LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trƣờng, dƣới áp lực ngày càng tăng lên một cách mạnh
mẽ của cạnh tranh, của một nền kinh tế dƣ thừa hàng hoá thì bán hàng giống nhƣ:
“Một bƣớc nhảy nguy hiểm chết ngƣời” sẽ trở nên phức tạp hơn với độ rủi ro cao
hơn. Để tiêu thụ đƣợc hàng hóa trong điều kiện có nhiều doanh nghiệp cùng bán các
sản phẩm tƣơng tự đòi hỏi doanh nghiệp phải kinh doanh những sản phẩm phù hợp
với nhu cầu của khách hàng, chất lƣợng tốt, và giá cả cạnh tranh.
Lợi nhuận luôn đƣợc coi là một đối tƣợng đƣợc tìm kiếm, là mục tiêu trƣớc
mắt, lâu dài và thƣờng xuyên của kinh doanh thƣơng mại cũng nhƣ các hoạt động
kinh doanh khác. Lợi nhuận là khoản dôi ra khi so sánh giữa doanh thu và chi phí
kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh nghiệp phải bán đƣợc hàng, phải có thị
trƣờng, có khách hàng và đặc biệt là phải giảm đƣợc các khoản chi phí kinh doanh
không cần thiết đến mức tối thiểu. Để tiến hành hoạt động kinh doanh thƣơng mại,
doanh nghiệp cần phải chi phí kinh doanh: Có chi mới có thu. Chi phí kinh doanh
trở thành một bộ phận quan trọng và không thể thiếu đƣợc của mọi quá trình kinh
doanh, đó là các khoản chi phí bắt đầu từ việc tạo nguồn mua hàng, đến chi phí lƣu
thông, chi cho nộp thuế và bảo hiểm
Sau một thời gian thực tập và tìm hiểu về Công ty cổ phần xuất nhập khẩu
Hàng không, em thấy chi phí kinh doanh chiếm một tỷ trọng rất lớn so với doanh số
bán ra của Công ty, điều này làm cho lợi nhuận của Công ty giảm xuống một cách
rõ rệt. Vì vậy em quyết định chọn đề tài: “Giảm chi phí kinh doanh của Công ty cổ
phần xuất nhập khẩu Hàng không”. Thông qua đề tài này, em muốn đi sâu tìm
hiểu nguyên nhân tại sao chi phí kinh doanh của Công ty cao đến vậy và tìm ra các
biện pháp để cắt giảm chi phí đến mức thấp nhất nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu đƣợc
kết cấu thành 3 chƣơng:
Chương I:Những cơ sở về giảm chi phí kinh doanh của Công ty cổ phần xuất
nhập khẩu Hàng không.
Chương II: Thực trạng chi phí kinh doanh của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu
Hàng không.
Chương III: Một số kiến nghị và biện pháp để giảm chi phí kinh doanh của
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không.
CHƢƠNG I
NHỮNG CƠ SỞ VỀ GIẢM CHI PHÍ KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG KHÔNG
1.1 Chi phí kinh doanh và giảm chi phí kinh doanh của Công ty cổ
phần xuất nhập khẩu Hàng không
1.1.1 Khái niện và phân loại chi phí kinh doanh
1.1.1.1 Khái niệm chi phí kinh doanh
Bất kì một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
đều phải so sánh kết quả giữa doanh thu kinh doanh và chi phí kinh doanh để xem
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình có thu đƣợc hiệu quả hay không? Doanh
thu và chi phí kinh doanh chính là hai yếu tố cơ bản để cấu thành nên lợi nhuận,
quyết định sự sống còn của một công ty. Doanh thu tăng, chi phí không đổi hoặc
giảm xuống sẽ làm tăng lợi nhuận. Công việc của một nhà quản trị kinh doanh
thƣơng mại không những làm tăng doanh thu mà còn phải làm giảm chi phí bình
quân trên mỗi đơn vị sản phẩm.
Vậy chi phí kinh doanh của doanh nghiệp thƣơng mại là gì? Chi phí kinh
doanh đƣợc hiểu nhƣ thế nào để ta có thể nắm bắt đƣợc bản chất của nó, từ đó tìm
ra những biện pháp tích cực và hữu hiệu giảm chi phí cho doanh nghiệp.
“Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp thƣơng mại là tất cả các khoản chi phí
từ khi mua hàng cho đến khi bán hàng và bảo hành hàng hoá cho khách hàng trong
một khoảng thời gian nhất định”. Thực chất, chi phí kinh doanh là các khoản chi phí
về lao động sống và lao động vật hoá biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp thƣơng
mại đã chi ra để mua bán hàng hoá dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định.
Đối với doanh nghiệp thƣơng mại, kết quả và hiệu quả của hoạt động kinh doanh
gắn liền với chi phí kinh doanh và quản trị chi phí kinh doanh. Khi chi phí biên lớn
hơn doanh thu thì doanh nghiệp thƣơng mại không những không có lợi nhuận mà
còn bị lỗ vốn nữa. Do vậy, chi phí kinh doanh luôn là sự quam tâm của cả doanh
nghiệp và giảm chi phí kinh doanh là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp thƣơng mại.
1.1.1.2 Phân loại chi phí kinh doanh
Có rất nhiều cách để phân loại chi phí kinh doanh khác nhau và theo mỗi tiêu
chí ta lại có những loại chi phí kinh doanh riêng.
i)
-
Theo sự phụ thuộc vào tổng mức lưu chuyển có:
Chi phí kinh doanh cố định (gọi tắt là định phí) là các khoản chi phí không
biến đổi hoặc ít biến đổi khi tổng mức lƣu chuyển của doanh nghiệp thƣơng mại
tăng lên hay giảm xuống. Đó là các khoản nhƣ: Chi phí tiền lƣơng cho giám đốc đã
thuê trong hợp đồng, chi phí khấu hao nhà kho, cửa hàng, tiền trả lãi vay, chi phí
quản lí.
-
Chi phí kinh doanh biến đổi (gọi là biến phí) là các khoản chi phí kinh doanh
tăng lên hay giảm xuống khi tổng mức lƣu chuyển tăng lên hay giảm xuống. Chi phí
kinh doanh biến đổi tỷ lệ thuận với khối lƣợng vật tƣ hàng hoá mua vào bán ra, giá
cả vật tƣ hàng hoá và dịch vụ trên thị trƣờng. Chi phí này bao gồm: Chi phí mua
hàng; chi phí vận tải, bốc dỡ hàng hoá; chi phí bảo quản; chi phí bán hàng…
ii)
-
Theo mức chi phí và tiến trình thực hiện chi phí
Chi phí bình quân: là số tiền chi phí tính cho một đơn vị hàng hóa bán ra trung
bình
-
Chi phí biên: là mức tăng tổng chi phí khi khối lƣợng hàng hoá hoặc dịch vụ
bán ra tăng thêm một đơn vị
iii)
-
Theo chi phí kế toán và chi phí kinh tế
Chi phí kế toán: là cho phí đƣợc ghi chép những khoản chi phí bằng tiền theo
thời gian lúc chi phí và các khoản chi phí tính toán bằng tiền. Chi phí kế toán bao
gồm các chi phí từ khi mua hàng cho đến khi bán hàng đƣợc ghi chép rõ ràng, có
thể kiểm tra, kiểm soát đƣợc bằng các hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán.
-
Chi phí kinh tế (hay còn gọi là chi phí cơ hội): là các khoản chi phí bị mất đi
do không sử dụng các nguồn lực nhƣ vốn, lao động, công nghệ theo phƣơng thức sử
dụng tốt nhất. Chi phí kinh tế là chi phí lựa chọn trong việc sử dụng các nguồn lực
trong hoạt động kinh doanh. Sử dụng chi phí cơ hội có thể giúp cho nhà kinh doanh
lựa chọn và đánh giá việc lựa chọn sử dụng các nguồn lực tốt nhất.
Ngoài ba cách phân loại nêu trên, các doanh nghiệp thƣơng mại còn phân loại
chi phí kinh doanh theo các yếu tố của chi phí nhƣ: Chi phí lao động quá khứ, chi
phí lao động sống, chi phí lãi vay, chi phí cho khoa học công nghệ, bí quyết kĩ thuật
kinh doanh và các khoản thiệt hại khác…Sự phân chia chi phí kinh doanh luôn phụ
thuộc vào hình thức và mục tiêu của cả hệ thống tính toán doanh nghiệp. Đƣơng
nhiên sự phân chia này phải chú ý đến tính thống nhất giữa quản trị chi phí kinh
doanh và kế toán tài chính. Một sự phân chia khoa học chi phí kinh doanh phát sinh
phải dẫn đến kết quả là ít hao phí nhất mà vẫn đảm bảo hiệu qủa.
1.1.2
Sự cần thiết và ý nghĩa của giảm chi phí kinh doanh của Công ty cổ
phần xuất nhập khẩu Hàng không
1.1.2.1 Sự cần thiết phải giảm chi phí kinh doanh
Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch đƣợc xây dựng
tập trung thống nhất trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân và đƣợc đƣa xuống
cụ thể hoá ở cấp xí nghiệp.Việc phân phối nguồn lực sản xuất (nhân lực, thiết bị, vật
tƣ, tài chính), việc tiêu thụ sản phẩm cũng nhƣ việc sử dụng các công cụ, đòn bẩy
kinh tế khác nhƣ giá cả, lợi nhuận, tiền lƣơng, tiền thƣởng đều tuân theo nguyên tắc
tập trung thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Dƣới cơ chế này, thực chất
xí nghiệp chỉ là một cấp thực hiện kế hoạch, bộ máy xí nghiệp có nhiệm vụ chỉ huy
xí nghiệp thực hiện kế hoạch Nhà nƣớc giao cho. Vì thế nhu cầu về thông tin kinh tế
cấp xí nghiệp chủ yếu là nhu cầu thông tin hƣớng ngoại: Cung cấp các thông tin
kinh tế theo yêu cầu của cấp trên xí nghiệp để các cơ quan quản lý cấp trên xí
nghiệp ra các quyết định cần thiết. Do cách tổ chức thông tin kinh tế nhƣ vậy mà ở
các xí nghiệp hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp chỉ tồn tại
công tác kế toán tài chính với đặc trƣng cơ bản là do Nhà nƣớc quy định theo một
cách thống nhất và mang tính bắt buộc với mọi xí nghiệp. Vì vậy vấn đề chi phí
chƣa đƣợc coi trọng một cách đúng mức.
Trong cơ chế kinh tế mới: Cơ chế của nền kinh tế thị trƣờng, khi sự cạnh
tranh ngày càng trở nên khốc liệt quyết định đến sự sống còn của mỗi doanh nghiệp
thì nhu cầu thông tin là cơ sở để các nhà quản trị ra các quyết đinh kinh tế. Khi đó,
nhu cầu thông tin bên ngoài vẫn rất cần thiết.
Trƣớc hết nó phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô của Nhà nƣớc - tức là
thông tin cung cấp cho các cơ quan quản lý Nhà nƣớc. Các thông tin này phải đảm
bảo tính thống nhất, do vậy nó phải đƣợc quy định thống nhất phù hợp với các yêu
cầu quản lí vĩ mô và đảm bảo tính “kiểm tra” đƣợc của các cơ quan kiểm tra, đặc
biệt là kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Bên cạnh đó, còn nhiều đơn vị, cá
nhân khác cũng cần và có quyền đòi hỏi doanh nghiệp phải có nghĩa vụ cung cấp
thông tin cho họ để họ biết đƣợc, kiểm tra đƣợc thực tế hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và từ đó có các quyết định cần thiết liên quan đến lợi ích kinh tế của
họ trong mối quan hệ với doanh nghiệp. Đối tƣợng nằm trong số này trƣớc hết phải
kể đến những ngƣời chủ sở hữu doanh nghiệp, những ngƣời chủ nợ, khách hàng,
công đoàn doanh nghiệp với tƣ cách là ngƣời đại diện cho lợi ích của công nhân,
viên chức,….cũng có yêu cầu và có quyền đƣợc pháp luật bảo đảm về việc doanh
nghiệp phải cung cấp cho họ các thông tin cần thiết đã nói ở trên. Đây là điều kiện
để đảm bảo kinh doanh phải đúng pháp luật và quyền lợi kinh tế của mọi đối tƣợng
kinh doanh, phải đƣợc đảm bảo bằng pháp luật.
Mặt khác, khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới, mỗi doanh nghiệp dù là
doanh nghiệp Nhà nƣớc hay ngoài quốc doanh đều là đơn vị kinh tế độc lập, mọi
doanh nghiệp đều phải tự quyết định kế hoạch kinh tế của mình trên cơ sở nắm bắt
nhu cầu thị trƣờng và hiểu thật rõ năng lực của bản thân doanh nghiệp. Thực chất
của hoạt động quản trị doanh nghiệp là quá trình chuẩn bị và ra các quyết định quản
trị phù hợp nhất với mục tiêu đặt ra. Để làm đƣợc điều hày không thể thiếu đƣợc
các thông tin về chi phí kinh doanh của cả quá trình xảy ra trong quá khứ và hiện tại
do quản trị chi phí kinh doanh chuẩn bị và cung cấp.
Nghiên cứu và xem xét chi phí kinh doanh để quản trị chi phí kinh doanh
giúp nhà quản trị doanh nghiệp điều khiển các quá trình kết hợp các yếu tố kinh
doanh thực hiện mục tiêu với thời hạn ngắn nhất, gạt bỏ nhanh nhất những khuynh
hƣớng phát triển không mong muốn và từ đó có thể “lái” quá trình kết hợp các yếu
tố trở lại theo quỹ đạo kế hoạch đã vạch.
1.1.2.2 Ý nghĩa của việc giảm chi phí kinh doanh
Từ sự cần thiết của việc giảm chi phí kinh doanh thì ý nghĩa của giảm chi phí
kinh doanh là gì? Nhƣ ta đã biết một công thức chung làm kim chỉ nam dẫn đƣờng
cho mọi doanh nghiệp là:
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Khi doanh thu không đổi, chi phí kinh doanh giảm sẽ làm cho lợi nhuận tăng
lên. Lợi nhuận vốn là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Đó là bề mặt nổi mà
ta có thể nhìn thấy trực tiếp đƣợc. Còn ẩn sau việc giảm chi phí kinh doanh là gì?
Đó là một phƣơng pháp quản trị chi phí kinh doanh sáng tạo và có khoa học.
Giảm chi phí kinh doanh tức là đã nghiên cứu thị trƣờng, khách hàng, đối tác
một cách chính xác để có một khối lƣợng hàng hoá mua vào đúng, đủ, phù hợp với
nhu cầu, giảm tối đa hàng hoá tồn kho.
Giảm chi phí kinh doanh tức là đã tổ chức vận tải, bốc dỡ, bảo quản thu mua,
tiêu thụ, chi phí hao hụt, chi phí quản lý hàng chính một cách có khoa học, tránh
lãng phí không cần thiết.
Giảm chi phí kinh doanh tức là đã sử dụng nguồn nhân lực một cách có hiệu
quả, đúng ngƣời đúng việc, phát huy đƣợc sở trƣờng của mỗi cá nhân từ đó ghóp
phần nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống ngƣời lao động.
Xét trên tầm vĩ mô: Giảm chi phí kinh doanh sẽ tránh đƣợc sự lãng phí
nguồn lực cho xã hội, cho đất nƣớc. Bởi nguồn lực về vốn, con ngƣời và công nghệ
không phải là vô hạn ma có giới hạn.
Giảm chi phí kinh doanh còn thể hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia
trong việc sử dụng và quản lý nguồn lực để tạo ra của cải vật chất cho quốc gia đó.
Muốn làm đƣợc điều này thì bộ máy quản trị doanh nghiệp cần có các thông tin
kinh tế bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Chất lƣợng của các quyết định quản
trị doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào số lƣợng và chất lƣợng của các thông tin
kinh tế mà bộ máy quản trị có trong tay.
Thông tin kinh tế bao gồm thông tin bên ngoài doanh nghiệp và thông tin bên
trong doanh nghiệp. Thông tin bên ngoài hay còn gọi là thông tin về môi trƣờng
kinh doanh nhƣ môi trƣờng chính trị, pháp luật, môi trƣờng kỹ thuật công nghệ,
điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng… Các thông tin này có đƣợc từ việc thu thập các
thông tin công bố và thông qua công tác nghiên cứu thị trƣờng. Thông tin bên trong
là các thông tin nội bộ doanh nghiệp nhƣ mặt hàng kinh doanh, hoạt động
Marketing, yếu tố về tài chính, thƣơng hiệu …Đây là những yếu tố doanh nghiệp có
thể kiểm soát đƣợc.Các thông tin bên trong hoàn toàn do doanh nghiệp tự tổ chức
thu thập, xử lý, lƣu trữ cũng nhƣ đƣa vào sử dụng.Quản trị chi phí kinh doanh là
công cụ chủ yếu cung cấp các thông tin kinh tế bên trong cho bộ máy quản trị doanh
nghiệp, làm cơ sở cho việc ra các quyết định và là một công cụ không thể thiếu
đƣợc của quản trị kinh doanh. Do vậy quản trị chi phí kinh doanh đƣợc tổ chức
nhằm thoả mãn các nhu cầu thông tin bên trong doanh nghiệp nên nó không mang
tính bắt buộc. Nhờ có quản trị chi phí kinh doanh mà toàn bộ các giá trị hao phí
đƣợc tập hợp và hạch toán không phụ thuộc vào việc chúng có gắn liền với các
dòng vận động tiền tệ hay không và cũng không phụ thuộc vào việc liệu có dẫn đến
giá trị chi phí tài chính tƣơng đƣơng hay không? Nhờ đó các thông tin chi phí kinh
doanh khác nhau đƣợc tập hợp,chế biến, lƣu trữ và tiếp tục đƣa vào sử dụng cho
nhiều mục đích khác nhau.
Quản trị chi phí kinh doanh để kế hoạch hoá, để điều khiển có kết quả và
hiệu quả các quá trình kinh tế diễn ra, bộ máy quản trị doanh nghiệp phải luôn tìm
cách để xác định đƣợc quá trình kinh doanh của doanh nghiệp có thể và cần phải
diễn ra trong tƣơng lai nhƣ thế nào?
1.2 Nội dung chi phí kinh doanh của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu
Hàng không
1.2.1 Chi phí mua hàng
Chi phí mua hàng là khoản tiền mà doanh nghiệp thƣơng mại phải chi trả cho
các đơn vị nguồn hàng về số lƣợng hàng đã mua. Khoản chi phí này phụ thuộc vào
khối lƣợng, cơ cấu hàng hoá đã mua và đơn giá của một đơn vị hàng hoá. Chi phí
mua hàng là khoản chi lớn nhất của kinh doanh của doanh nghiệp thƣơng mại. Nó
hình thành nên khối lƣợng và cơ cấu hàng hoá dự trữ ở doanh nghiệp thƣơng mại.
Nguồn tiền để trả cho chi phí mua hàng là vốn lƣu động của doanh nghiệp thƣơng
mại, ngoài ra doanh nghiệp còn phải huy động một phần đáng kể từ vốn vay hoặc
vốn ứng trƣớc của đơn vị nguồn hàng, bạn hàng hoặc khách hàng.
Cùng một loại hàng hoá nhƣng có nhiều mẫu mã, giá cả, chất lƣợng khác
nhau, cần phải lựa chọn mặt hàng có chất lƣợng tốt, thƣơng hiệu nổi tiếng, ƣu thế về
tính năng, công dụng hoặc tiêu hao nhiên liệu, hiện đại phù hợp với xu thế tiêu dùng
của khách hàng (còn gọi là theo mốt). Bởi vì đối với doanh nghiệp thƣơng mại việc
lựa chọn nguồn hàng phải đảm bảo hàng mua bán đƣợc trên thị trƣờng hiện tại.
Quyết định mua hàng của doanh nghiệp thƣơng mại là đơn giá hàng mua
cộng với các chi phí ƣớc tính: chi phí về lƣu thông, thuế, và lãi vay ngân hàng so
với giá ở thị trƣờng bán phải có lãi. Mức lãi cao hay thấp tuỳ thuộc vào sự chênh
lệch giữa giá mua và giá bán, khối lƣợng hàng mua, nhu cầu thị trƣờng và nguồn
cung ứng cũng nhƣ đối thủ cạnh tranh. Trong cơ chế thị trƣờng, sự biến động giá cả
hàng mua theo nhu cầu của thị trƣờng và mức khan hiếm của nguồn hàng. Do vậy,
doanh nghiệp thƣơng mại cần liên tục theo dõi động thái giá cả và xu hƣớng giá cả
của nguồn hàng để từ đó có chiến lƣợc nguồn hàng, đa dạng hóa nguồn hàng… để
doanh nghiệp thƣơng mại luôn ổn định nguồn hàng, hạn chế đến mức tối đa sự
“chông chênh” của nguồn hàng và lực lƣợng dự trữ mỏng ở doanh nghiệp thƣơng
mại.
Đối với doanh nghiệp thƣơng mại việc tạo nguồn và mua hàng là khâu đầu
tiên của quá trình kinh doanh. Mục đích của tạo nguồn và mua hàng là để có đƣợc
nguồn hàng chắc chắn, ổn định, phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Nội dung của
chi phí tạo nguồn và mua hàng bao gồm những điểm chính sau đây.
1.2.1.1 Chi phí nghiên cứu nhu cầu mặt hàng của khách hàng
Nhu cầu của con ngƣời vô cùng đa dạng và phong phú, nhiệm vụ của nhà
quản trị doanh nghiệp thƣơng mại là phải phát hiện ra nhu cầu có khả năng thanh
toán đƣợc và đáp ứng nhu cầu đó. Nghiên cứu nhu cầu mặt hàng của khách hàng về
quy cách, cỡ loại, số lƣợng, trọng lƣợng, màu sắc, thời gian, địa điểm bán hàng, giá
cả hàng hoá, dịch vụ là vấn đề đầu tiên và hết sức quan trọng với doanh nghiệp
thƣơng mại. Bộ phận tạo nguồn và mua hàng ở doanh nghiệp phải nắm đƣợc loại
hàng hoá của mình thoả mãn nhu cầu khách hàng nào, khối lƣợng, chất lƣợng mà
khách hàng cần, thời gian, địa điểm cần. Điều cũng quan trọng không kém khi
doanh nghiệp thƣơng mại nghiên cứu nhu cầu mặt hàng của khách hàng đó là tính
tiên tiến của mặt hàng doanh nghiệp cung cấp và xu hƣớng của khách hàng đối với
mặt hàng mà doanh nghiệp thƣơng mại đang kinh doanh. Các mặt hàng tiên tiến
hơn, hiện đại hơn và cả hàng thay thế cũng nhƣ sự đáp ứng nhu cầu trên thị trƣờng
của các đối thủ cạnh tranh… chỉ nắm chắc đƣợc các thông tin trên thì việc tạo
nguồn và mua hàng mới tránh đƣợc sai lầm, khắc phục đƣợc hiện tƣợng lạc hậu về
công nghệ và kiểu dáng, hàng bị ứ đọng, chậm tiêu thụ, giá cao không bán đƣợc,
không đáp ứng đúng thời gian, đúng địa điểm…
Trong giai đoạn này, việc thu thập thông tin từ khách hàng, từ thị trƣờng là
công cụ để giúp các nhà quản trị doang nghiệp ra quyết định kinh doanh, chi phí
cho việc điều tra nghiên cứu khách hàng, mặt hàng, chi phí cho việc thu thập, xử
lý dữ liệu, chi phí nhân lực, quản lý là rất lớn.
1.2.1.2 Chi phí để nghiên cứu thị trường nguồn hàng
Nguồn hàng của doanh nghiệp thƣơng mại là do các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các trang trại, hộ gia đình, hợp tác xã… sản xuất
ra. Tuỳ theo mặt hàng mà doanh nghiệp thƣơng mại kinh doanh là mặt hàng tƣ liệu
sản xuất hay mặt hàng tƣ liệu tiêu dùng, hình thức là chuyên doanh hay tổng hợp
mà doanh nghiệp thƣơng mại phải tìm nguồn hàng từ các doanh nghiệp sản xuất
mặt hàng trong nƣớc hoặc nhập khẩu từ nƣớc ngoài.
Tiến hành nghiên cứu thị trƣờng nguồn hàng, doanh nghiệp thƣơng mại với
mục đích nắm đƣợc khả năng của các nguồn cung ứng loại hàng về số lƣợng, chất
lƣợng, địa điểm của đơn vị nguồn hàng. Doanh nghiệp thƣơng mại cũng cần nghiên
cứu xác định doanh nghiệp nguồn hàng là ngƣời trực tiếp sản xuất kinh doanh hay
là doanh nghiệp trung gian, địa chỉ, nguồn hàng, khả năng sản xuất và cả chính
sách tiêu thụ hàng hoá của các đơn vị nguồn hàng. Cần đặc biệt chú ý đến chất
lƣợng hàng hoá, tính tiên tiến của mặt hàng, giá cả, thời hạn giao hàng, phƣơng
thức giao nhận, kiểm tra chất lƣợng, bao gói, vận chuyển… và phƣơng thức thanh
toán. Với nguồn hàn sản xuất trong nƣớc, cần phải đến tận nơi kiểm tra kiểm tra về
tính xác thực, uy tín, chất lƣợng của loại hàng và chủ hàng. Với nguồn hàng nhập
khẩu, cần thông qua các thƣơng vụ, tham tán thƣơng mại, các tổ chức hỗ trợ thƣơng
mại của Việt Nam ở trong nƣớc cũng nhƣ nƣớc ngoài.
Sau khi tiến hành nghiên cứu về bạn hàng, doanh nghiệp thƣơng mại sẽ ra
quyết định lựa chọn bạn hàng. Quyết định chọn bạn hàng sẽ ảnh hƣởng đến sự ổn
định và chắc chắn của nguồn hàng. Doanh nghiệp thƣơng mại có những bạn hàng
tin cậy, thiết lập đƣợc mối quan hệ truyền thống, trực tiếp và lâu dài để từ đó có
một nguồn hàng chất lƣợng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, tạo uy tín
cho doanh nghiệp thƣơng mại với khách hàng của mình. Có nhiều phƣơng pháp
nghiên cứu thị trƣờng nguồn hàng, đặc biệt là nguồn hàng mới. Thông qua khảo sát
thực tế, thông qua hội trợ, triển lãm thƣơng mại, thông qua internet, thông qua
quảng cáo, xúc tiến thƣơng mại, thông qua xác trung tâm giới thiệu hàng hoá, các
báo, tạp chí chuyên ngành…
1.2.1.3 Chi phí cho việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá
Đó là các chi phí giao dịch, kí kết hợp đồng. Sau khi đã chọn đƣợc đối tác
phù hợp với yêu cầu và điều kiện của doanh nghiệp thƣơng mại thì doanh nghiệp sẽ
thiết lập mối quan hệ kinh tế, thƣơng mại với đối tác để hai bên hợp tác giúp đỡ lẫn
nhau thoả mãn yêu cầu của mỗi bên. Yêu cầu của bên mua là khối lƣợng, cơ cấu
hàng mua, chất lƣợng, quy cách, cỡ loại, mẫu mã, màu sắc, bao bì, đóng gói, địa
điểm giao hàng, phƣơng thức thanh toán. Yêu cầu của bên bán về phƣơng thức
thanh toán, phƣơng thức giao nhận, kiểm tra hàng hoá. Hai bên mua bán cần có sự
thƣơng thảo và ký kết đƣợc với nhau bằng vác hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp
đồng kinh tế mua bán hàng hóa chính là cam kết của hai bên về quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên trong mối quan hệ trao đổi hàng hoá. Để tạo sự tin tƣởng lẫn nhau
trong mua bán hàng hoá, hai bên có thể cho phép kiểm tra ngay từ khi hàng hoá
đƣợc sản xuất ra. Bên mua có thể cử ngƣời đếm nơi sản xuất xem xét quy trình
công nghệ, chất lƣợng hàng hoá, quy cách đóng gói hoặc có thể thông qua các cơ
quan kiểm tra chất lƣợng hàng hoá. Việc thực hiện nghiêm túc hợp đồng mua bán
hàng hoá đã ký kết là điều kiện quan trọng nhất đảm bảo sự đầy đủ, kịp thời và ổn
định cho nguồn hàng.
1.2.2
Chi phí lƣu thông của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng
không
Các Mác nói: “Hàng hoá không thể tự mình đi tới thị trƣờng đƣợc, cũng
không thể tự mình trao đổi với nhau đƣợc”. Doanh nghiệp thƣơng mại sau khi đã
có hàng hoá phù hợp với nhu cầu của khách hàng thì vấn đề đặt ra là làm thế nào để
hàng hoá đến đƣợc tận tay ngƣời tiêu dùng một cách nhanh chóng, và thuận tiện
nhất. Thông thƣờng, các đơn vị sản xuất ra hàng hoá vất chất nằm xa khu dân cƣ,
khu vực tiêu dùng cho nên hàng hoá cần phải có một quá trình vận động thì mới
đến đƣợc với ngƣời sử dụng. Tất cả những khoản chi phí để hàng hoá vận chuyển
đến ngƣời tiêu dùng đƣợc gọi là chi phí lƣu thông. Từ đó ta có khái niệm chi phí
lƣu thông nhƣ sau: “Chi phí lƣu thông là chi phí lao động xã hội cần thiết thể hiện
bằng tiền trong lĩnh vực lƣu thông hàng hoá từ nơi mua hàng (nguồn hàng) đến nơi
bán hàng”. Về bản chất chi phí lƣu thông là giá của việc lƣu thông hàng hoá từ nơi
mà hàng hoá có khả năng sử dụng đến nơi mà nó có thể thực hiện đƣợc giá trị sử
dụng. Chi phí lƣu thông bao gồm chi phí vận tải, bốc dỡ hàng hoá; chi phí bảo
quản, thu mua; chi phí hao hụt hàng hoá và chi phí quản trị kinh doanh của doanh
nghiệp thƣơng mại.
Chi phí lƣu thông là chi phí phát sinh trong quá trình lƣu thông, là một tồn tại
khách quan nhƣ bản thân quá trình lƣu thông và vì quá trình lƣu thông. Khác với
chi phí mua hàng, nếu chi phí mua hàng đƣợc xác đinh theo từng lần mua, từng đợt
mua, chủ yếu do lãnh đạo doanh nghiệp thƣơng mại ký kết hợp đồng thu mua, đặt
hàng. Chi phí lƣu thông gắn liền suốt với quá trình mua bán và vận động của hàng
hoá từ nguồn hàng đến nơi bán, không có chi phí lƣu thông sẽ không thể thực hiện
đƣợc việc lƣu thông hàng hoá, nhƣng chi phí lƣu thông cao hay thấp lại phù thuộc
rất nhiều vào trình độ tổ chức quản trị của doanh nghiệp thƣơng mại, của các bộ
phận, các khâu, phụ thuộc vào sự tính toán hợp lý cũng nhƣ ý thức chi tiêu tiết
kiệm của mọi thành viên của doanh nghiệp thƣơng mại. Nếu chỉ tiêu giá thành sản
phẩm thể hiện trình độ của doanh nghiệp sản xuất thì chi phí lƣu thông là một trong
những chỉ tiêu chất lƣợng quan trọng để đánh giá trình độ tổ chức quản trị kinh
doanh của doanh nghiệp thƣơng mại. Sau đây ta sẽ đi sâu vào nghiên cứu về chi phí
lƣu thông.
Phân loại chi phí lưu thông:
- Theo nội dung kinh tế, chi phí lƣu thông đƣợc chia thành chi phí lƣu thông
thuần tuý và chi phí lƣu thông bổ sung:
Chi phí lưu thông thuần tuý là những khoản chi phí gắn liền với việc mua
bán hàng hóa, hạch toán hàng hoá và lƣu thông tiền tệ. Các khoản chi phí này
không làm tăng thêm giá trị của hàng hoá.
Chi phí lưu thông bổ sung là những khoản chi phí nhằm tiếp tục và hoàn
thành quá trình sản xuất nhƣng bị hình thái lƣu thông che dấu đi. Chi phí lƣu thông
bổ sung không làm tănng thêm giá trị sử dụng của hàng hoá nhƣng nó làm tăng
thêm giá trị của hàng hoá.
- Theo sự phụ thuộc vào tổng mức lƣu chuyển, chi phí lƣu thông đƣợc chia
thành chi phí lƣu thông khả biến và chi phí lƣu thông bất biến:
Chi phí lưu thông khả biến là những khoản chi phí phụ thuộc chắt chẽ vào sự
thay đổi của tổng mức lƣu chuyển hàng hoá. Khi tổng mức lƣu chuyển hàng hoá
tăng lên hay giảm xuống thì các khoản chi phí này cũng tăng lên hay giảm xuống.
Đó là các khoản chi phí thu mua, chi phí vận tải, bốc dỡ, bảo quản hàng hoá .
Chi phí lưu thông bất biến là những khoản chi phí không thay đổi hoặc ít có
liên quan đến sự thay đổi của tổng mức lƣu chuyển hàng hoá. Chi phí này gồm có
chi phí quản lý hàng chính, khấu hao tài sản cố định.
Theo các khâu của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thƣơng mại,
ngƣời ta còn phân chia chi phí lƣu thông theo các khâu của hoạt động kinh doanh và
quản lí kinh doanh. Ngay trong một doanh nghiệp cũng chia ra thành: cấp doanh
nghiệp, cấp kho, trạm, cửa hàng, quầy hàng, các đại lý…
Chi phí lƣu thông bao gồm rất nhiều các doanh mục khác nhau. Các khoản
mục trong bảng danh mục chi phí lƣu thông đƣợc xây dựng theo nguyên tắc hƣớng
phí, theo cách xây dựng này chi phí lƣu thông đƣợc chia thành 4 khoản mục lớn:
Khoản mục chi phí vận tải, bốc dỡ hàng hoá.
Khoản mục chi phí bảo quản, thu mua, tiêu thụ.
Khoản mục chi phí hao hụt hàng hoá.
Khoản mục chi phí quản lí hành chính.
*) Chi phí vận tải, bốc dỡ hàng hoá là toàn bộ các khoản chi phí về vận
chuyển, bốc dỡ hàng hoá trong quá trình mua bán, xuất nhập hàng hóa. Chi phí vận
tải, bốc dỡ hàng hoá bao gồm: tiền cƣớc phí vận chuyển, tiền bốc dỡ khuân vác, tạp
phí vận chuyển.
*) Chi phí bảo quản, thu mua tiêu thụ hàng hoá là những khoản chi phí phục
vụ cho quá trình bảo quản, thu mua, tiêu thụ hàng hoá bao gồm tiền lƣơng trực tiếp
kinh doanh, chi phí giữ gìn chất lƣợng và số lƣợng hàng hoá dự trữ trong kho, chi
phí trả tiền lãi vay ngân hàng, chi phí nhiên liệu điện lực, chi phí về vệ sinh kho
tàng và cửa hàng.
*) Chi phí hao hụt hàng hoá gồm có: hao hụt trong định mức và hao hụt
ngoài định mức. Hao hụt trong định mức là hao hụt tự nhiên phụ thuộc vào tính chất
vật lý hoá học của hàng hoá trong quá trình vận chuyển, giao nhận, bốc dỡ, bảo
quản. Đó là sự hao hụt tất yếu nhƣ xăng dầu bay hơi, than vỡ vụn, phân đạm rơi
vãi…Ngƣời ta thƣờng quy định thành định mức hao hụt. Định mức hao hụt là tỷ lệ
hao hụt cho phép tối đa đối với hàng hoá trong điều kiện nhất định về kỹ thuật và
quản lý kinh doanh của thời kỳ kế hoạch cho từng loại hàng và từng khâu. Hao hụt
trong định mức đƣợc tính vào chi phí lƣu thông. Hao hụt ngoài định mức là hao hụt
do chủ quan con ngƣời gây ra dẫn tới hao hụt nhiều hơn so với định mức cho phép,
đây là khoản bội chi phải trừ vào lợi nhuận.
*) Chi phí quản lý hành chính bao gồm các khoản tiền lƣơng cho bộ máy
quản trị của doanh nghiệp, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong quản lý hành
chính, chi phí nhiên liệu điện lực dùng trong quản lý hành chính và các khoản chi
phí khác nhƣ chi phí tiếp khách, chi phí hội nghị tổng kết.
Từ việc xác định các khoản mục của chi phí lƣu thông để từ đó tính tỷ lệ của
từng khoản mục chiếm trong chi phí lƣu thông nhằm mục đích giảm đi những
khoản chi phí không hiệu quả hoặc quá lớn không cần thiết.
1.2.3 Chi cho bảo hiểm và nộp thuế của Công ty cổ phần xuất nhập
khẩu Hàng không
1.2.3.1 Chi cho bảo hiểm
Trong cuộc sống của con ngƣời nói chung và hoạt động kinh doanh nói
riêng, con ngƣời luôn phải đối mặt với sự thật đó là những bất trắc, nguy hiển tiềm
ẩn, có thể xảy ra và gây thiệt hại cho con ngƣời. Những nguy hiểm, bất trắc đƣợc
gọi là rủi ro. Rủi ro tồn tại khách quan, song hành cùng với quá trình kinh doanh, ở
đâu có kinh doanh thì ở đó cũng tồn tại rủi ro đe doạ. Có rủi ro sẽ sinh ra tổn thất,
tổn thất là những thiệt hại, mất mát về con ngƣời, tài sản, tinh thần, sự nghiệp và cơ
hội đáng lẽ đƣợc hƣởng lợi do các nguyên nhân từ rủi ro gây ra. Mối quan hệ giữa
rủi ro và tổn thất là mối quan hệ nhân quả. Rủi ro là những sự kiện bất lợi xảy ra,
còn tổn thất là những hậu quả, những mất mát, những thiệt hại đƣợc xác định do các
rủi ro gây ra.
Khi rủi ro gây ra tổn thất, con ngƣời sẽ phải ngăn chặn, khắc phục hậu quả,
từ đó phát sinh các chi phí gọi là chi phí rủi ro. Chi phí rủi ro là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ chi phí trong việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro và bồi thƣờng tổn thất đã
gây ra.
Có rất nhiều cách để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, một trong những cách
thƣờng đƣợc các nhà quản trị ƣa thích sử dụng và cũng rất phù hợp với xu thế phát
triển của xã hội ngày nay đó là tham gia bảo hiểm cho hàng hoá , tài sản trong hoạt
động kinh doanh. Bảo hiểm ra đời do sự tồn tại khách quan của rủi ro, là để bù đắp
về tài chính nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro chứ không phải là ngăn chặn rủi ro.
Bảo hiểm là sự cam kết của ngƣời bảo hiểm bồi thƣờng cho ngƣời đƣợc bảo hiểm
về những mất mát hƣ hỏng của đối tƣợng bảo hiểm do những rủi ro đã thoả thuận
gây ra, khi ngƣời đƣợc bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tƣợng đó và đã nộp lệ
phí bảo hiểm. Thực chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một ngƣời hay
một số ngƣời cho tất cả mọi ngƣời tham gia bảo hiểm cùng gánh chịu. Nhờ dịch vụ
bảo hiểm mà các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá khắc phục đƣợc các tổn thất do
rủi ro gây ra, còn ngƣời kinh doanh bảo hiểm thu đƣợc lợi nhuận.
Mỗi điều kiện bảo hiểm có một mức lệ phí bảo hiểm khác nhau. Mỗi hàng
hoá, tài sản chỉ thích hợp với một hoặc một vài điều kiện bảo hiểm, vì vậy cần phải
lựa chọn điều kiện bảo hiểm cho phù hợp. Bởi chi phí mua bảo hiểm là khoản chi
phí làm tăng chi phí kinh doanh, nếu chi cho bảo hiểm quá nhiều sẽ ảnh hƣởng tới
lợi nhuận của doanh nghiệp thƣơng mại.
1.2.3.2 Chi chi nộp thuế
Chi nộp thuế: thuế là khoản đóng góp theo quy định của pháp luật mà Nhà
nƣớc bắt buộc mọi tổ chức và cá nhân phải có nghĩa vụ nộp cho ngân sách nhà
nƣớc, kinh doanh thì phải nộp thuế. Doanh nghiệp thƣơng mại tuỳ theo lĩnh vực
kinh doanh và mặt hàng kinh doanh mà phải nộp các khoản thuế khác nhau cho
ngân sách nhà nƣớc. Số thuế mà doanh nghiệp phải nộp phụ thuộc vào doanh thu
chịu thuế và tỷ suất do các luật thuế quy định.
1.3 Đặc điểm của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không
1.3.1
Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần xuất
nhập khẩu Hàng không
1.3.1.1 Sơ lược vài nét về Công ty
Tên Công ty: Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không AIRMEX.
Tên quốc tế: General Aviation Import-Export Joint Stock Company
Trụ sở chính: 414 Nguyễn Văn Cừ - Gia Lâm – Hà Nội
ĐT: 84-4-8271351; Fax: 84-48271925; Điện tín: AIRMEX HA NOI
E- mail:
[email protected]
Chi nhánh Công ty tại TPHCM: 126 Thăng Long, quận Tân Bình
Đại lý bán vé của VN Airmex: 142 Tôn Đức Thắng- Đống Đa, Hà Nội.
1.3.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Tại mọi quốc gia trên thế giới ngành Hàng không là một trong những ngành
kinh tế huyết mạch của đất nƣớc. Với Việt Nam ngành Hàng không có tính chất đặc
thù: chở khách và các hình thức vận tải phục vụ nhiệm vụ chính trị đặc biệt, phục
vụ bay kinh tế quốc dân, thăm dò địa chất, chụp ảnh… Đây là ngành có kĩ thuật
công nghệ cao, vì vậy an toàn là mục tiêu hàng đầu và đƣợc thực hiện hết sức
nghiêm nghặt với các yếu tố đồng bộ, khép kín của ngành Hàng không Việt Nam.
Tuy nhiên, ngoài tinh thần trách nhiệm, thì mục tiêu an toàn cho chuyến bay còn
phụ thuộc rất lớn vào yếu tố vất chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho đại tu, sửa
chữa, bảo dƣỡng máy bay, sân bay… Với trình độ khoa học kĩ thuật ở Việt Nam
hiện nay chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngành Hàng không, vậy nên toàn bộ dụng
cụ bay, thiết bị đảm bảo bay đều phải nhập ngoại.
Trƣớc 1985, ngành Hàng không Việt Nam nhập máy bay, động cơ, thiết bị
phụ tùng mặt đất, sân bay….qua MACHINO- IMPORT. Đây là công ty đƣợc cục
Hàng không dân dụng Việt Nam uỷ thác hoàn toàn các bộ phận nêu trên.Việc uỷ
thác nhập khẩu này đã phát sinh nhiều vấn đề doỉcinh độ kỹ thuật chuyên ngành của
cơ quan đƣợc uỷ thác kém, nhiều trƣờng hợp hàng hoá cung cấp không đúng chủng
loại yêu cầu. Mặt khác mọi sự thay đổi đều không thể liên hệ trực tiếp với bên
ngoài mà phải thông qua MACHINO-IMPORT,điều này gây ra nhiều bất lợi cản trở
cho tiến trình hoạt động của ngành, việc uỷ thác xuất nhập cho Công ty không có
nhiều kinh nghiệm dẫn đến hàng hoá cung cấp với giá đắt, dịch vụ kèm theo thƣờng
là không có hoặc không hợp lệ.
Nhận rõ nhu cầu của việc cần có một bộ phận chuyên đảm nhận công tác
xuất nhập khẩu thiết bị Hàng không và căn cứ vào yêu cầu phát triển của ngành
Hàng không dân dụng VN. Ngày 1/5/1989 cục trƣởng Hàng không dân dụng VN đã
ký quyết định số 197 TCHK thành lập Công ty xuất nhập khẩu chuyên ngành và
dịch vụ Hàng không với tiền thân là phòng vật tƣ kỹ thuật của Tổng Cục Hàng
không dân dụng VN trực thuộc Bộ quốc phòng. Đến 7/1994 theo Quyết định số
1173/QĐ/TCCB-LĐ của Bộ trƣởng bộ Giao thông vận tải ngày 30/7/94 đã đổi tên
thành Công ty xuất nhập khẩu Hàng không (tên giao dịch là AIRIMEX).
Từ khi Công ty đƣợc thành lập công việc nhập khẩu đƣợc giao cho Công ty
thực hiện trên cơ sở chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của Cục Hàng không dân
dụng VN (nay là Tổng Công ty Hàng không Việt Nam). Thông qua việc tự nhập,
Công ty đã khẳng định khả năng xuất nhập khẩu của mình. Cùng với đội ngũ cán bộ
am hiểu kỹ thuật Hàng không và nghiệp vụ ngoại thƣơng, Công ty đã đƣa ra các
giải pháp, phƣơng án hợp lí có lợi cho Công ty và cho ngƣời uỷ thác nhập khẩu.
Nhờ đó, hoạt động nhập khẩu trang thiết bị Hàng không thông qua Công ty
AIRMEX thƣờng có hiệu quả cao, chất lƣợng hàng nhập đảm bảo đúng quy cách
yêu cầu, tạo điều kiện thực hiện nhanh chóng các thủ tục đăng ký, đăng kiểm theo
đúng yêu cầu kỹ thuật của tổ chức Hàng không thế giới ICAO (Internatinonal Civil
Avation Organiration) và loại trừ các khuyết điểm do nhập khẩu qua MACHINOIMPORT.
Quyết định số 197/TCHK, ngày 1/6/1989 thành lập Công ty xuất nhập khẩu
chuyên ngành và dịch vụ Hàng không với nhiệm vụ:
Xuất nhập khẩu các trang thiết bị, khí tài và phụ tùng thay thế cần thiết cho ngành
Hàng không dân dụng Việt Nam và một số mặt hàng phi mậu dịch để bán tái xuất ở
các nhà ga Quốc tế.
- Tận dụng trọng tải thừa của Hàng không Việt Nam và các hãng hàng không nƣớc
ngoài xuất khẩu những mặt hàng do Bộ Kinh tế đối ngoại (nay là Bộ Thƣơng mại)
uỷ quyền.
Trong thời gian này Công ty vẫn là đơn vị hoạch toán nội bộ phụ thuộc vào
cấp trên. Từ đó dẫn tới bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và không đáp ứng đƣợc nhu
cầu cấp thiết của bạn hàng, thụ động đối với những thay đổi của thị trƣờng. Do vậy,
đã không phát huy dết tính năng động, sáng tạo của lãnh đạo và cán bộ công nhân
viên của Công ty.
Kể từ ngày 8/1/1993 sau khi Cục trƣởng Cục Hàng không dân dụng Việt
Nam ra quyết định số 10/HKVN cho phép Công ty đƣợc hạch toán độc lập thì nhiện
vụ chủ yếu của Công ty là:
- Nhập uỷ thác máy bay, động cơ, thiết bị, phụ tùng, linh kiện lẻ cho ngành Hàng
không Việt Nam.
- Ký kết thực hiện thanh lý hợp đồng đại tu máy bay, động cơ, trang thiết bị, phụ
tùng máy bay.
- Nhận uỷ thác trang thiết bị mặt đất, trạm xƣởng cho các sân bay, nhà ga và
ngành quản lý không lực.
- Nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị có tƣ cách pháp nhân cần dầu mỡ phục vụ cho
máy bay, trang thiết bị mặt đất và các phƣơng tiện khác.
- Mở rộng quy mô nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị không có chức năng nhập
khẩu theo các quyết định cho phép của nhà nƣớc, tạo điều kiện cho các đơn vị hoạt
động và phát triển.
- Tổ chức mở rộng hình thức nhập khẩu các mặt hàng khác đƣợc Nhà nƣớc cho
phép.
Đến 7/1994 theo Quyết định số 1173/QĐ/TCCB-LĐ của Bộ trƣởng bộ Giao
thông vận tải ngày 30/7/94 đã đổi tên thành Công ty xuất nhập khẩu Hàng không
với nhiệm vụ:
- Kinh doanh xuất nhập khẩu máy bay, phƣơng tiện, phụ tùng, vật tƣ cho ngành
Hàng không.
- Kinh doanh xuất nhập khẩu trang thiết bị vật tƣ vật liệu và hàng hoá dân dụng.
- Kinh doanh dịch vụ nhận gửi hàng hóa, đại lý bán vé máy bay.
- Kinh doanh các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật.
- Công ty AIRIMEX và các thành viên trong Tổng Công ty Hàng không Việt Nam
chịu sự quản lý trực tiếp của ban lãnh đạo Tổng Công ty. Các Công ty này có mối
quan hệ trực tiếp với nhau nhƣ những bạn hàng truyền thống của nhau về các loại
hàng hoá, dịch vụ cho ngành Hàng không và các ngành có liên quan.
Theo bƣớc phát triển của ngành, tháng 6/2003 công ty đƣợc giao vốn để chủ động
hoạt động kinh doanh, là một đơn vị hạch toán độc lập thuộc cục Hàng không dân
dụng Việt Nam.
Từ tháng 10/1994, công ty hoạt động theo giấy phép đăng kí kinh doanh số
100162 của Uỷ ban kế hoạch Nhà nƣớc cấp ngày 27/09/1994. Cho đến ngày
17/10/2005 theo quyết định số 3892/QĐ-BGTGVT của Bộ trƣởng Bộ giao thông
vận tải đã phê duyệt phