượng Đế” của họ là chân lý và tối thượng. Có những tôn giáo cho rằng tất cả 5 tôn giáo khác đều là tà giáo, tất cả “Thượng Đế” của các tôn giáo khác là sản phẩm của sự lầm lẫn ngu tối của loài người. Sự tranh chấp nầy đưa đến hiềm khích và chiến tranh liên tục ở mọi tầng lớp trong lịch sử nhân loại. Đã và đang có vô số cuộc thảm sát, giết chóc xảy ra vì lý do trực tiếp liên quan đến tôn giáo. 2/ Tôn giáo được xây dựng dựa trên sự sợ hãi của con người. Từ đó tôn giáo trở thành một công cụ hữu hiệu của thiểu số cầm quyền dùng để cai trị và kiểm soát quần chúng ở mọi tầng lớp, từ thời xưa cổ cho đến ngay cả chính ngày hôm nay. 3/ Nhiều tôn giáo khuyến khích con người từ bỏ trí óc lý luận và suy xét để chấp nhập những đức tin huyễn hoặc, vô căn cứ. 4/ Nhiều tôn giáo khuyến khích con người tráo chuyển trách nhiệm trong quyết định, hành vi và hậu quả của cá nhân họ ra thành trách nhiệm của “Thượng Đế”. 5/ Nhiều tôn giáo phủ nhận giá trị và khả năng đạo đức cơ bản tự nhiên của con người. 6/ Tôn giáo không biến đổi kịp với sự tiến hóa về mặt khoa học, xã hội lẫn cả về mặt tâm linh của con người do đó trở thành chướng ngại vật trên đường tiến hóa của nhân loại. 7/ Nhiều tôn giáo tiếp tục gìn giữ và truyền dạy những giáo điều cổ hủ, lầm lạc và vô đạo đức (nếu so sánh với tiêu chuẩn xã hội và tâm lý ngày nay). 8/ Các tín đồ cực đoan dùng những giáo điều cổ hủ, lầm lạc và vô đạo đức trong tôn giáo họ để làm căn bản và lý do cho các hành động độc ác. Tùy vị thế và khả năng của các thành phần cực đoan nầy, các hành động độc ác của họ có thể có tai hại rộng lớn, lâu dài và sâu xa đến vô số người vô can khác. 9/ Bản chất mơ hồ, phức tạp và chuyển đổi không ngừng của tôn giáo làm cho đại đa số tín đồ không thể nhận ra được những bản chất tiêu cực cơ bản và quan trọng của nó. Các tổ chức tôn giáo (các “chuyên viên” về tôn giáo) nếu có nhận ra được các bản chất tiêu cực nầy đi nữa thì cũng vì quyền lợi riêng mà ém dấu hay không truyền bá chúng đến cho tín đồ. Nổi bật nhất trong phương diện xã hội và nhân văn là tôn giáo thường bị lợi dụng danh nghĩa để thực hiện những chuyện vụ lợi riêng. Người ta có khuynh hướng không phản kháng các tổ chức, các hành động mang nhãn hiệu tôn giáo vì cái ấn tượng thiêng liêng, đạo đức gắn liền với tôn giáo. Karl Marx nổi tiếng với chủ thuyết cộng sản đẫm máu. Tuy vậy tôi phải công nhận cách so sánh của Karl Marx về tôn giáo với thuốc phiện rất chính xác. 6 Cái mà đại đa số chúng ta không nhìn thấy là chúng ta đã mê hoặc chính chúng ta và biến mình thành nô lệ của các tổ chức tôn giáo. Con người thường cảm thấy bất lực và vô vọng trước những sự đau khổ và hủy diệt trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó, lời hứa hẹn được thương yêu chăm sóc bảo vệ trong kiếp nầy và một sự sống vĩnh hằng ở kiếp sau mang lại một ảo giác an lành khó gì sánh bằng, mặc dù ảo giác an lành nầy chỉ tạm bợ, mơ hồ và giả tạo (cũng giống như thuốc phiện). Để hưởng thụ cái ảo giác an lành nầy một cách trọn vẹn hơn, cũng giống như một gã nghiện, con người sẵn sàng nhắm mắt cố ý không nhận thấy những khuyết điểm lộ liễu và sự tai hại của tôn giáo. Để đón nhận cái ảo giác an lành nầy, con người sẵn sàng từ đánh đổi một tài sản quý giá đó là tri thức cùng khả năng phán xét bằng khối óc biết lý luận của mình để nhận lấy những giáo điều vô căn cứ và phản khoa học gọi là “đức tin”. Để củng cố cái ảo giác an lành tạm bợ nầy và để tránh trách nhiệm cho chính mình, con người sẵn sàng giao phó quyền quyết định đúng sai, phải trái trong đời mình cho một thiểu số không hề quen biết chỉ vì thiểu số nầy tuyên bố rằng họ có những ân sũng huyền bí hay các kiến thức, khả năng đặc biệt hơn mọi người khác. Và cũng giống như một gã nghiện, con người không dám chống đối hay chất vấn các giáo điều dù vô lý đến đâu. Từ thái độ trên, con người tự chấp nhận trở thành nô lệ cho những tổ chức giữ độc quyền sản xuất và phân phát các ảo giác an lành tạm bợ và giả tạo đó. Những người điều hành các tổ chức nầy sử dụng tôn giáo như một công cụ kiểm sóat và điều khiển từng cá nhân nói riêng và xã hội nói chung để củng cố địa vị, quyền lực và tài sản của riêng họ. Có thể nói nổi tiếng nhất trong các tổ chức nầy là tòa thánh Vatican. Ở một mức độ thấp hơn về phương diện quy mô và quyền lực là đa số các giáo hội Phật giáo trong và ngoài nước Việt