Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của việt nam hi...

Tài liệu Giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của việt nam hiện nay

.PDF
125
654
52

Mô tả:

MỤC LỤC Lời mở đầu................................................................................................................. 1 Chương I. Những vấn đề lý luận chung về giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu ...................................... 5 1.1. Khái quát về giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu .................................................. 5 1.1.1. Khái niệm chung về giao nhận ...................................................................... 5 1.1.1.1. Khái niệm về giao nhận, dịch vụ giao nhận, người giao nhận ................. 5 1.1.1.2. Đặc điểm của giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu .................................. 7 1.1.1.3. Phân loại giao nhận ................................................................................ 8 1.1.2. Nội dung của hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu ........................ 9 1.1.2.1. Thay mặt cho người gửi hàng ................................................................. 9 1.1.2.2. Thay mặt cho người nhận hàng ............................................................ 11 1.1.2.3. Các dịch vụ khác của người giao nhận ................................................. 11 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của người giao nhận và hoạt động giao nhận...................... 11 1.1.3.1. Vai trò của người giao nhận ................................................................. 12 1.1.3.2. Ý nghĩa của hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu .................. 13 1.2. Những vấn đề chung về quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá XNK ................. 17 1.2.1. Khái niệm về quản lý và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá XNK ........ 17 1.2.2. Sự cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu ............................................ 19 1.2.3. Quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu ............................... 21 1.2.4. Điều kiện để được phép hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận ............... 24 Chương II. Thực trạng giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá XNK của Việt Nam trong thời gian qua ............................. 27 2.1. Thực trạng hoạt động giao nhận ở Việt Nam....................................................... 27 2.1.1. Sự ra đời và phát triển hoạt động giao nhận ở Việt Nam ............................. 27 2.1.2. Thực trạng hoạt động giao nhận ở Việt Nam ............................................... 31 2.1.2.1. Các loại hình doanh nghiệp giao nhận hoạt động ở Việt Nam............... 31 2.1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật của hoạt động giao nhận .................................. 33 2.1.2.3. Sự cạnh tranh trên thị trường giao nhận vận tải hiện nay ...................... 35 2.1.3. Nhận xét về thực trạng hoạt động giao nhận ở Việt Nam ............................ 39 2.1.3.1. Thành quả đạt được .............................................................................. 39 2.1.3.2. Khó khăn tồn tại ................................................................................... 41 2.2. Thực trạng hoạt động quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá XNK ở VN ........... 44 2.2.1. Cơ sở pháp lý cho việc quản lý hoạt động giao nhận ở Việt Nam ................ 44 2.2.1.1. Các văn bản pháp luật của VN liên quan tới hoạt động giao nhận......... 44 2.2.1.2. Các nguồn luật quốc tế liên quan đến hoạt động giao nhận ................... 61 2.2.2. VIFFAS và công tác quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá XNK .............. 66 2.2.3. Kết quả hoạt động quản lý dịch vụ giao nhận ở Việt Nam ........................... 72 2.2.3.1. Ưu điểm ............................................................................................... 72 2.2.3.2. Nhược điểm ......................................................................................... 73 Chương 3: Những giải pháp nhằm phát triển hoạt động giao nhận và tăng cường quản lý hoạt động giao nhận của Việt Nam...................... 77 3.1. Tính tất yếu phát triển hoạt động giao nhận và tăng cường quản lý hoạt động giao nhận của Việt Nam ........................................................ 77 3.2. Kinh nghiệm quản lý hoạt động giao nhận của một số nước................................ 81 3.2.1. Ở Mỹ .......................................................................................................... 81 3.2.2. Ở Anh ......................................................................................................... 83 3.2.3. Ở một số nước Châu Á................................................................................ 85 3.3. Các giải pháp cụ thể nhằm phát triển hoạt động giao nhận và tăng cường quản lý hoạt động giao nhận của Việt Nam ...................................... 87 3.3.1. Nhóm giải pháp phát triển hoạt động giao nhận .......................................... 87 3.3.2. Nhóm giải pháp tăng cường quản lý hoạt động giao nhận ........................... 96 Kết luận .................................................................................................................. 105 Tài liệu tham khảo Phụ lục -1- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển dần sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa và vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Nền kinh tế mở cửa đã tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển, đảm bảo sự lưu thông hàng hóa với các nước, khai thác tiềm năng và thế mạnh trong nước cũng như thế giới. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta tăng mạnh, quan hệ buôn bán với nước ngoài ngày càng mở rộng, lượng hàng hoá xuất nhập khẩu hàng năm tăng đáng kể. Một trong những dịch vụ phục vụ đắc lực cho hoạt động xuất nhập khẩu là giao nhận vận tải quốc tế. Chính sách mở cửa hội nhập với nước ngoài đã tạo ra những cơ hội mới cho nền kinh tế Việt Nam, tạo ra thị trường to lớn đầy tiềm năng nhưng cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Giao nhận hàng hoá là một trong những khâu vô cùng quan trọng, nó thúc đẩy quá trình dịch chuyển hàng hoá từ người bán đến người mua diễn ra nhanh chóng hơn, thuận tiện hơn, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện có hiệu quả các hợp đồng mua bán ngoại thương. Cho nên, tuy mới ra đời nhưng nó đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong ngành vận tải và trong nền kinh tế quốc dân. Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, đáng chú ý là từ năm 1990 trở lại đây, ngành nghề dịch vụ giao nhận đã phát triển mạnh cả về số lượng kim ngạch, quy mô hoạt động cũng như phạm vi thị trường với nước ngoài. Đây là một loại hình dịch vụ thương mại không cần đầu tư nhiều vốn nhưng lợi nhuận tương đối ổn định. Ta có thể nhận định rằng việc phát triển kinh doanh dịch vụ giao nhận kho vận ở nước ta đã mang lại những hiệu quả kinh tế thiết thực. Người làm dịch vụ giao nhận đã kịp thời xâm nhập thị trường, mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài, tổ chức các tuyến đường vận tải, đưa hàng hoá đi và đến đáp ứng yêu cầu của người xuất nhập khẩu. -2- Tuy nhiên, dù đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận nhưng hoạt động của ngành giao nhận Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn thiện và phát triển nên vẫn còn tồn tại không ít bất cập, trong đó nổi lên vấn đề khá bức xúc đối với cả doanh nghiệp trong ngành và Nhà nước là việc quản lý và kiểm soát hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu, hoàn thiện nghiệp vụ và nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam là vấn đề cấp thiết cần phải được đưa ra nghiên cứu nhằm tìm ra biện pháp để tạo nền tảng ổn định cho sự phát triển của ngành. Và đấy cũng là lý do để người viết chọn đề tài: “Giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu: Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu của các nghiên cứu sinh, cũng như một số bài viết của sinh viên trường Đại học Ngoại thương và sinh viên một số trường khác về hoạt động giao nhận, vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, đường hàng không... Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập tới tình hình quản lý hoạt động giao nhận của Việt Nam hiện nay và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giao nhận nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập. 3. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu và công tác quản lý hoạt động giao nhận của Việt Nam hiện nay, xác định được điểm mạnh, điểm yếu để từ đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của loại hình dịch vụ này, đồng thời tăng cường công tác quản lý của Nhà nước để góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Trước hết, bài viết nghiên cứu một số vấn đề mang tính lý thuyết chung về giao nhận vận tải hàng hoá như khái niệm, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa...; đồng thời -3- nghiên cứu những vấn đề chung về quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung đó, bài viết đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, xác định được thời cơ và thách thức đối với ngành giao nhận Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế. Từ thực tế những yếu kém còn tồn tại, bài viết nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động giao nhận và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với ngành giao nhận kho vận trong tương lai. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam và sự quản lý của các cơ quan Nhà nước đối với hoạt động giao nhận hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Vì giao nhận vận tải là một đề tài có nội dung rất phong phú và đa dạng, đồng thời liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế nên đề tài không đi sâu nghiên cứu hoạt động của người giao nhận ở từng lĩnh vực cụ thể như đường hàng không, đường biển, vận chuyển hàng hoá bằng container..., cũng như không nghiên cứu quản lý vĩ mô nền kinh tế mà chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động của ngành giao nhận vận tải nói chung và quản lý của Nhà nước đối với ngành giao nhận trên phương diện lý luận và thực tiễn ở Việt Nam. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Người viết nghiên cứu dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. Thực hiện phỏng vấn, trao đổi nhằm tìm ra những bất cập, khó khăn của những người hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận. Nghiên cứu lý luận kết hợp với khảo sát, tìm hiểu tình hình thực tế. -4- 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Chương 2: Thực trạng giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua. Chương 3: Những giải pháp nhằm phát triển hoạt động giao nhận và tăng cường quản lý hoạt động giao nhận của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập. Tuy rằng nội dung của luận văn có thể chưa thể hiện một cách triệt để các vấn đề liên quan đến hoạt động giao nhận và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu, nhưng mong rằng luận văn sẽ góp một phần vào tiến trình hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước đối với ngành giao nhận và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của ngành giao nhận nước nhà. Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo, PGS, TS Nguyễn Như Tiến, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình giúp đỡ để em có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. -5- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO NHẬN VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU. 1.1. Khái quát về giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu: 1.1.1. Khái niệm chung về giao nhận: 1.1.1.1. Khái niệm về giao nhận, dịch vụ giao nhận và người giao nhận: Khái niệm về giao nhận (forwarding): Giao nhận, vận tải hàng hoá là một bộ phận nằm trong khâu lưu thông phân phối. Nó là một mắt xích nối liền sản xuất và tiêu dùng, tạo nên một chu trình khép kín của quá trình tái sản xuất xã hội. Giao nhận thực hiện chức năng đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng. Trong thương mại quốc tế, giao nhận hàng hoá phục vụ đắc lực cho quá trình xuất nhập khẩu, là khâu quan trọng trong thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương. Sở dĩ như vậy là do đặc điểm của thương mại quốc tế là người mua và người bán ở những nước khác nhau. Sau khi hợp đồng mua bán được ký kết, người bán thực hiện nghĩa vụ giao hàng, tức là hàng hoá được vận chuyển từ người bán sang người mua. Để cho quá trình vận chuyển đó bắt đầu được, tiếp tục được, kết thúc được, tức là hàng hoá đến được tay người mua cần phải thực hiện hàng loạt các công việc khác nhau liên quan đến quá trình chuyên chở như đưa hàng ra cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, chuyển tải hàng hoá ở dọc đường, dỡ hàng ra khỏi tàu và giao cho người nhận... Những công việc đó được gọi là giao nhận. Như vậy, giao nhận là tập hợp các nghiệp vụ liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hoá từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng. Khái niệm dịch vụ giao nhận (Freight forwarding service): -6- Theo quy tắc mẫu của Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận (FIATA) về dịch vụ giao nhận, dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hoá cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hoá. Theo điều 163 Luật Thương mại của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì “dịch vụ giao nhận hàng hoá là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá nhận hàng từ người gửi, tổ chức việc vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác”. 22 Như vậy, dịch vụ giao nhận cũng là một loại hình dịch vụ mà người kinh doanh dịch vụ giao nhận cung cấp cho khách hàng. Khách hàng ở đây có thể là người mua, người bán, thậm chí cả người vận tải hoặc người làm dịch vụ giao nhận khác. Khi sử dụng dịch vụ giao nhận, khách hàng sẽ được người kinh doanh dịch vụ giao nhận thực hiện các công đoạn, thủ tục có liên quan đến hàng hoá để đảm bảo việc vận chuyển hàng hoá từ người gửi hàng tới người nhận hàng được thuận tiện, nhanh chóng. Khái niệm về người kinh doanh giao nhận (Freight forwarder): Thực ra, không có một định nghĩa thống nhất về người giao nhận được quốc tế chấp nhận. Người giao nhận có thể là chủ hàng, chủ tàu, công ty xếp dỡ hay kho hàng, người giao nhận chuyên nghiệp hay bất kỳ một người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá. Tại các nước khác nhau, người giao nhận được biết đến với những tên gọi khác nhau, như “Đại lý hải quan” (Customs House Agent), “Môi giới hải quan” (Customs Broker), “Đại lý thanh toán” (Clearing Agent), hay “Đại lý gửi hàng và giao nhận” (Shipping and Forwarding Agent) và trong nhiều trường hợp người giao nhận đóng vai trò “Người chuyên chở chính” -7- (Principal Carrier). Nhưng dù được gọi dưới cái tên nào đi nữa thì một điểm chung trong hoạt động của tất cả những người này là họ đều chỉ bán dịch vụ của mình, cùng mang một tên chung trong giao dịch quốc tế là Người giao nhận quốc tế (International Freight Forwarder), cùng làm một ngành nghề giao nhận. Ban đầu, người giao nhận chỉ là đại lý hoa hồng thay mặt cho người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu thực hiện các công việc thông thường như bốc dỡ hàng hoá, tổ chức vận tải nội địa, làm thủ tục thanh toán tiền hàng… Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế cũng như của các phương thức vận tải thì phạm vi dịch vụ của người giao nhận cũng ngày càng được mở rộng. Ngày nay người giao nhận đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong thương mại và vận tải quốc tế. Dịch vụ mà người giao nhận cung cấp có thể bao gồm từ những công việc cơ bản và thông thường như thuê tàu, làm thủ tục hải quan cho tới việc cung cấp dịch vụ trọn gói về toàn bộ quá trình vận tải và phân phối hàng hoá. 1.1.1.2. Đặc điểm của giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu: - Do người mua và người bán ở các quốc gia khác nhau nên giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu có những điểm khác so với vận chuyển và giao nhận hàng hoá nội địa. Hàng hoá được vận chuyển trên những chặng đường dài và có thể phải thông qua nhiều phương tiện khác nhau, qua nhiều nước khác nhau. Do đó, việc chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu phải được phép của Chính phủ của các bên buôn bán, tuân thủ luật pháp của các quốc gia, các điều ước, công ước quốc tế và tập quán ở các nước. - Trong thương mại quốc tế, người mua và người bán thường không trực tiếp giao nhận hàng hoá với nhau mà phải giao nhận thông qua các đại lý hoặc người chuyên chở. Đại lý giao nhận hoặc người chuyên chở chịu trách nhiệm nhận hàng hoặc giao hàng trên cơ sở thực tế có kết hợp với các giấy tờ chứng từ có liên quan. Công việc của người làm dịch vụ giao nhận đòi hỏi phải có kiến thức rộng rãi về nghiệp vụ ngoại thương, về luật pháp và nhiều lĩnh vực khác có liên quan như vận tải, bảo hiểm, thanh toán quốc tế, thủ tục hải quan... -8- - Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá được gọi đơn giản là người giao nhận khi đảm nhiệm việc vận chuyển hàng hoá thì phải tuân theo quy định của pháp luật chuyên ngành về vận tải, các quy định quốc tế về giao nhận vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu. - Do tính chất công việc và do phạm vi hoạt động ở quy mô thế giới nên người giao nhận có quan hệ khá rộng cả trong và ngoài nước. Ở trong nước, người giao nhận có quan hệ với chủ hàng (người gửi hàng hay người nhận hàng), các tổ chức thuộc bên thứ ba (người chuyên chở đường biển, đường bộ, đường sông, đường sắt, đường hàng không, người bốc xếp, tổ chức đóng gói, kho hàng, tổ chức bảo hiểm, kiểm nghiệm, ngân hàng...); các cơ quan hữu quan như: hải quan, cảng vụ, cơ quan kiểm dịch, phòng Thương mại, cơ quan giao thông vận tải, cơ quan lãnh sự nước ngoài... Ở nước ngoài, người giao nhận thành lập các đại lý để lo liệu công việc giao nhận ở cảng, sân bay, nhà ga xe lửa hay các địa điểm khác. 1.1.1.3. Phân loại giao nhận: Dựa vào các khía cạnh, tiêu thức khác nhau, người ta có thể chia nghiệp vụ giao nhận thành nhiều loại. * Căn cứ vào phạm vi hoạt động có: - Giao nhận quốc tế: là hoạt động giao nhận phục vụ tổ chức chuyên chở quốc tế. - Giao nhận nội địa: là hoạt động giao nhận phục vụ chuyên chở hàng hoá trong phạm vi một quốc gia. * Căn cứ vào phương thức vận tải có: - Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường biển. - Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường sông. - Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường pha sông biển. - Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường sắt. -9- - Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường bộ. - Giao nhận hàng hoá chuyên chở bằng đường hàng không. - Giao nhận hàng hoá chuyên chở kết hợp bằng nhiều phương thức vận tải khác nhau. * Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh giao nhận có: - Giao nhận thuần tuý: Là hoạt động giao nhận chỉ bao gồm thuần tuý việc gửi hàng đi hoặc nhận hàng đến. - Giao nhận tổng hợp: là hoạt động giao nhận mà ngoài giao nhận thuần tuý còn bao gồm cả xếp dỡ, bảo quản hàng hoá, vận tải đường ngắn, hoạt động kho hàng. * Căn cứ vào tính chất của giao nhận có: - Giao nhận riêng: là hoạt động giao nhận do người xuất nhập khẩu tự tổ chức, không sử dụng lao vụ của người giao nhận. - Giao nhận chuyên nghiệp: là hoạt động giao nhận của các tổ chức, công ty chuyên kinh doanh giao nhận theo sự uỷ thác của khách hàng. 1.1.2. Nội dung của hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu: Phạm vi của dịch vụ giao nhận khá rộng. Trừ phi người gửi hàng hoặc người nhận hàng muốn đích thân tham gia vào bất kỳ khâu thủ tục, chứng từ nào đó, thông thường thì người giao nhận thay mặt cho người gửi hàng hoặc người nhận hàng lo liệu quá trình vận chuyển hàng hoá qua các cung đoạn cho đến tận tay người nhận cuối cùng. Người giao nhận có thể cung cấp các dịch vụ này một cách trực tiếp hoặc thông qua những người thầu phụ hay đại lý khác miễn là đảm bảo hàng hoá đến nơi an toàn và đạt hiệu quả kinh tế. Ngoài ra người giao nhận còn có thể tận dụng các dịch vụ được cung cấp bởi các đại lý của họ ở nước ngoài. Vì hoạt động giao nhận là việc tổ chức quá trình chuyên chở hàng hoá từ nơi gửi đến nơi nhận hàng nên nghiệp vụ này bao gồm nhiều công việc, cụ thể là: - 10 - 1.1.2.1. Thay mặt cho người gửi hàng: Khi thay mặt cho người gửi hàng, người giao nhận có thể thực hiện các công việc sau: - Lựa chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người chuyên chở thích hợp để đảm bảo hàng hoá được vận chuyển nhanh chóng, an toàn, chính xác, tiết kiệm; - Ký hợp đồng chuyên chở với người chuyên chở đã được lựa chọn, thuê tàu, lưu cước; - Nhận hàng từ người gửi hàng và cấp các chứng từ thích hợp; - Nghiên cứu các điều khoản của thư tín dụng và tất cả các quy định của Chính phủ về việc gửi hàng tại nước xuất khẩu, nước nhập khẩu cũng như nước quá cảnh; người giao nhận cũng phải chuẩn bị mọi chứng từ cần thiết; - Đóng gói hàng hoá (trừ phi người gửi hàng đã làm trước khi giao hàng cho người giao nhận), có tính đến tuyến đường, phương thức vận chuyển, bản chất của hàng hoá và các quy định hiện hành, nếu có, tại nước xuất khẩu, các nước quá cảnh và nước nhập khẩu; - Lưu kho, bảo quản hàng hoá; - Cân, đo hàng hoá; - Lưu ý người gửi hàng về việc cần thiết bảo hiểm cho hàng hoá và, nếu ngưòi gửi hàng yêu cầu, lo liệu việc mua bảo hiểm cho hàng hoá; - Vận chuyển hàng hoá ra cảng, làm thủ tục thông quan cho hàng hoá, lo liệu các chứng từ có liên quan và giao hàng cho người chuyên chở; - Tham gia vào các giao dịch ngoại hối, nếu có; - Thanh toán cước phí và các chi phí khác; - Nhận vận đơn đã ký từ người chuyên chở và giao vận đơn cho người gửi hàng; - Lo liệu việc chuyển tải trong hành trình nếu cần; - Giám sát toàn bộ hành trình vận chuyển hàng hoá đến khi người nhận hàng nhận được hàng hoá thông qua người chuyên chở và các đại lý giao nhận ở nước ngoài; - 11 - - Ghi nhận các mất mát, hư hỏng (nếu có) của hàng hoá và thông báo cho người chuyên chở; lập các biên bản, chứng từ cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng; - Giúp người gửi hàng khiếu nại đòi bồi thường về những mất mát, hư hỏng của hàng hoá trong quá trình chuyên chở. 1.1.2.2. Thay mặt cho người nhận hàng: Khi thay mặt cho người nhận hàng, người giao nhận có thể thực hiện các công việc sau: - Giám sát quá trình vận chuyển hàng hoá thay mặt cho người nhận hàng khi người nhận hàng kiểm soát tàu; - Nhận và kiểm tra tất cả các chứng từ phù hợp liên quan tới quá trình vận chuyển hàng hoá; - Nhận hàng từ người chuyên chở và, nếu cần, thanh toán cước chuyên chở; - Làm thủ tục hải quan và nộp thuế cùng với các loại phí và lệ phí khác; - Lo liệu việc lưu kho, lưu bãi, nếu cần; - Giao hàng đã làm xong thủ tục thông quan cho người nhận hàng; - Giúp người nhận hàng khiếu nại người chuyên chở về những mất mát, hư hỏng của hàng hoá xảy ra trong quá trình chuyên chở; - Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối hàng hoá. 1.1.2.3. Các dịch vụ khác của người giao nhận: Ngoài các dịch vụ đã nêu trên, tuỳ thuộc vào yêu cầu của khách hàng, người giao nhận cũng cung cấp các dịch vụ khác, các dịch vụ đặc biệt như: - Gom hàng và phân phối hàng lẻ; - Vận chuyển các hàng đặc biệt như vận chuyển máy móc thiết bị cho các công trình xây dựng lớn, các công trình chìa khoá trao tay; vận chuyển hàng may mặc treo trong các container đến thẳng các cửa hàng; vận chuyển hàng triển lãm ra nước ngoài;... - 12 - - Tư vấn cho khách hàng, cung cấp các thông tin về các nhu cầu của thị trường, về các thị trường mới, các vị thế cạnh tranh, chiến lược xuất nhập khẩu, các điều kiện thương mại thích hợp để đưa vào các hợp đồng ngoại thương. Trong những năm gần đây, người giao nhận còn thường cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức (đóng vai trò của MTO - người kinh doanh vận tải đa phương thức). Người giao nhận đã khẳng định vững chắc vị trí của mình trong thương mại và vận tải quốc tế. 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của người giao nhận và hoạt động giao nhận: 1.1.3.1. Vai trò của người giao nhận: Do sự phát triển của thương mại quốc tế cũng như của vận tải quốc tế, đặc biệt là vận tải container, vận tải đa phương thức, ngày nay người giao nhận không chỉ làm đại lý, người nhận uỷ thác như thuở ban đầu mà còn cung cấp dịch vụ vận tải và đóng vai trò như một bên chính (Principal) - người chuyên chở (Carrier). Người giao nhận đảm nhận khá nhiều vai trò trong thực tiễn thương mại quốc tế. Cụ thể là người giao nhận đã làm chức năng và công việc của những người sau đây: - Môi giới hải quan (Customs Broker) Ban đầu người giao nhận hầu như chỉ hoạt động ở trong nước. Nhiệm vụ của người giao nhận lúc bấy giờ chỉ là làm thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu. Sau đó người giao nhận mở rộng hoạt động phục vụ cả hàng xuất khẩu và giành chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu theo sự uỷ thác của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu tuỳ thuộc vào quy định của hợp đồng mua bán. Trên cơ sở được Nhà nước cho phép, người giao nhận thay mặt người xuất khẩu, người nhập khẩu tiến hành khai báo, làm thủ tục hải quan như một môi giới hải quan. - Đại lý (Agent) Trước đây người giao nhận không đảm nhận vai trò của người chuyên chở. Khi đó người giao nhận chỉ hoạt động như một cầu nối giữa chủ hàng và người chuyên chở như là một đại lý của chủ hàng hoặc của người chuyên chở. Người giao nhận nhận sự uỷ thác từ chủ hàng hoặc người chuyên chở để thực hiện các công - 13 - việc khác nhau như nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu kho... trên cơ sở hợp đồng uỷ thác. - Ngưòi gom hàng (Cargo Consolidator) Tại Châu Âu, người giao nhận từ lâu đã cung cấp dịch vụ gom hàng phục vụ cho vận tải đường sắt. Đặc biệt, trong chuyên chở hàng hoá bằng container, dịch vụ gom hàng là không thể thiếu được vì gom hàng giúp biến các lô hàng lẻ (LCL) thành những lô hàng nguyên (FCL) nhằm tận dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải. Lợi ích của dịch vụ gom hàng là không thể phủ nhận và người giao nhận đã sớm nhận ra điều đó. Trong bất kỳ phương thức vận tải nào, người giao nhận cũng có thể làm dịch vụ gom hàng. Nếu có đội xe vận tải và một diện tích kho nhất định, người giao nhận có thể tổ chức gom hàng từ các địa phương về kho tập trung rồi ghép theo địa chỉ giao hàng để tổ chức vận chuyển hàng hoá tới nơi người nhận hàng. Khi là người gom hàng, người giao nhận có thể đóng vai trò của người chuyên chở hoặc chỉ là đại lý cho khách hàng. - Người chuyên chở (Carrier) Ngày nay, trong nhiều trường hợp người giao nhận đóng vai trò người chuyên chở, tức là người giao nhận trực tiếp ký kết hợp đồng vận tải với chủ hàng và chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hoá từ một nơi này đến một nơi khác. Người giao nhận đóng vai trò là người thầu chuyên chở (Contracting Carrier) nếu người giao nhận ký hợp đồng mà không trực tiếp chuyên chở hàng hoá. Còn nếu người giao nhận trực tiếp chuyên chở hàng hoá thì người giao nhận là người chuyên chở thực tế (Performing Carrier). - Người kinh doanh vận tải đa phương thức (Multimodal Transport Operator - MTO) Tổng hợp được những ưu điểm, lợi ích của việc vận chuyển hàng hoá bằng container, của việc gom hàng (Consolidation, Groupage) và của phương pháp vận chuyển đi suốt, vận tải đa phương thức ra đời đã mang lại hiệu quả to lớn cho các bên tham gia quá trình vận tải cũng như cho xã hội. Khi cung cấp dịch vụ vận tải đi - 14 - suốt, hay còn gọi là vận tải từ cửa đến cửa, người giao nhận đã đóng vai trò của người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO). Lúc này người giao nhận là người duy nhất chịu trách nhiệm về hàng hoá trong toàn bộ hành trình trước chủ hàng với tư cách là người chuyên chở chứ không phải với tư cách là đại lý. Và trong vai trò của một MTO, người giao nhận cũng có thể là người chuyên chở thực tế hoặc là người thầu chuyên chở. Với các vai trò mà mình đảm nhận, người giao nhận là người có khả năng tổ chức quá trình vận tải một cách tốt nhất, hợp lý nhất, an toàn nhất, chính xác nhất và tiết kiệm nhất. Chính vì vậy mà người giao nhận còn được gọi là “kiến trúc sư của vận tải” (Architect of Transport). 2 , 3 , 5 1.1.3.2. Ý nghĩa của hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu: * Tầm vĩ mô: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với quá trình thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các doanh nghiệp giao nhận đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Điều này thể hiện trên một số mặt sau: a) Ý nghĩa về mặt kinh tế: Giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu là một ngành nghề dịch vụ thương mại gắn liền và liên quan mật thiết tới hoạt động ngoại thương và vận tải quốc tế. Đây là một loại dịch vụ thương mại không cần đầu tư nhiều vốn nhưng lợi nhuận tương đối ổn định nếu biết tổ chức, điều hành tốt trên cơ sở tận dụng hệ thống hạ tầng cơ sở hiện có. Việc phát triển kinh doanh dịch vụ giao nhận kho vận ở nước ta đã mang lại những hiệu quả kinh tế thiết thực. Trước hết nó tạo điều kiện cho Chính phủ có thêm được nguồn thu ngoại tệ và đẩy mạnh hơn giao lưu kinh tế, nối liền các hoạt động kinh tế giữa các khu vực trong nước, giữa trong nước với nước ngoài, giữa các nước với nhau. Việc ứng dụng vận tải đa phương thức đã tạo điều kiện đơn giản hoá chứng từ, thủ tục thương mại, hải quan do vậy hấp dẫn các bạn hàng nước ngoài. Nó cũng giúp tạo thêm nguồn thu cho các công ty giao nhận trong nước và tạo điều - 15 - kiện ứng dụng nhanh chóng công nghệ vận tải hiện đại, trên cơ sở đó cải tạo cơ sở hạ tầng vận tải. Giao nhận vận tải phát triển còn tạo điều kiện phát triển loại hình bảo hiểm cung cấp cho người giao nhận như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người giao nhận, bảo hiểm phương tiện vận chuyển... Thực tế, cuối năm 1999 đầu năm 2000, một số hãng bảo hiểm trong và ngoài nước đã ký được hàng chục hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho các nhà giao nhận Việt Nam. Một nước như nước ta, nếu biết tổ chức tốt mô hình vận tải đa phương thức, thì các nước láng giềng sẽ sẵn sàng cho hàng hoá của họ quá cảnh qua nước ta để tận dụng những ưu thế về địa lý do rút ngắn chặng đường. Rốt cuộc những điều này làm cho tiềm năng cạnh tranh của hàng hoá nước ta trên thị trường quốc tế tăng lên đáng kể, góp phần đẩy mạnh xuất nhập khẩu, cải thiện một phần cán cân tài chính của đất nước. b) Ý nghĩa về mặt xã hội: Các doanh nghiệp giao nhận đã giải quyết một khối lượng lớn việc làm cho xã hội, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội, đặc biệt là từ khi vận tải đa phương thức phát triển bởi lẽ đưa công nghệ vận tải mới vào đất nước yêu cầu phải có những kỹ thuật, kỹ năng mới, cũng như những ngành nghề mới. Đi liền với nó là đội ngũ công nhân, chuyên gia, cán bộ nghiệp vụ thành thạo trong việc vận hành, bảo quản, sửa chữa, gia cố, giao nhận, lưu kho và vận chuyển container. Từ đó đã xuất hiện các trung tâm gom hàng, giao nhận, phát hàng, hoàn trả vỏ container, cùng các hệ thống kho bãi, cũng như đội ngũ cán bộ nghiệp vụ chuyên lo giải quyết các thủ tục, giấy tờ, chứng từ đúng với yêu cầu và tập quán thương mại quốc tế. * Tầm vi mô: a) Giảm chi phí vận tải: Hiệu quả rõ rệt nhất mà các dịch vụ của người giao nhận mang lại là giúp giảm giá thành, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tăng khối lượng hàng hoá trong thương mại và vận tải quốc tế, tạo nên quá trình vận chuyển hàng hoá mang tính chuyên nghiệp, nhanh chóng, đồng bộ và an toàn. Cụ thể là: - 16 - - Khi người giao nhận cung cấp dịch vụ gom hàng, những người gửi hàng lẻ được hưởng mức cước thấp hơn giá cước mà họ thường phải trả cho người chuyên chở khi gửi hàng lẻ, do đó làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Mặt khác, do nắm chắc nghiệp vụ gom hàng nên người giao nhận tính toán tiết kiệm được dung tích trọng tải của công cụ và phương tiện vận tải, nhờ đó mà giảm được chí phí vận tải cho người gửi hàng, tức là giảm chi đối với hàng xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá. - Dịch vụ mà người giao nhận cung cấp góp phần phát huy ưu điểm của vận tải container. Hàng hoá được đóng đầy container, tận dụng tối đa khả năng chuyên chở. Khối lượng hàng lớn và thường xuyên giúp người giao nhận được hưởng cước cũng như phí bảo hiểm ưu đãi, góp phần giảm giá thành hàng hoá. Do không phải giải quyết các lô hàng lẻ nên tiết kiệm được giấy tờ, chi phí và thời gian. Hàng hoá trong container được bảo quản tốt hơn, giảm được chi phí kho bãi. - Tạo điều kiện phát huy lợi ích của vận tải đa phương thức: Tạo ra một đầu mối duy nhất trong việc vận chuyển từ cửa đến cửa. Việc hàng hoá được đóng trong container và chỉ có một chứng từ vận tải duy nhất làm cho công tác chuyển tải, thông quan được nhanh chóng, dễ dàng hơn, đẩy nhanh tốc độ vận chuyển hàng hoá. b) Tạo điều kiện cho các nhà xuất nhập khẩu hoạt động có hiệu quả: Dịch vụ giao nhận ra đời từ sự phát triển của thương mại và vận tải quốc tế và chính những người giao nhận đã góp phần quan trọng làm cho thương mại và vận tải ngày càng phát triển hơn nữa. Trước khi dịch vụ giao nhận ra đời các chủ hàng phải tự lo liệu công việc giao nhận hàng hoá với đủ loại thủ tục và chứng từ, rất vất vả mà hiệu quả đem lại không thể nói là cao được. Ngày nay công việc này được giao cho những người kinh doanh giao nhận chuyên nghiệp. Với kỹ năng nghiệp vụ được đào tạo cơ bản và hệ thống, có các mối quan hệ quen biết rộng rãi, người giao nhận là người có khả năng nhất để tổ chức quá trình giao nhận vận chuyển hàng hoá một cách tối ưu. Phạm vi dịch vụ mà người giao nhận cung cấp ngày càng mở rộng, có thể bao gồm hầu hết hay toàn bộ các công đoạn thủ tục liên quan đến quá trình - 17 - vận động của hàng hoá. Chủ hàng chỉ cần tiếp xúc với một đầu mối duy nhất là người giao nhận mà vẫn đảm bảo được từ việc tổ chức vận chuyển, bảo hiểm cho hàng hoá, làm thủ tục hải quan, lưu kho bãi, bảo quản hàng hoá, giao và nhận hàng... cho đến việc thanh toán tiền hàng cũng như khiếu nại đòi bồi thường tổn thất. Nhờ vậy chủ hàng có thể chuyên tâm lo tìm nguồn cung cấp và tiêu thụ hàng hoá chứ không phải mất thời gian cho những công việc trên. Và nếu được yêu cầu thì người giao nhận cũng có thể tư vấn, cung cấp cho chủ hàng các thông tin cần thiết về thị trường, giúp tăng doanh số bán hàng. Kinh doanh giao nhận vận tải ngày nay đã thay đổi nhiều về chất, không chỉ là chắp nối các phương tiện vận tải lại với nhau mà điều quan trọng là trong quá trình vận tải còn cung cấp và đảm bảo đầy đủ các dịch vụ có tác dụng làm gia tăng giá trị hàng hoá như: tư vấn về vận tải, tư vấn về thị trường, cung cấp phương tiện chuyên chở, cung cấp các dịch vụ hậu cần,v.v... Vì vậy, để chủ động trong kinh doanh, nhiều công ty giao nhận tầm cỡ đã mạnh dạn đầu tư phương tiện vận tải riêng để cung cấp dịch vụ thật nhanh chóng và hiệu quả cao. Kết quả là nhiều công trình bến cảng, kho bãi chuyên dụng và các tuyến đường vận tải được chú trọng đầu tư xây dựng. Tóm lại, nhờ có hoạt động giao nhận mà các thủ tục chứng từ liên quan đến quá trình giao nhận vận chuyển hàng hoá được đơn giản hoá, rút ngắn thời gian vận chuyển, tăng khối lượng hàng hoá được trao đổi trong thương mại và vận tải quốc tế. Sự phát triển của hoạt động giao nhận tạo điều kiện ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào thực tế sản xuất, lưu thông và phân phối, phát huy được những lợi ích của hoạt động gom hàng, vận tải container, vận tải đa phương thức như tiết kiệm chi phí vận tải và bảo hiểm, hạ giá thành và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng, tăng năng suất lao động xã hội, tạo thêm nhiều ngành nghề dịch vụ mới giải quyết công ăn việc làm, góp phần nâng cao đời sống xã hội. 1.2. Những vấn đề chung về quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu: - 18 - 1.2.1. Khái niệm về quản lý và quản lý hoạt động giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu: Khái niệm quản lý: Quản lý là một khái niệm có nội hàm xác định, song lâu nay thường có các cách định nghĩa, cách hiểu khác nhau và được thể hiện bằng các thuật ngữ khác nhau. Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học quản lý, vấn đề cơ bản đã được làm sáng tỏ để có một cách hiểu thống nhất. Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi loại hoạt động. Nó phát sinh từ sự phân công lao động xã hội, cần thiết phải phối hợp hành động của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên trong tổ chức hành động nhằm đạt tới mục tiêu với kết quả tốt nhất. Như vậy, quản lý phải bao gồm các yếu tố sau: - Phải có một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra tác động quản lý và đối tượng bị quản lý. Đối tượng bị quản lý phải tiếp nhận và thực hiện tác động quản lý. Tác động quản lý có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần. - Phải có mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu này là căn cứ chủ yếu để tạo ra các tác động. 14 , 16 , 17 Có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tổ chức quản lý, song đa số đều cùng thống nhất về một số nội dung chính của công tác quản lý như sau: + Bất kỳ một tổ chức nào đều phải có hoạt động quản lý. + Quản lý vừa là một khoa học, vừa là nghệ thuật. + Quản lý là toàn bộ công việc của chủ thể quản lý để tổ chức, tập hợp, phát huy mọi nguồn lực, hoàn thành mục tiêu của tổ chức trong điều kiện môi trường luôn biến động.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan