TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á
KHOA KẾ TOÁN – TÀI CHÍNH
GIÁO TRÌNH
THỐNG KÊ TRONG KINH DOANH
Biên soạn: Ths.Đoàn Thị Yến Nhi
Đà Nẵng, năm 2011
1
CHƢƠNG 1
SƠ LƢỢC VỀ THỐNG KÊ HỌC
1.1. SƠ LƢỢC VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC THỐNG KÊ
Trong cơ chế kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh, nhà quản lý, nhà kinh tế có
nhiều cơ hội thuận lợi cho công việc nhưng cũng có không ít thử thách. Vấn đề này đòi
hỏi các chuyên gia đó phải nâng cao trình độ về thống kê. Đây là một trong những điều
kiện tất yếu của kiến thức để cạnh tranh trên thương trường, là yếu tố cần thiết của vấn đề
nghiên cứu xu hướng và dự báo về mức cung cầu, từ đó đưa ra các quyết định tối ưu
trong các lĩnh vực hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế hàng hóa và dịch vụ. Thuật
ngữ “Thống kê” được sử dụng và hiểu theo nhiều nghĩa.
Thứ nhất, thống kê được hiểu là một hoạt động thực tiễn về việc thu thập, tích lũy,
xử lý và phân tích các dữ liệu số. Những số liệu này đặc trưng về dân số, văn hoá, giáo
dục và các hiện tượng khác trong đời sống xã hội. Thứ hai, thống kê có thể hiểu là một
môn khoa học chuyên biệt hay là một ngành khoa học chuyên nghiên cứu các hiện tượng
trong đời sống xã hội nhờ vào mặt lượng của chúng. Như một công cụ, thống kê kinh
doanh là các phương pháp quan trọng của việc lập kế hoạch và dự báo của các nhà kinh
doanh, nhà quản trị, và các chuyên gia kinh tế.
Giữa khoa học thống kê và thực tiễn có mối tương quan và liên hệ mật thiết. Khoa
học thống kê sử dụng các số liệu thực tế từ các cuộc điều tra thống kê, tổng hợp chúng lại
để phân tích, nhận định về hiện tượng nghiên cứu. Ngược lại, trong những hoạt động thực
tiễn, lý thuyết khoa học thống kê được áp dụng để giải quyết cho từng vấn đề quản lý cụ
thể.
Thống kê có lịch sử phát triển qua nhiều thế kỷ. Sự xuất hiện và phát triển của nó
là do nhu cầu thực tiễn của xã hội: Khi cần để tính toán dân số, đất đai canh tác, số gia
súc, số tài sản, v.v... Những hoạt động này xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc từ thế kỷ 23
trước công nguyên. Vào thời La mã cổ đại cũng diễn ra sự ghi chép, tính toán những
người dân tự do, số nô lệ và của cải,… Cùng với sự phát triển của xã hội, hàng hóa trong
nước cũng như trên thị trường thế giới ngày càng tăng lên, điều này đòi hỏi phải có các
thông tin về thống kê. Phạm vi hoạt động của thống kê ngày càng mở rộng, dẫn đến sự
hoàn thiện của các phương pháp thu thập, xử lý và phân tích thống kê. Trong thực tế, các
2
hoạt động đa dạng của thống kê được thể hiện nhờ vào sự tích hợp nhiều nguyên lý, từ đó
khoa học thống kê được hình thành.
Nhiều nhận định cho rằng: Nền tảng của khoa học thống kê được xây dựng bởi
nhà kinh tế học người Anh_Wiliam Petty (1623 – 1687). Từ các tác phẩm “Số học chính
trị”, “Sự khác biệt về tiền tệ” và một số tác phẩm khác nữa, K. Markc đã gọi Petty là
người sáng lập ra môn Thống kê học. Petty đã thành lập một hướng nghiên cứu khoa học
gắn với “Số học chính trị”.
Một hướng nghiên cứu cơ bản khác cũng làm khoa học thống kê phát triển đó là
hướng nghiên cứu của nhà khoa học người Đức G. Conbring (1606 – 1681), ông đã xử lý,
phân tích hệ thống mô tả chế độ Nhà nước. Môn sinh của ông là giáo sư luật và triết học
G. Achenwall (1719 – 1772) lần đầu tiên ở trường Tổng hợp Marburs (1746) đã dạy môn
học mới với tên là “Statistics”. Nội dung chính của khóa học này là mô tả tình hình chính
trị và những sự kiện đáng ghi nhớ của Nhà nước. Số liệu về Nhà nước được tìm thấy
trong các tác phẩm của M.B. Lomonosov (1711 – 1765), trong đó các vấn đề đưa ra xem
xét là dân số, tài nguyên thiên nhiên, tài chính, của cải hàng hóa, ... được minh họa bằng
các số liệu thống kê. Hướng phát triển này của thống kê được gọi là thống kê mô tả.
Sau đó, giáo sư trường Đại học Tổng hợp Gettingen_A. Sliser (1736 – 1809) cải
chính lại quan điểm trên. Ông cho rằng, thống kê không chỉ mô tả chế độ chính trị Nhà
nước, mà đối tượng của thống kê, theo ông, là toàn bộ xã hội.
Xu hướng toán học trong thống kê được phát triển trong công trình nghiên cứu của
Francis Galton (Anh, 1822 – 1911), K. Pearson (Anh, 1857 – 1936), V. S.Gosset (Anh,
biệt hiệu Student, 1876 – 1937), R. A. Fisher (Anh, 1890 – 1962), M.Mitrel (1874 –
1948) và một số nhà toán học khác nữa, …
Góp phần quan trọng cho sự phát triển của thống kê là các nhà khoa học thực
nghiệm. Ở thế kỷ XVIII, trong công trình khoa học của I.C. Kirilov (1689 – 1737) và V.
N. Tatisev (1686 – 1750) thống kê chỉ được luận giải chủ yếu như một ngành khoa học
mô tả. Nhưng sau đó, vào nữa đầu thế kỷ XIX, khoa học thống kê đã chuyển thành ý
nghĩa nhận thức. V.S. Porosin (1809 – 1868) trong tác phẩm Nghiên cứu nhận xét về
nguyên lý thống kê” đã nhấn mạnh: “Khoa học thống kê không chỉ giới hạn ở việc mô
tả”. Còn I.I. Srezenev (1812 – 1880) trong quyển “Kinh nghiệm về đối tượng, các đơn vị
thống kê và kinh tế chính trị” đã nói rằng: “Thống kê trong rất nhiều trường hợp ngẫu
3
nhiên đã phát hiện ra “Những tiêu chuẩn hoá”. Nhà thống kê học danh tiếng D.P. Jurav
(1810 – 1856) trong nghiên cứu “Về nguồn gốc và ứng dụng của số liệu thống kê” đã cho
rằng: “Thống kê là môn khoa học về các tiêu chuẩn của việc tính toán”.
Trong nghiên cứu của giáo sư trường Đại học Bách khoa Peterbur A.A.Truprov
(1874 – 1926), thống kê được xem như phương pháp nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên
và xã hội số lớn. Giáo sư I.U.E. Anson (1835 – 1839, trường Đại học Tổng hợp Peterbur)
trong quyển “Lý thuyết thống kê” đã gọi thống kê là môn khoa học xã hội. Đi theo quan
điểm này có nhà kinh tế học nổi tiếng A.I. Trurov (1842 – 1908) trong tác phẩm “Thống
kê học” đã nhấn mạnh: “Cần nghiên cứu thống kê với qui mô lớn nhờ vào phương pháp
điều tra dữ liệu với đầy đủ số lượng và yếu tố cần thiết để từ đó có thể miêu tả các hiện
tượng xã hội, tìm ra quy luật và các nguyên nhân ảnh hưởng”.
Còn nghiên cứu của nhà bác học A.A. Caufman (1874 – 1919) đã nêu lên quan
điểm về thống kê như là “Nghệ thuật đo lường các hiện tượng chính trị và xã hội”. Như
vậy, lịch sử phát triển của thống kê cho thấy: Thống kê là một môn khoa học, ra đời và
phát triển nhờ vào sự tích lũy kiến thức của nhân loại, rút ra được từ kinh nghiệm nghiên
cứu lý thuyết và thực tiễn, cho phép con người sử dụng để quản lý xã hội.
Trong việc chuẩn bị nhằm có được thông tin chính xác, đầy đủ cho hoạt động kinh
doanh của các nhà quản trị, chuyên viên kinh tế thì những chuyên viên này cần được
trang bị tốt về kiến thức thống kê, bao gồm nhiều môn học. Trước hết, là môn Nguyên lý
thống kê – Môn cơ sở để nghiên cứu, thống kê kinh tế xã hội. Ngoài ra cần môn Thống
kê chuyên ngành, Thống kê doanh nghiệp – Là các phương pháp thống kê, đánh giá phân
tích hoạt động kinh doanh của ngành và doanh nghiệp; môn Dự báo – Dùng dự báo hàng
hóa, dịch vụ thị trường và các hiện tượng khác trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
1.2. CÁC ỨNG DỤNG CỦA THỐNG KÊ TRONG KINH DOANH
Ứng dụng của thống kê trong kinh doanh là rất rộng rãi và thường xuyên
nhưng có thể chia thành hai mảng lớn là:
v Mô tả tóm tắt một khối lượng lớn dữ liệu có liên quan đến hoạt động kinh
doanh như: khách hàng, nhu cầu thị trường, sản phẩm, giá cả, chính sách
Marketing, thị phần, lao động… Nhờ đó, làm bộc lộ bản chất của hiện tượng
nghiên cứu.
4
v Đưa ra các suy luận thống kê như ước lượng, kiểm định các giả thuyết, dự
đoán các hiện tượng số lớn có liên quan đến hoạt động kinh doanh trên cơ sở lấy
mẫu để giảm tối đa thời gian và chi phí nhằm bảo đảm tính kịp thời và hiệu quả
trong kinh doanh.
1.3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM THƢỜNG DÙNG TRONG THỐNG KÊ
1.3.1. Khái niệm thống kê
Thống kê là hệ thống các phương pháp dùng để thu thập và xử lý dữ liệu nhằm
phục vụ cho quá trình nghiên cứu và ra quyết định khi dữ liệu được thu thập trong điều
kiện không chắc chắn.
Cơ sở lý thuyết cho thống kê là lý thuyết xác suất và thống kê toán. Hiện nay
thống kê đã được ứng dụng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực như: thống kê dân số, thống
kê xã hội, thống kê trong kinh doanh, thống kê bảo hiểm, thống kê trong giáo dục, thống
kê trong sinh học, thống kê trong y học,…Trong lĩnh vực kinh tế và kinh doanh, thống kê
đóng vai trò là công cụ cơ bản để phân tích thực trạng tình hình thông qua dữ liệu thu
thập và xử lý nhằm tìm hiểu bản chất và tính quy luật của hiện tượng trong những điều
kiện không gian và thời gian cụ thể.
1.3.2. Tổng thể thống kê và đơn vị tổng thể thống kê
1.3.2.1. Khái niệm
ü Tổng thể thống kê: Tổng thể thống kê là một tập hợp bao gồm các đơn vị (phần tử, yếu
tố, sự vật,...) mà thống kê cần nghiên cứu mặt lượng của chúng.
ü Đơn vị tổng thể: Đơn vị tổng thể là các đơn vị cá biệt cấu thành tổng thể thống kê.
Ví dụ:
·
Tập hợp các xí nghiệp công nghiệp ở một địa phương là một tổng thể thống kê,
còn mỗi một xí nghiệp là một đơn vị tổng thể.
·
Mỗi người dân là một đơn vị tổng thể hợp thành tổng dân số.
1.3.2.2. Các loại tổng thể thống kê
ü Dựa vào sự biểu hiện của đơn vị tổng thể, có các loại tổng thể sau:
·
Tổng thể bộc lộ: Gồm các đơn vị có biểu hiện rõ ràng, dễ xác định.
·
Tổng thể tiềm ẩn: Gồm các đơn vị không thể nhận biết một cách trực tiếp, ranh
giới tổng thể không rõ.
5
ü Dựa vào tính chất cơ bản của các đơn vị có liên quan tới mục đích nghiên cứu, có
các loại tổng thể sau:
·
Tổng thể đồng chất: Gồm các đơn vị giống nhau về các đặc điểm chủ yếu liên
quan tới mục đích nghiên cứu.
·
Tổng thể không đồng chất: Gồm các đơn vị có đặc điểm chủ yếu khác nhau.
ü Dựa vào số đơn vị có trong tổng thể, có các loại tổng thể sau:
·
Tổng thể chung: Gồm tất cả các đơn vị của tổng thể thống kê.
·
Tổng thể bộ phận: Chỉ gồm một phần của tổng thể chung.
ü Trong thực tế, người ta còn phân biệt ra hai loại tổng thể thống kê:
·
Tổng thể hữu hạn (Limited Population): Là tổng thể chỉ có một số lượng đếm
được các đơn vị thống kê.
·
Tổng thể vô hạn (Unlimited Population): Là tổng thể có một số lượng không thể
đếm được các đơn vị thống kê.
1.3.3. Tiêu thức thống kê
Tiêu thức thống kê là các đặc điểm của các đơn vị tổng thể được ta chọn ra để
nghiên cứu.
Chẳng hạn khi nghiên cứu đặc điểm dân số, thường chọn các tiêu thức là: tên, tuổi,
giới tính, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, tình trạng hôn nhân,…
Có 2 loại tiêu thức:
ü Tiêu thức định tính (tiêu thức thuộc tính): Là tiêu thức không thể biểu hiện trực tiếp
bằng con số.
ü Tiêu thức định lượng (tiêu thức số lượng): Là tiêu thức có thể biểu hiện trực tiếp
bằng con số. Các con số này được gọi là các lượng biến.
Lượng biến được chia ra 2 loại:
·
Lượng biến rời rạc: Là lượng biến mà các giá trị có thể có của nó là những số
hữu hạn hay vô hạn, và có thể đếm được.
Ví dụ: Số sinh viên trong 1 trường đại học, số nhân khẩu trong 1 hộ gia đình, số
thành phẩm nhập kho trong 1 ngày tại một phân xưởng,…
·
Lượng biến liên tục: Là lượng biến mà các giá trị có thể có của nó có thể lấp
kín một khoảng trên trục số.
6
Ví dụ: Trọng lượng chiều cao của 1 học sinh, năng suất lao động của một công
nhân…
1.3.4. Chỉ tiêu thống kê
Chỉ tiêu thống kê là biểu hiện khái quát đặc điểm về mặt lượng của toàn bộ tổng
thể trong điều kiện không gian và thời gian nhất định. Có thể chia ra 2 loại chỉ tiêu:
ü Chỉ tiêu khối lượng: phản ánh khái quát đặc điểm về quy mô của tổng thể.
Ví dụ: Tổng dân số của một quốc gia, tổng quỹ lương của một công ty, khối lượng
sản phẩm nhập kho, số lao động của một doanh nghiệp,…
ü Chỉ tiêu chất lượng: phản ánh khái quát đặc điểm về tính chất, trình độ phổ biến,
quan hệ so sánh trong tổng thể. Chỉ tiêu chất lượng thường mang ý nghĩa phân tích và là
kết quả so sánh giữa các chỉ tiêu khối lượng.
Ví dụ: Năng suất lao động trung bình của một công nhân, năng suất thu hoạch một
loại cây trồng, tỷ lệ hộ nghèo tại một địa phương,…
1.3.5. Thang đo trong thống kê
Để lượng hoá các đặc trưng của các quan sát trên tổng thể nghiên cứu nhằm thuận
tiện trong việc xử lý dữ liệu bằng các phương pháp thống kê, người ta tiến hành xây dựng
thang đo khi thu thập dữ liệu. Vậy thang đo là công cụ dùng để mã hóa các biểu hiện
khác nhau của tiêu thức nghiên cứu. Để có thể xử lý dữ liệu trên máy vi tính người ta
thường mã hóa thang đo bằng các con số.
Có thể chia ra 4 loại thang đo (xếp theo sự tăng dần khả năng diễn đạt thông tin
của thang đo) là :
ü Thang đo định danh (Nominal scale): Là loại thang đo dùng để biểu hiện sự khác
nhau về tên gọi, màu sắc, tính chất, đặc điểm,… giữa các đơn vị của 1 tiêu thức định tính.
Người ta thường quy ước dùng các con số 1,2,3,… hay dùng các ký tự A,B,C,…để biểu
hiện thang đo định danh. Các con số của thang đo không nói lên quan hệ hơn kém, không
thể tính toán trên những con số này.
ü Thang đo thứ bậc (Ordinal scale): Là loại thang đo dùng để biểu hiện sự khác nhau
về mặt thứ bậc,… giữa các đơn vị của 1 tiêu thức định tính hay 1 tiêu thức định lượng.
7
Người ta thường quy ước dùng các con số 1,2,3,… để biểu thị thứ bậc từ cao
xuống thấp hay từ thấp lên cao. Như vậy, các con số của thang đo nói lên quan hệ thứ bậc
hơn kém, nhưng không nói lên được khoảng cách giữa các thứ bậc. Có thể tính toán trên
những con số này để biểu hiện đặc trưng chung của tổng thể một cách tương đối.
ü Thang đo khoảng (Interval scale): Là dạng đặc biệt của thang đo thứ bậc, trong đó
mỗi thứ bậc sẽ có khoảng cách đều nhau. Thường sử dụng thang đo khoảng cho tiêu thức
định lượng hay tiêu thức định tính. Người ta thường dùng 1 dãy các con số liên tục và
đều đặn từ 1 đến 5, hay từ 1 đến 7, hay từ 1 đến 10 để biểu hiện các khoảng cách đều
nhau giữa các thứ bậc; 2 con số ở 2 đầu dãy số biểu hiện 2 trạng thái đối nghịch nhau.
Các con số của thang đo khoảng vừa nói lên quan hệ thứ bậc hơn kém, vừa nói lên
khoảng cách giữa các thứ bậc. Có thể tính toán (cộng, trừ) trên những con số này, tuy
nhiên không thể thực hiện được phép chia tỷ lệ giữa chúng bởi vì “giá trị 0” của thang đo
không phải là 1 con số có ý nghĩa thật.
ü Thang đo tỷ lệ (Ratio scale) : Là một dạng đặc biệt của thang đo khoảng, trong đó
trị số 0 của thang đo là 1 con số có ý nghĩa thật. Chỉ sử dụng thang đo này cho tiêu thức
định lượng. Người ta thường biểu thị thang đo tỷ lệ bằng 1 dãy các con số thực của chính
tiêu thức. Các con số của thang đo tỷ lệ vừa nói lên quan hệ thứ bậc hơn kém, vừa nói lên
khoảng cách giữa các thứ bậc; vừa nói lên quan hệ so sánh về mặt tỷ lệ giữa chúng.
Thang đo tỷ lệ biểu hiện được nhiều thông tin nhất trong hệ thống thang đo thống kê.
8
CHƢƠNG 2
THỐNG KÊ MÔ TẢ DỮ LIỆU CHÉO
Dữ liệu chéo mới thu thập được thường rất nhiều và lộn xộn. Chúng ta sẽ bị
nhiễu loạn và rất khó nhận thức được điều gì hữu ích về hiện tượng trước một khối lượng
lớn dữ liệu như vậy. Các phương pháp thống kê mô tả dữ liệu chéo sẽ giúp ta loại bỏ các
nhiễu loạn và làm bộc lộ các đặc trưng cơ bản nhất, đáng quan tâm về hiện tượng nghiên
cứu.
2.1. SẮP XẾP DỮ LIỆU
Sắp xếp dữ liệu theo từng tiêu thức thường là công việc trước tiên giúp ta có cái
nhìn khái quát về sự biến thiên của dữ liệu, phát hiện giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất, số
lượng các giá trị theo từng tiêu thức. Qua đó, nhà thống kê có quyết định nên xử lý dữ
liệu như thế nào cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
2.1.1. Cách thức sắp xếp dữ liệu
Việc sắp xếp được tiến hành theo từng tiêu thức một. Với dữ liệu định tính trên
thang đo định danh thì sắp xếp theo vần A, B, C hoặc theo số thứ tự danh định. Với dữ
liệu định tính trên thang đo thứ bậc thì sắp xếp theo thứ bậc. Với dữ liệu định tính trên
thang đo tỷ lệ hay khoảng thì sắp xếp theo độ lớn.
Ví dụ:
Dữ liệu về 20 khách hàng được sắp xếp sơ bộ theo tiêu thức độ tuổi có dạng như
sau:
Thứ tự khách hàng
của dữ liệu ban đầu
3
8
4
9
1
5
2
7
10
6
Độ tuổi
21
23
24
24
26
26
26
26
26
26
Thứ tự khách hàng của dữ
liệu ban đầu
13
16
12
15
11
14
17
20
18
19
Độ tuổi
28
28
28
28
28
32
32
32
33
35
9
Bảng dữ liệu sắp xếp rút gọn của dữ liệu nói trên là như sau:
Độ tuổi
Số khách hàng
21
1
23
1
24
2
26
6
28
5
32
3
33
1
35
1
2.1.2. Biểu đồ nhánh và lá
2.1.2.1. Khái niệm
Biểu đồ nhánh và lá là một hình thức trình bày dữ liệu bằng cách tách mỗi con số
trong dữ liệu ra làm 2 phần: phần lá tương ứng với các chữ số ở bên phải, phần
nhánh tương ứng với các chữ số bên trái. Việc phân chia ra 2 phần nhánh và lá chỉ có
tính quy ước và có thể thay đổi linh hoạt theo đặc điểm của dữ liệu. Nếu phần lá quá dài,
ta có thể tách phần nhánh ra làm 2 phần : nhánh trên và nhánh dƣới để biểu đồ được
cân đối hơn.
Ví dụ:
Với dữ liệu về mẫu là: 52, 53, 54, 54, 55, 55, 56, 59, 60, 60, 60, 60, 60, 60, 61, 61,
62, 62, 64, 65, 65, 66, 66, 66, 67, 68, 68, 71, 71, 72, 74, 75, 77, 78.
Ta có thể trình bày dưới dạng biểu đồ nhánh và lá như sau:
Nhánh Lá
2 3 4 4 5 5 6 9
5
0 0 0 0 0 0 1 1 2 2 5 6 6 6 7 8 8
6
1 1 2 4 5 7 8
7
Hoặc trình bày dưới dạng nhánh trên và nhánh dưới như sau:
Nhánh Lá
2 3 4 4
5
5 5 6 9
5
0 0 0 0 0 0 1 1 2 2 4
6
5 6 6 6 7 8 8
6
1 1 2 4
7
5 7 8
7
10
2.1.2.2. Đặc điểm
Là hình thức trình bày dữ liệu thích hợp đối với khối dữ liệu nhỏ. Biểu đồ nhánh
và lá có dạng giống như biểu đồ phân phối tần số khi ta quay biểu đồ ngược chiều kim
đồng hồ lên trên 1 góc 90 độ. Biểu đồ giúp ta quan sát chi tiết từng dữ liệu thu thập được
trên từng đơn vị; giúp ta hình dung được đặc điểm phân phối của dữ liệu trên các đơn vị
của tổng thể.
2.2. PHÂN TỔ THỐNG KÊ
2.2.1. Khái niệm, ý nghĩa của phân tổ thống kê
a.
Khái niệm
Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hay một số tiêu thức nào đó để tiến hành phân
chia các đơn vị của tổng thể ra thành các tổ hoặc các tiểu tổ có tính chất khác nhau.
Ví dụ:
ü Căn cứ vào giới tính chia toàn bộ nhân khẩu ra thành 2 tổ: nam và nữ.
ü Căn cứ vào quy trình vận động tự nhiên của sản phẩm, người ta chia toàn bộ các
hoạt động của nền kinh tế ra thành 3 khu vực: Khai thác, chế biến, dịch vụ.
b. Ý nghĩa
Phân tổ thống kê có nhiều tác dụng có nhiều tác dụng quan trọng trong toàn bộ
quá trình nghiên cứu thống kê:
ü Thường được sử dụng để phân loại các đơn vị điều tra ra thành các tổ khác nhau để
tiến hành thu thập thông tin được thuận lợi.
ü Phân tổ thống kê là phương pháp cơ bản để tiến hành tổng hợp thống kê.
ü Phân tổ thống kê là phương pháp quan trọng của phân tích thống kê đồng thời là cơ
sở để vận dụng các phương pháp thống kê khác.
2.2.2. Các nhiệm vụ của phân tổ thống kê
Phân tổ thống kê giải quyết 3 nhiệm vụ cơ bản:
a. Phân chia hiện tượng kinh tế xã hội ra thành các loại hình KT_XH khác nhau
Để thực hiện nhiệm vụ này, thống kê sử dụng phương pháp phân tổ phân loại. Khi
tiến hành phân tổ phân loại trước hết, người ta căn cứ vào tiêu thức thuộc về bản chất
của hiện tượng để tiến hành phân chia các đơn vị hiên tượng ra thành các loại khác nhau
về bản chất.
11
Ví dụ: Căn cứ vào chức năng và nguồn kinh phí cho các hoạt động, người ta chia
toàn bộ các hoạt động trong nền kinh tế ra thành 6 khu vực thể chế (Tài chính, phi tài
chính, nhà nước, hộ, quan hệ với nước ngoài, vô vị lợi).
b. Biểu hiện kết cấu của hiện tượng
ü Để thực hiện nhiệm vụ này thống kê sử dụng phương pháp phân tổ kết cấu.
ü Khi tiến hành phân tổ kết cấu trước hết người ta dựa trên căn cứ nào đó để chia
tổng thể nghiên cứu ra thành các tổ khác nhau và sau đó tính toán tỷ trọng của mỗi tổ
chiếm trong tổng thể.
Ví dụ: Cơ cấu kinh tế của địa phương A như sau:
Khu vực
Khai thác
Chế biến
Dịch vụ
Tổng
GDP ( Tỷ đồng)
20.000
30.000
50.000
100.000
Tỷ trọng
20 %
30 %
50 %
100 %
c. Biểu hiện mối liên hệ giữa các hiện tượng và các tiêu thức
ü Để thực hiện nhiệm vụ này, thống kê sử dụng phương pháp phân tổ liên hệ.
ü Khi tiến hành phân tổ liên hệ, người ta phân biệt các tiêu thức liên hệ với nhau
thành tiêu thức nguyên nhân và kết quả:
·
Tiêu thức nguyên nhân là tiêu thức gây ảnh hưởng.
·
Tiêu thức kết quả là tiêu thức chịu ảnh hưởng bởi tiêu thức nguyên nhân.
ü Tổng thể trước hết được phân tổ theo một tiêu thức (tiêu thức nguyên nhân) rồi
sau đó tiếp tục tính trị số bình quân hoặc số tương đối riêng cho từng tổ đối với tiêu thức
còn lại (tiêu thức kết quả), so sánh sự biến thiên giữa hai tiêu thức để rút ra kết luận về
sự tồn tại và tính chất của mối quan hệ.
Ví dụ:
Để nghiên cứu mối quan hệ giữa mức bón phân hữu cơ và năng suất lúa vụ đông
xuân ở một nông trường trong năm 2007, người ta đã tiến hành phân tổ liên hệ như sau:
(Tổng thể nghiên cứu : Diện tích trồng lúa)
Mức bón phân
(Tấn/ha)
Dưới 2
2-3
3-4
Diện tích lúa
(Ha)
100
150
300
Sản lƣợng
(Tạ)
6000
9300
19350
Năng suất bình quân
(Tạ/Ha)
60
62
64.5
12
4-5
5 trở lên
Tổng
250
50
850
16750
3500
54900
67
70
64.6
à Kết luận: Trong những điều kiện nhất định, mức bón phân càng tăng thì năng
suất lúa càng cao.
2.2.3. Các vấn đề chủ yếu của phân tổ thống kê
a. Tiêu thức phân tổ
ü Là tiêu thức được lựa chọn làm căn cứ để tiến hành phân tổ thống kê.
ü Lựa chọn tiêu thức phân tổ là vấn đề quan trọng đầu tiên của phân tổ thống kê,
cần phải được đề ra và giải quyết chính xác. Muốn lựa chọn tiêu thức phân tổ chính xác
cần chú ý các vấn đề sau:
·
Phải dựa trên cơ sở phân tích lý luận hiện tượng xã hội, nắm vững bản chất của
hiện tượng để lựa chọn tiêu thức bản chất nhất đáp ứng mục đích nghiên cứu.
Ví dụ:
Muốn phân tổ các doanh nghiệp công nghiệp ở 1 địa phương để nghiên cứu quy
mô của chúng thì phải dựa vào trình độ công nghệ để lựa chọn tiêu thức phân tổ cho phù
hợp trong số các tiêu thức sau:
o Số lao động
o Giá trị tài sản cố định
o Vốn sản xuất
o Giá trị sản xuất
·
Phải căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể để lựa chọn tiêu thức phân tổ phù hợp
với mục đích nghiên cứu.Ví dụ, để nghiên cứu về tình hình đời sống của nhân dân
trước Cách mạng Tháng Tám thì tiêu thức phân tổ phù hợp là số ruộng đất sở hữu.
Nhưng hiện nay tiêu thức đó không còn phù hợp.
·
Tùy theo đặc điểm của hiện tượng và mục đích nghiên cứu để quyết định chọn
một hay một số tiêu thức phân tổ. Phân tổ theo một tiêu thức gọi là phân tổ giản
đơn còn phân tổ theo nhiều tiêu thức gọi là phân tổ kết hợp.
ü Nói chung hiện tượng KT_XH thường là các hiện tượng phức tạp nên phân tổ
kết hợp nhiều tiêu thức để cho phép nghiên cứu nhiều mặt của hiện tượng. Tuy nhiên, kết
quả phân tổ rất phức tạp nên trên thực tế người ta thường kết hợp 2 hay 3 tiêu thức cho
13
một phân tổ và thấy nếu không cần thiết thì có thể sử dụng nhiều bản phân tổ kết hợp với
nhau.
b. Số tổ và khoảng cách tổ
Số tổ cần thiết phụ thuộc vào tính chất của tiêu thức phân tổ.
ü Phân tổ theo tiêu thức thuộc tính:
Trong trường hợp này các tổ được hình thành là do sự khác nhau của các hiện
tượng kinh tế xã hội khác nhau tồn tại trong bản thân của hiện tượng.
·
Trường hợp giản đơn: Khi tiêu thức thuộc tính có ít dấu hiệu.
Ví dụ : Giới tính (2), thành phần kinh tế (5),…
Trong trường hợp này, mỗi biểu hiện là cơ sở hình thành 1 tổ và trong thực tế số tổ
đã có sẵn từ trước.
·
Trường hợp phức tạp: Khi tiêu thức thuộc tính có nhiều dấu hiệu.
Ví dụ: Nghề nghiệp của nhân khẩu, công dụng của hàng hóa,…
Trong trường hợp này người ta tiến hành ghép nhiều biểu hiện vào 1 tổ hoặc ghép
nhiều tổ nhỏ thành tổ lớn theo nguyên tắc các biểu hiện hoặc các tổ ghép lại với hau phải
giống nhau về tính chất, về loại hình, về công dụng chủ yếu,… Trên thực tế, phân tổ nhân
khẩu theo nghề nghiệp và phân tổ hàng hóa theo công dụng, người ta thường dựa vào
danh mục nghề nghiệp và hàng hóa do nhà nước quy định.
ü Phân tổ theo tiêu thức số lượng:
Trong trường hợp này các tổ được hình thành là do sự biến thiên về lượng biến
của tiêu thức.
·
Trường hợp giản đơn: Khi lượng biến biến thiên ít như số nhân khẩu trong hộ
gia đình, số máy do một công nhân đảm nhận,... Trong trường hợp này mỗi
mức lượng biến là cơ sở để hình thành 1 tổ.
·
Trường hợp phức tạp: Khi lượng biến biến thiên nhiều như độ tuổi của nhân
khẩu, thu nhập của người lao động, lợi nhuận của các doanh nghiệp,… Trong
trường hợp này người ta vẫn dựa vào quy luật lượng biến, chất biến để ghép
nhiều mức lượng biến, chất biến vào một tổ, và khi đó, mỗi tổ sẽ bao gồm 1
phạm vi lượng biến với 2 giới hạn rõ rệt là giới hạn dưới và giới hạn trên.
Trong đó:
14
o Giới hạn dưới là mức lượng biến nhỏ nhất của tổ, đó là mức lượng biến làm
cho tổ được hình thành.
o Giới hạn trên là mức lượng biến lớn nhất của tổ, nếu vượt qua giới hạn này
thì tính chất của hiện tượng thay đổi và chuyển sang tổ khác.
Chênh lệch giữa giới hạn trên và giới hạn dưới gọi là trị số khoảng cách tổ.
Gọi di là trị số khoảng cách tổ của tổ.
Nếu di = d ( ): Phân tổ có khoảng cách tổ đều.
Nếu : di dj: Phân tổ có khoảng cách không đều
Việc phân tổ có khoảng cách đều hay không đều còn tuỳ thuộc vào mục đích
nghiên cứu và đặc điểm biến thiên lượng biến của tiêu thức. Làm sao để sự khác nhau về
lượng giữa các tổ phải phản ánh sự khác nhau về chất của tổ đó.
Ví dụ: Nghiên cứu ảnh hưởng của cơ cấu tuổi của dân số đối với quá trình tái sản
xuất dân số. (Đơn vị tính: người)
Phân tổ có khoảng cách tổ đều:
Độ tuổi
0-4
5-9
10 - 14
15 - 19
80 trở lên
Tổng
Phân tổ có khoảng cách không đều:
Độ tuổi
0-14
15-49
50 trở lên
Số nhân khẩu nữ
15.000
45.000
56.000
56.000
56.000
228.000
Số nhân khẩu nữ
45.000
56.000
56.000
Trong đó phân tổ có khoảng cách đều tương đối đơn giản và trị số khoảng cách tổ
được xác định theo các công thức sau:
+ Đối với lượng biến rời rạc:
+ Đối với lượng biến liên tục:
Trong đó: xmax , xmin : là lượng biến lớn nhất, nhỏ nhất của tiêu thức nghiên cứu.
n
v
là số tổ cần chia.
Chú ý:
15
F Khi phân tổ tổng thể đối với trường hợp lượng biến rời rạc, có thể sử dụng công
thức của trường hợp lượng biến liên tục nếu giới hạn trên và giới hạn dưới của các tổ
trùng nhau.
F Ngoài trường hợp phân tổ có khoảng cách tổ khép kín còn có phân tổ có khoảng
cách tổ mở, đó là trường hợp tổ đầu tiên không có giới hạn dưới và tổ cuối cùng không có
giới hạn trên.
c. Các chỉ tiêu giải thích
Trong phân tổ thống kê, sau khi đã xác định được số tổ cần thiết còn phải xác định
các chỉ tiêu giải thích. Các chỉ tiêu giải thích giúp chúng ta thấy rõ các đặc trưng của toàn
tổ cũng như của toàn tổng thể làm căn cứ so sánh từng tổ với nhau và tính toán các chỉ
tiêu phân tích khác. Muốn chọn các chỉ tiêu giải thích cần chú ý các vấn đề sau:
F Phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu và đặc điểm của hiện tượng để lựa chọn các
chỉ tiêu giải thích cho phù hợp.
F Các chỉ tiêu giải thích phải có mối liên hệ với nhau, bổ sung nhau nhằm giúp việc
nghiên cứu được sâu sắc.
F Các chỉ tiêu có tác dụng trong việc so sánh đối chiếu với nhau cần được sắp xếp gần
nhau. Chẳng hạn chỉ tiêu tuyệt đối gần với chỉ tiêu tương đối, thực tế gần với kế hoạch.
2.3. BẢNG THÓNG KÊ VÀ ĐỒ THỊ THỐNG KÊ
2.3.1. Bảng thống kê
2.3.1.1. Ý nghĩa và tác dụng
ü Bảng thống kê là một hình thức trình bày các tài liệu thống kê một cách có hệ thống,
hợp lý và rõ ràng nhằm nêu lên các đặc trưng về lượng của hiện tượng nghiên cứu.
ü Bảng thống kê giúp ta tổng hợp, phân tích và nhận định chung về hiện tượng nghiên
cứu.
2.3.1.2. Cấu tạo chung của bảng thống kê
ü Về nội dung: gồm có chủ đề, phần giải thích và nguồn số liệu.
ü Về hình thức: Bảng thống kê bao gồm các hàng ngang, cột dọc, tiêu đề và các con
số.
Mô hình chung của bảng thống kê như sau:
Phần giải thích
Các hàng
Các chỉ tiêu giải thích
( Tên cột )
16
của bảng
Số hiệu các cột
Hàng chung
Cột chung
Các cột của bảng
Phần chủ đề
(1)
(2)
(3)
(…)
(n)
Ví dụ:
Nghiên cứu ảnh hưởng của cơ cấu tuổi của dân số đối với quá trình tái sản xuất
dân số. (Đơn vị tính: người)
Độ tuổi
0-4
5-9
10 - 14
15 - 19
80 trở lên
Tổng
Số nhân khẩu
16.000
44.000
55.000
57.000
56.000
229.000
2.3.1.3. Các loại bảng thống kê
Bảng đơn giản: Là bảng trong đó phần chủ đề chỉ liệt kê các đơn vị, bộ phận của
tổng thể.
17
ü Bảng phân tổ: Trong đó đối tượng nghiên cứu ghi trong phần chủ đề được chia
thành các tổ theo một tiêu thức nào đó.
ü Bảng kết hợp: Là loại bảng trong đó đối tượng nghiên cứu ghi ở phần chủ đề
được phân tổ theo hai ba tiêu thức kết hợp với nhau.
2.3.1.4. Những yêu cầu trong việc xây dựng bảng thống kê
ü Quy mô bảng không nên quá lớn (tức là không nên phân tổ kết hợp nhiều tiêu
thức và quá nhiều chỉ tiêu).
ü Các tiêu đề và tiêu mục cần được ghi chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu.
ü Các hàng và cột nên ký hiệu bằng chữ hoặc bằng số để thuận lợi cho việc trình
bày hoặc giải thích nội dung.
ü Các chỉ tiêu cần được sắp xếp một cách hợp lý.
ü Phần ghi chú ở cuối bảng dùng để nói rõ nguồn tài liệu hoặc giải thích nội dung
một số chỉ tiêu.
Các qui ước thường dùng trong bảng thống kê:
F Không có số liệu: trong ô ghi (-)
F Số liệu còn thiếu: ba chấm (...)
F Hiện tượng không liên quan: (x)
2.3.2. Đồ thị thống kê
2.3.2.1. Khái niệm
Đồ thị thống kê là phương pháp dùng các hình vẽ hoặc đường nét hình học với các
màu sắc thích hợp để trình bày đặc trưng về các mặt lượng của hiện tượng kinh tế xã hội.
Ví dụ: Có tài liệu về doanh thu của doanh nghiệp X như sau:
Năm
2002 2003 2004 2005
Chỉ tiêu
Doanh thu
100
120
180
200
(triệu đồng)
Từ tài liệu trên, ta có thể biểu diễn bằng đồ thị như sau:
2.3.2.2. Đặc điểm của đồ thị thống kê
ü Bảng thống kê chỉ liệt kê số liệu còn đồ thị sử dụng số liệu kết hợp với hình vẽ,
đường nét và màu sắc thích hợp để mô tả đặc trưng về mặt lượng của hiện tượng.
18
ü Đồ thị thống kê chỉ trình bày một cách khái quát các đặc điểm chủ yếu của hiện
tượng. Tuy nhiên các đặc trưng và xu hướng của hiện tượng nghiên cứu thường được dễ
thấy hơn nếu không chỉ để số liệu trong bảng thống kê mà còn được trình bày bằng đồ thị
thống kê.
2.3.2.3. Quy tắc xây dựng đồ thị thống kê
Đồ thị thống kê phải đảm bảo yêu cầu chính xác dễ xem dễ hiểu, ngoài ra còn phải
thể hiện tính thẩm mỹ của nó.
2.3.2.4. Các loại đồ thị thống kê
F Đồ thị thống kê có các loại sau:
ü Đồ thị so sánh
ü Đồ thị phát triển
ü Đồ thị kết cấu
ü Đồ thị thực hiện kế hoạch
ü Đồ thị liên hệ
ü Đồ thị phân phối
·
·
·
F Căn cứ vào các hình thức biểu hiện đồ thị thống kê có các loại sau:
Biểu đồ hình thanh
Biểu đồ hình tròn.
Đồ thị đường gấp khúc
Ví dụ:
Đồ thị biểu diễn cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo thành phần kinh tế:
2.4. MÔ TẢ THỐNG KÊ BẰNG CÁC SỐ ĐO ĐẶC TRƢNG
2.4.1. Số tuyệt đối trong thống kê
2.4.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa
a.
Khái niệm
Số tuyệt đối trong thống kê là mức độ biểu hiện quy mô, khối lượng của hiện
tượng trong điều kiện thời gian và không gian nhất định.
Ví dụ:
ü Số lượng công nhân trong danh sách của công ty A vào ngày 1/1/2006 là 580 người.
ü Giá trị gia tăng của công ty X trong quý I/2006 là 15 tỷ đồng.
b.
Đặc điểm
19
Khác với các đại lượng tuyệt đối trong toán học có tính chất trừu tượng, các số
tuyệt đối trong thống kê bao giờ cũng có nội dung kinh tế, chính trị, xã hội,... nhất định.
Do đó, muốn có số tuyệt đối trong thống kê chính xác và có ý nghĩa thực tế cần phải xác
định rõ nội dung mà chỉ tiêu cần phản ánh, đồng thời phải tổ chức điều tra, tính toán một
cách khoa học.
c.
Ý nghĩa
ü Số tuyệt đối phản ánh quy mô khối lượng thực tế của hiện tượng trong điều kiện
thời gian và không gian nhất định. Vì vậy thường được sử dụng để phản ánh các thành
quả phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, các nguồn tài nguyên, các khả năng tiềm tàng
trong nền kinh tế.
ü Số tuyệt đối là cơ sở đầu tiên của quá trình nghiên cứu thống kê, đồng thời là căn cứ
để tính cá chỉ tiêu khác như số tương đối, số bình quân,...
2.4.1.2. Các loại số tuyệt đối
Theo nội dung phản ánh, số tuyệt đối được phân thành hai loại:
Số tuyệt đối thời kỳ
a.
Số tuyệt đối thời kỳ phản ánh quy mô, khối lượng của hiện tượng trong một độ dài
thời gian nhất định. Đó là kết quả phát triển và tích luỹ của hiện tượng trong suốt cả thời
kỳ nghiên cứu. Thời kỳ càng dài thì trị số của chỉ tiêu càng lớn và ngược lại.
Số tuyệt đối thời điểm
b.
Số tuyệt đối thời điểm phản ánh quy mô, khối lượng của hiện tượng tại một thời
điểm nhất định. Khác với số tuyệt đối thời kỳ, số tuyệt đối thời điểm chỉ phản ánh trạng
thái của hiện tượng tại thời điểm nghiên cứu. Vì vậy, việc cộng dồn các số tuyệt đối thời
điểm không có ý nghĩa thực tiễn.
2.4.1.3. Đơn vị tính số tuyệt đối
Tuỳ theo đặc điểm của hiện tượng và mục đích nghiên cứu mà thống kê sử dụng
loại đơn vị phù hợp, thích hợp để tính số tuyệt đối. Trong nghiên cứu thống kê thường sử
dụng các loại đơn vị sau:
a. Đơn vị hiện vật: là loại đơn vị tính phù hợp với đặc điểm vật lý của hiện tượng.
Ví dụ: kg, tạ, mét,...; người, cái, con,... Đơn vị kép: kw/h, tấn/km,...
ü Ưu điểm: Cho phép phản ánh lượng giá trị sử dụng thực tế chứa trong một lượng
sản phẩm.
20
- Xem thêm -