Nam. Những công thức và phương cách buôn bán tín ngưỡng hữu hiệu nhất hầu như không khác nhau mấy bất kể Thượng Đế hay thần linh mang hình thức và màu sắc gì. II. Một số hình thức tôn giáo ở Việt Nam Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Mặc dù đức tin, giáo lý và sự thờ phụng của đồng bào theo các tôn giáo khác nhau nhưng đều có điểm tương đồng ở tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa. 7 Bản tính của người Việt Nam là cởi mở, bao dung chứ không hẹp hòi, kỳ thị, khép kín. Dù là tín ngưỡng nào, tôn giáo gì, từ đâu đến, thì cộng đồng người ở đây cũng sẵn sàng tiếp nhận – miễn là nó không vi phạm đến lợi ích quốc gia và đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc. Khác với một số nước phương Tây, ở Việt Nam không có tôn giáo nào giữ vai trò thống trị suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai trò của từng tôn giáo gắn liền với sự hưng thịnh, suy tàn của các triều đại phong kiến trong tiến trình phát triển nhất định của lịch sử dân tộc. Việt Nam là một nước có nhiều tôn giáo. Có thể thấy ở Việt Nam hầu như tất cả các hình thức tôn giáo từ Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo…đến các tôn giáo thế giới có tổ chức. Đó là do điều kiện địa lý nước ta là nơi thuận lợi cho việc giao lưu của nhiều luồng tư tưởng, văn hóa khu vực và thế giới, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền văn minh lớn Trung Hoa và Ấn Độ, đồng thời là một nước có 54 dân tộc cư trú ở nhiều khu vực với điều kiện tự nhiên, khí hậu, lối sống, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau nên Việt Nam có điều kiện du nhập nhiều tín ngưỡng tôn giáo lớn trên thế giới. Hơn nữa, bản tính người Việt vốn cởi mở, khoan dung nên cùng một lúc họ có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, cùng tồn tại bên cạnh tín ngưỡng dân gian, bản địa của nhiều dân tộc, bộ tộc. Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Công giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp. Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ năm 2012 ở Việt Nam có khoảng hơn 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng 24 triệu tín đồ của 13 tôn giáo, chiếm 27% dân số. Hiện nay, ở nước ta có sáu tôn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận về tổ chức là: Phật giáo,Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hoà Hảo với khoảng 20 triệu tín đồ. Ngoài ra còn hàng chục triệu người khác vẫn giữ tín ngướng dân gian, truyền thống và cả tín ngưỡng nguyên thuỷ. 1. Nho giáo 1.1 Sự hình thành Nho giáo là học thuyết triết học, chính trị, đạo đức của Trung Quốc được hình thành và phát triển qua ba giai đoạn lớn, từ Nho thời Tiên Tần đến Nho 8 Lưỡng Hán và Nho thời Tống - Minh - Thanh. Được truyền vào Việt Nam từ đầu Công nguyên, tuy ban đầu vấp phải sự phản kháng của người Việt nhưng về sau Nho giáo đã dần được các triều đại Việt Nam chủ động tiếp nhận, sử dụng làm công cụ trị nước trong suốt nhiều thế kỷ cho đến khi chế độ phong kiến lụi tàn. Căn cứ vào lý thuyết tiếp biến văn hóa và chuyển đổi tư tưởng, luận án chia quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam thành ba giai đoạn lớn. Giai đoạn đầu Nho giáo được truyền bá vào VN tương ứng với thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử dân tộc, Nho giáo được truyền vào VN một cách áp đặt trong âm mưu đồng hóa dân tộc của các thế lực phong kiến phương Bắc, do đó thời kỳ này người Việt tiếp nhận Nho giáo hết sức chậm chạp, thụ động, tiếp thu chủ yếu những yếu tố kỹ thuật, văn hóa mang tính thực dụng và gần gũi với truyền thống người Việt. Giai đoạn tiếp theo là từ thế kỷ X-XV, trước yêu cầu đặt ra về việc xây dựng và phát triển nhà nước Đại Việt, giai cấp phong kiến dân tộc đã chủ động tiếp thu Nho giáo thông qua giao lưu kinh tế, văn hóa, ngoại giao với Trung Hoa. Những quan niệm của Nho giáo về chính trị - xã hội, đạo đức, nhân sinh đã có những tác động nhất định vào đội ngũ những người học đạo Nho. Trong bối cảnh đất nước chưa ổn định, yêu cầu bảo vệ và thống nhất nước nhà được đặt lên trên hết, Nho giáo được tiếp nhận giai đoạn này mang đậm tinh thần dân tộc, gắn với thực tiễn và truyền thống văn hóa người Việt. Nho giáo cùng với Phật giáo và Đạo giáo tạo thành hiện tượng tam giáo đồng nguyên trong đó Phật giáo đóng vai trò chủ đạo. Ở giai đoạn thứ ba, tương ứng với thời kỳ lịch sử từ thế kỷ XV đến XIX, với yêu cầu về việc hoàn thiện thể chế trung ương tập quyền, các triều đại từ nhà Lê đến nhà Nguyễn, đã dựa vào tư tưởng Nho giáo để tuyển lựa và chấn chỉnh bộ máy quan lại, dùng cương thường đạo lý, tập quán tông pháp để chuẩn mực hóa hành vi của nhân dân. Tuy nhiên, càng về sau, sự tiếp nhận Nho giáo diễn ra một cách cực đoan hơn, là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn cùng với chế độ phong kiến. Quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX có những đặc điểm, tính chất sau: Thứ nhất, tính phức tạp của quá trình du nhập Nho giáo; Thứ hai, tính dung hợp của Nho giáo với Phật giáo và Đạo giáo trên cơ sở văn hóa truyền thống Việt Nam; Thứ ba, tính Việt hóa Nho giáo. Từ quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam, có thể rút ra một số ý nghĩa mang tính lịch sử: 9 Thứ nhất, ý nghĩa về phương diện văn hóa. Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam trong lịch sử đã bổ sung và làm cho diện mạo văn hóa Việt Nam có thêm những sắc thái mới. Thứ hai, ý nghĩa về phương diện tư tưởng, đạo đức. Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam đã tác động lớn đến thế giới quan, nhân sinh quan và tư tưởng chính trị - xã hội của người Việt. Thứ ba, ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội. Quá trình du nhập, tiếp thu và cải biến Nho giáo ở người Việt không chỉ đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước của giai cấp phong kiến dân tộc bấy giờ mà còn góp phần vào việc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ của người Việt nói chung trước triều đình phương Bắc. 1.2 Nội dung cơ bản của Nho giáo Tu thân Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương ngũ thường tam tòng tứ đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương ngũ thường tam tòng tứ đức thì xã hội được an bình. 1. Tam cương: tam là ba cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi) phụ tử (cha con) phu phụ (vợ chồng). 1. Quân thần: Trong quan hệ vua tôi vua thưởng phạt công minh tôi trung thành một dạ. 2. Phụ tử: Cha hiền con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuổi dạy con cái con phải hiếu đễ và nuôi dưỡng cha khi cha về già. 3. Phu phụ: Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với vợ; vợ chung thủy tuyệt đối với chồng. 2. Ngũ thường: ngũ là năm thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời gồm: nhân nghĩa lễ trí tín. 1. Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật. 2. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải. 3. Lễ: Sự tôn trọng hòa nhã trong khi cư xử với mọi người. 4. Trí: Sự thông biết lý lẽ phân biệt thiện ác đúng sai. 5. Tín: Giữ đúng lời đáng tin cậy. 2. Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo gồm: "tại gia tòng phụ xuất giá tòng phu phu tử tòng tử" 1. Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha 2. Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng 10 3. Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con" 2. Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có là: công - dung - ngôn - hạnh. 1. Công: khéo léo trong việc làm. 2. Dung: hòa nhã trong sắc diện. 3. Ngôn: mềm mại trong lời nói. 4. Hạnh: nhu mì trong tính nết. Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:  Đạt đạo. Đạo có nghĩa là "con đường" hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi đạo cha con đạo vợ chồng đạo anh em đạo bạn bè" (sách Trung Dung) tương đương với "quân thần phụ tử phu phụ huynh đệ bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thườnghay còn gọi là Tam tòng.  Đạt đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn người trí không nghi ngại người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân nghĩa lễ trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân nghĩa lễ trí tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.  Biết thi thư lễ nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức" người quân tử còn phải biết "thi thư lễ nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện. Hành đạo Sau khi tu thân người quân tử phải hành đạo tức là phải làm quan làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia trị quốc bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình cho đến lớn - trị quốc và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:  Nhân trị. Nhân là tình người nhân trị là cai trị bằng tình người là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất 11 của luân lý đạo đức Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).  Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân thần thần phụ phụ tử tử - Vua ra vua tôi ra tôi cha ra cha con ra con" (sách Luận ngữ). Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ. Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị người có đạo đức và biết thi thư lễ nhạc. Tuy nhiên sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân . 1.3 Ảnh hưởng của nho giáo tới hành vi của con người Việt Nam Tư tưởng Nho giáo chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng Trung quốc. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống mọi mặt của xã hội Trung quốc suốt hơn 2000 năm lịch sử và một số nước á đông khác như Nhật bản, Triều tiên, Hàn quốc... Bắt đầu từ thời kỳ nhà Hán cho đến triều Mãn Thanh, Nho giáo đã trở thành tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Muốn duy trì một trật tự xã hội, lý thuyết phương Đông là mong muốn duy trì ổn định xã hội. Ngày nay, dưới góc độ ổn định xã hội thì những bài học triết lý của Nho giáo có tác dụng ổn định quan hệ chính trị - xã hội, quan hệ gia đình. Nho giáo tin tưởng vào bản tính thiện của con người, vì vậy mà rất đề cao giáo dục. Tuy Nho giáo cũng có nhiều tư tưởng về kinh tế, quân sự, ngoại giao nhưng không quán xuyến và sâu sắc. Nho giáo vào Việt nam từ những năm cuối trước Công nguyên. Từ cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho giáo dần dần lấn át Phật giáo và trở thành quốc giáo. Nó được phát triển trong sự ảnh hưởng của truyền thống dân tộc Việt nam và Phật giáo. ảnh hưởng của Nho giáo đối với nước ta có cả mặt tích cực và tiêu cực Ưu điểm: - Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và bảo vệ chủ quyền dân tộc. Công lao của Nho giáo là góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt nam, trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm... 12 Những thể chế chính trị, lễ nghi đạo đức Nho giáo đã du nhập vào Việt nam. Chịu ảnh hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã được phổ biến và phát triển, thể hiện ở các cuộc đua, vui chơi, hoa văn trang trí đền chùa... Các tư tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng tứ đức, thủ tục ma chay, cưới xin, các quy định về tôn ti trật tự,... ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt nam, nhất là bắt đầu từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến. - Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước. Nhiều ý nghĩa giá trị của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được quần chúng nhân dân sử dụng trong nền đạo đức của mình. Ví dụ như: + "Tiên học lễ, hậu học văn" là khẩu hiệu trong các trường học Việt nam từ xưa đến nay. Bác Hồ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của Nho giáo và đã đưa vào đó những nội dung mới như: "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung, hiếu, ..." + Tư tưởng "Trăm năm trồng người" và "Hữu giáo vô loại" (nghĩa là dạy học cho mọi người không phân biệt đẳng cấp) của Khổng Tử đã được Đảng Cộng sản Việt nam vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước. - Ảnh hưởng chính của Nho giáo là thiết lập được kỷ cương và trật tự xã hội. Nho giáo với các tư tưởng chính trị - đạo đức như "Chính danh", "Nhân trị", "Nhân chính" luôn luôn là bài học quý giá và được vận dụng trong suốt lịch sử Việt nam. Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" đã viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", và "Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn Đem chí nhân để thay cường bạo". Đảng ta thực hiện đường lối lấy dân làm gốc với khẩu hiệu: "Dân giàu, nước mạnh" và "Chúng ta không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng". Bác Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ những tư tưởng không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam lúc bấy giờ. Chẳng hạn Khổng Tử cho rằng: "Thứ dân bất nghị" tức là dân thường không có quyền bàn việc nước, còn Bác Hồ đề cao dân chủ. Khổng Tử coi thường vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội thì Bác Hồ chủ trương nam nữ bình quyền. Nhược điểm Nho giáo suy đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt triết học. Nó thường được sử dụng để bảo vệ, củng cố các xã hội phong kiến trong lịch sử. 13 Nho giáo góp phần không nhỏ trong việc duy trì quá lâu chế độ phong kiến ở á Đông nói chung và ở Việt nam nói riêng. Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sản xuất phát triển ở Việt nam. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến thành chủ nghĩa gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, bất bình đẳng. Nho giáo không thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên bởi phương pháp giáo dục thiên lệch của Nho giáo chỉ quan tâm tới đạo đức, học và dạy làm người mà không đề cập đến kiến thức khoa học kỹ thuật. Những mặt tiêu cực đó phản ánh tính chất bảo thủ lạc hậu của Nho giáo ở nước ta. Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam thì tư tưởng chính trị - đạo đức của Nho giáo có ảnh hưởng trên các mặt sau: - Trên lĩnh vực xã hội: Nó có tác dụng ổn định kinh tế - chính trị để phát triển kinh tế. Đó là điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt nam. - Trên lĩnh vực chính trị - đạo đức: Ngày nay áp dụng những tư tưởng của Nho giáo, kế thừa nhữnh mặt tích cực của nó để đạt mục tiêu ổn định kinh tế, xã hội; đặc biệt chú trọng Nho giáo cổ đại (Khổng Tử) chứ không phải Nho giáo sau này (chỉ nhấn mạnh quan hệ một chiều). Đảm bảo nhìn nhận vấn đề một cách hợp lý, duy trì vấn đề phê phán đúng lúc, đặt vấn đề dân chủ trong việc áp dụng những tinh hoa tích cực. Trong kinh doanh phải biết trọng chữ tín, lấy chữ tín làm đầu, trong đó có một vấn đề rất quan trọng là phải quan tâm đúng mức đến chất lượng sản phẩm. 2. Phật giáo ở Việt Nam 2.1 Sự hình thành Vào giữa thiên niên kỉ I TCN, việc duy trì và phân chia, áp bức đẳng cấp đã dẫn đến việc ở Ấn Độ đã xuất hiện một số dòng tư tưởng chống lại đạo Bà-la-môn. Và Đạo Phật chính là một trong những dòng tư tưởng ấy. Đạo Phật ra đời vào khoảng thế kỷ VI TCN ở Bắc Ấn Độ trên vùng đất thuộc Nêpan ngày nay. Theo truyền thuyết, người sang lập ra Đạo Phật là Xitđácta Gootama (Siddharta Gautama). Về niên đại của Phật, thì có một số ý kiến cho rằng Phật sinh năm 563 và mất năm 483 TCN; một số ý kiến khác lại cho rằng Phật sinh năm 624 và mất năm 544 TCN. Xitđátta (Siddharta) là con trai của một vị quốc vương tên Suddhodana, một nước nhỏ thuộc Bắc ấn Độ dưới chân núi Hymalaya ( nay thuộc Nê Pan ). Cuộc đời của Phật Thích Ca được kể lại ở trong truyền thuyết như sau: “ Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của Suđhodana, vua của người Saia mơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng Anavatápta ở Himalaya. Sau khi các thiên thần tắm rửa cho bà ở trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có 14 đoá hoa sen ở vòi bước tới và chui vào sườn bà. Ngày hôm sau các nhà thông thái được mời tới để giải mơ của Hoàng hậu. Các nhà thông thái cho rằng giấc mơ là điềm Hoàng hậu đang có mang và sẽ sinh hạ được một Hoàng tử tuyệt vời, người sau này sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc người thầy của thế giới. Đến ngày, đến tháng, Hoàng hậu Mahamaia trở về nhà cha mình để sinh con. Thế nhưng vừa đến khu vườn Lumbini, cách thủ đô Capilavastu của người Sakia không xa, Hoàng hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã ra đời. Vừa ra đời, vị Hoàng tử tí hon đã đứng ngay dậy, đi bảy bước và nói: “ Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ nay ta không phải luôn hồi một kiếp nào nữa!”. Đến ngày thứ năm một nghi thức trọng thể được tổ chức và Hoàng tử được đặt tên là Siđhartha. Để ngăn cản Hoàng tử không nghĩ tới việc tu hành, đức vua cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai mình một cuộc sống vương giả. Hoàng tử được học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua tài ba anh minh trị vì một đất nước Ấn Độ bao la. Thế rồi, nhà vua và quần thần đã kén cho Hoàng tử một người vợ kiều diễm khi ông 19 tuổi. Nhưng cuộc đời vương giả không ngăn cản được Hoàng tử xuất gia, đi tìm con đường cứu vớt nỗi khổ của chúng sinh. Bốn sự việc do các thần tạo ra đã làm thay đổi hẳn cuộc đời Hoàng tử Siddhartha. Đó là một lần khi đang dạo chơi trong vườn, Hoàng tử thấy một ông già gày còm, ốm yếu rồi nhận ra một điều rằng mọi người rồi ai cũng phải già yếu như thế. ít lâu sau Hoàng tử lại được chứng kiến người ốm và người chết. Ba hoàn cảnh trên làm cho Hoàng tử băn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu con người khỏi những trầm luôn đau khổ của kiếp luôn hồi: Sinh, lão, bệnh, tử chính sự việc thứ tư đã đem đến cho Hoàng tử niềm hi vọng và an ủi. Lần đó, Hoàng tử nhìn thấy một vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị hành khất Hoàng tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như thế. Được tin, đức vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cản Hoàng tử. Thế nhưng Hoàng tử không thể nào xua đi được bốn sự kiện mà mình đã chứng kiến khiến lòng dạ của Hoàng tử không lúc nào được thanh thản. Ngay cả tin mừng công chúa Yashôdhara sinh cho chàng một Hoàng nam cũng không làm cho Hoàng tử Sidhartha vui. Năm 29 tuổi, vào một đêm khi mọi người ngủ say, Hoàng tử lặng lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối rối đánh thức người đánh xe dậy cùng minh cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý rời khỏi cung. Năm 35 tuổi, sau 7 năm tu hành với một cuộc sống khổ hạnh, cuối cùng thì ngài cũng tìm ra chân lí, cách giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do đó cho rằng đã tìm được con đường cứu vớt khi ngài ngồi dưới một 15 gốc cây Bồ Đề. Từ đó trở đi, ngài đi khắp nơi giảng đạo cho đến khi qua đời vào năm 483 ( hay theo một số tài liệu là 544) TCN. Ngài được các đề tử gọi là Xakiamuni (Thích ca mâu ni Phật). 2.2 Nội dung cơ bản của giáo lý Phật giáo Về nội dung chủ yếu của Đạo Phật thì được tóm tắt trong câu nói của Thích ca: “Cũng như nước của đại dương chỉ có một vị mặn. Học thuyết của ta chỉ có một vị là cứu vớt”. Chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy được thể hiện trong thuyết “tứ thánh đế”, “tứ đế”, nghĩa là 4 chân lí thánh. Đó là khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Giáo lý về “tứ diệu đế” là cơ sở tư tưởng và cốt lõi của Đạo Phật. 1. Khổ đế: Phật giáo cho rằng đời là bể khổ. Cái khổ ấy không ngoài 8 nỗi khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly (yêu mà phải xa), oán tăng hội (ghét mà phải ở gần), sở cầu bất đắc (muốn mà không được), thủ ngũ uẩn (khổ vì có sự tồn tại của thân xác). “ Uẩn (skandha) là tập hợp, tích tụ. Đạo Phật cho rằng, con người không có thực thể tự nó (vô ngã) mà chỉ là sự tập hợp 5 thứ: sắc (vật chất tạo thành thân thể), thụ (cảm giác), tưởng (quan niệm), hành (hành động), thức (nhận thức). Vì con người chỉ là tập hợp của 5 thứ đó, nên đó cũng là một nỗi khổ.Như vậy, con người ngoài khổ đau vô tận, không có cái gì khác. 2. Tập đế: Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo đưa ra “Thập nhị nhân duyên” để chỉ ra nguyên nhân của sự khổ. Đó là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Do con người có lòng tham, dâm (giận dữ), si(si mê, cuồng mê, mê muội) và dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do con người không nắm được nhân duyên. Vốn như là một định luật chi phối toàn vũ trụ. Chúng sinh không biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắ, không không. Cái tôi tưởng là có nhưng thực là không. Vì không hiểu được ra nên nỗi khổ triền mien, từ đời này qua đời khác. 3. Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “Thập nhị nhân duyên” để lí giải ra căn nguyên của nỗi khổ, từ đó chấm dứt các nỗi khổ. Nguyên nhân của khổ đau là luân hồi, vì vậy muốn diệt khổ thì cần phải chấm dứt luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi thì phải chấm dứt nghiệp. Đó là một món nợ truyền kiếp từ kiếp này sang kiếp khác do lòng ham muốn tạo nên. Nói chung là muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết ham muốn. Một khi chấm dứt được luân hồi thì sẽ được yên tĩnh, thanh thản, sáng suốt và như vậy đã đạt tới cảnh giới Niết Bàn (Nirvana). 16 4. Đạo đế: Là con người phải theo đế diệt khổ-đó là phương pháp theo đế diệt khổ. Cần phải đào sâu suy nghĩ trong thế giới nội tâm (thực nghiệm tâm linh). Cần phải tu luyện tâm trí, đặc biệt là thực hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi Phật. Con đường đó gọi là “bát chính đạo” (8 con đường đúng đắn), gồm:  Chính kiến: tín ngưỡng đúng đắn, phân biệt rõ phải trái, không để những cái sai che lấp đi sự sáng suốt.  Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn.  Chính ngữ: nói năng đúng đắn, không gian dối, vu oan cho người khác.  Chính nghiệp: hành động đúng đắn.  Chính mệnh: sống đúng đắn, trung thực.  Chính tịnh tiến: mơ tưởng những cái đúng đắn.  Chính niệm: tưởng nhớ những cái đúng đắn.  Chính định: tập trung tư tưởng, suy nghĩ đúng đắn. Chung quy “bát chính đạo” là suy nghĩ, nói năng và hành động một cách đúng đắn. Để thực hiện “Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để ngăn ngừa những điều gian ác gây hại cho mình, thì trong giới luật, tín đồ Phật giáo chủ yếu phải kiêng 5 thứ “Ngũ giới” (năm điều răn) và “Lục độ”, gồm:  “Ngũ giới”:Bất sát: không sát sinh.Bất đạo: không làm điều phi nghĩa.Bất dâm: không dâm dụcBất vọng ngữ: không bịa đặt, không vu oan cho kẻ khác.Bất tửu: không uống rượu.  “Lục độ”:Bố thí: đem công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ không để cầu danh lợi hay ban ơn.Trí giới: trung thành với điều dăn, kiên trì tu luyện.Nhẫn nhục: phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình.Tịnh tiến: cố gắng, nỗ lực vươn lên.Thiền định: tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính là không để cho cái xấu che lấp.Bát nhã: trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu mọi chuyện trên thế gian. 2.3 Sự ảnh hưởng đến hành vi của con người Việt Nam - Đời sống văn hóa xã hội và tinh thần người Việt: + Ở nhiều vùng đất nước số người theo Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, số sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng. +Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày sóc, cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng 17 năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người theo Đạo phật. Mặt khác nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,.. - Phật giáo đã góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết dân tộc. Một trong những sức mạnh đóng vai trò quyết định trong công cuộc giữ vững nền độc lập đất nước. Ý thức được giá trị của tự thân, vai trò và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong xã hội, dân tộc Việt Nam đã liên kết cùng nhau xây dựng thành một khối đại đoàn kết vững mạnh. Giáo lý phật giáo đã dạy cho con người Việt Nam thấy rằng muốn giữ vững nền hòa bình độc lập của đất nước thì tự thân mỗi cá nhân trong xã hội phải nổ lực phấn đấu, không ngồi đó trông chờ hạnh phúc - Giá trị to lớn của giáo lý Phật Giáo là hướng dẫn con người sống sao cho tốt, hành động sao cho thiết thực và có ý nghĩa đối với tự thân, với gia đình và xã hội. Theo tinh thần của Đạo Phật, đoàn kết còn mang một ý nghĩa cao đẹp và rộng mở hơn đó là xa lìa lối sống vị kỷ hẹp hòi. Trên tinh thần đoàn kết, Đạo Phật xây dựng cho dân tộc Việt nam một truyền thống rất đẹp đó là tính chan hòa yêu thương, mở rộng cõi lòng. Nói khác hơn là truyền thống tương thân tương ái. Nêu cao tinh thần tương thân tương ái với phương châm “Nhường cơm xẻ áo”, “ Lá lành đùm lá rách”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Những việc làm ấy phần nào phản ánh được phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Ngoài tính nhân văn khẳng định và đề cao giá trị con người cũng như xây dựng truyền thống tương thân tương ái, triết lý phật giáo còn xây dựng cho dân tộc Việt nam một truyền thống luân lý đạo đức mang tính chất đặc trưng của văn hóa Việt nam. Truyền thống tôn vinh “ Đạo đức”, đó còn là quan niệm “Tích đức” vốn mang tính chất dân tộc tính rất cao - Lễ hội: + Vấn đề lễ hội trong Phật giáo ta thường thấy bản thân Phật giáo không có hội mà chỉ có lễ. Thế nhưng có hai lý do, một là thời Lý – Trần mọi sinh hoạt văn hóa đ ược diễn ra ở ngôi chùa, cho nên lễ hội diễn ra ở chùa được duy trì kéo dài mãi cho đến ngày nay. Hai là ở Phật giáo ngôi chùa đã hỗn dung tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu vào trong đó nên lễ hội diễn ra ở ngôi chùa. Cả hai khía cạnh hội chùa mang tính chất là hội làng. Trong khuôn khổ bài viết này bản thân chỉ nêu một vài lể hội để làm nổi bật sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa xã hội ở nước ta. Ví dụ: Lễ hội Quan Thế Âm: Tín Ngưỡng Quan Âm ở nước ta đã có từ thời Lý với câu chuyện vua Lý Thánh Tông nằm mơ thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên 18 đài sen, giơ tay đón mình lên và ngày nay chùa Một Cột ở Hà nội có liên quan đến tích ấy. Tín ngưỡng Quan Thế Âm ở chùa Hương bắt nguồn từ chuyện Nam Hải Quan Âm của một nhà sư Trung Quốc thời Nguyên du nhập vào nước ta và đã được Việt hóa vào thế kỷ thứ XV. Ngày nay, lễ hội Quan Thế Âm được tổ chức vào ngày 19 tháng 2; 19 tháng 6; và 19 tháng 9 mỗi năm để kỷ niệm ngày hiển linh của Bồ tát. Sau đó, năm 1962 lễ hội được tổ chức tại động Quan Âm, sau ngày hoàn toàn thống nhất đất nước, từ năm 1991 lễ hội được tổ chức lại với quy mô lớn hơn, nội dung phong phú hơn và kéo dài trong ba ngày b ao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung: Lễ rước ánh sáng: Nghi lễ rước ánh sáng thường tổ chức vào tối ngày 18, gồm rước đuốc, rước kiệu, múa lân, múa rồng để cầu mong ánh sáng soi đường cho chúng sinh, mà trong phật giáo ánh sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức trong sáng, sẽ làm nhiều việc thiện. Lễ khai kinh: Lễ được tổ chức vào sáng sớm ngày 19, đây là lễ cầu nguyện cho quốc thái dân an, chúng sinh an lạc. Lễ trai đàn chẩn tế: lễ này cũng được tổ chức vào sáng ngày 19 để cầu siêu, cúng thập loại chúng sinh, thường trước đó đồng bào phật tử gởi danh sách những người thân của mình đã mất đến chùa để làm lễ cầu siêu. 2.4 Ưu, nhược điểm Ưu điểm: + Đa dạng văn hóa tâm linh của người Việt Nam + Duy trì các giá trị đạo đức có từ lâu đời: uống nước nhớ nguồn, trọng đạo hiếu, lòng từ bi bác ái, ….. + Đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người Nhược điểm: + Mê tín dị đoan +Lấy danh Thần Phật để trục lợi, làm điều sai trái 3. Công giáo 3.1 Sự hình thành Thiên Chúa giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ I ở các tỉnh phía đông của đế quốc La Mã với chế độ chiếm hữu nô lệ. Đế chế La Mã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, tạo ra nhiều mâu thuẫn và xung đột gay gắt trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh ấy đã làm nảy sinh những tư tưởng được giải phóng và tự do. Bên cạnh đó, vùng Trung Cận đông là nơi tiếp giáp 3 châu lục, dân cư ở đây vốn theo đa thần giáo, trong quá trình thống nhất của đế chế đã xuất hiện yêu cầu thống nhất về tư tưởng, trong đó có nhu cầu về tôn giáo độc thần, vì vậy Thiên Chúa giáo đã ra đời trên cơ sở của Do Thái giáo vốn đang tồn tại ở vùng này 19 Sự ra đời của TCG gắn với tên tuổi của Giêsu Kitô. Ông sinh ra vào đầu Công nguyên, theo truyền thuyết, bà Maria đã mang thai một cách màu nhiệm và sinh ra ông. Giêsu là người thông minh. Trên cở sở kinh thánh và những nghiên cứu hiện có, ta có thể biết được vài điểm về cuộc sống của Giêsu như sau: + Giêsu là người Do Thái. + Sống ở đầu thế kỷ I sau Công nguyên. + Khoảng 30 tuổi thì bắt đầu truyền, giảng đạo khoảng 3 năm. + Thu nhận và đào tạo 12 người thành Thánh tông đồ. Phêrô là Thánh tông đồ cả. + Bị sự ghen ghét của các phần tử Do Thái giáo. + Sau khi bị kết tội “mưu phản La Mã”, bị đóng đinh chết trên thập tự giá. + Sau khi Giêsu qua đời, Kitô giáo được hình thành. 3.2 Nội dung cơ bản của giáo lý Công giáo + Giáo lý Công giáo là một hệ thống từ giản đơn cho tín đồ đến phức tạp của các học thuyết kinh viện với các quan điểm triết học và thần học siêu hình, căn cứ vào kinh thánh nhưng phải dựa vào những lời giải thích truyền thống và là thẩm quyền của Giáo hội. Tín đồ không có quyền kê cứu kinh thánh. Luật lệ, lễ nghi của Công giáo rất phức tạp (12 tín điều trong kinh tín kính,10 điều răn của Chúa, 6 điều răn của Hội thánh, 7 phép bí tích, 1752 điều luật). Công giáo đề cao thuyết thần quyền tuyệt đối (mọi việc do Chúa định) và thuyết giáo quyền tập trung (Giáo Hoàng là đại diện Thiên chúa ở trần gian). + Kinh thánh theo quan niệm của giáo hội là “lời Chúa truyền dạy đời đời” là một bộ sách gồm 73 quyển được chia làm 2 bộ Tân ước và Cựu ước. Ban đầu Kinh thánh được truyền khẩu trong dân gian. Đến thế kỷ II thì bắt đầu được viết trên da dê, từ thế kỷ IV – VI được viết trên giấy Papêrút và đến thế kỷ VII mới viết thành sách. Kinh thánh là một kho tàng lịch sử và điển tích văn học. Trong Kinh thánh bao gồm toàn bộ toàn bộ quan điểm, tư tưởng của giáo lý và tín điều của các đạo Thiên Chúa. Tùy theo đạo mà số kinh này được chấp nhận theo yêu cầu của giáo lý các đạo. Ví dụ Đạo Chính thống chú trọng 5 cuốn đầu tiên của Kinh Cựu ước. Đạo Tin Lành lại lấy 4 cuốn Kinh Phúc âm làm giáo nghĩa cơ bản…. - Kinh thánh chia làm 2 bộ:  Bộ Cựu ước: có 46 cuốn. Kể về những chuyện trước khi Chúa Giê su ra đời. Bộ này chia làm 4 tập. + Tập 1: Bao gồm 5 cuốn đầu tiên (Ngũ kinh) gồm Sáng thế ký, Xuất hành ký, Lê vi ký, Dân số ký, và Thân 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan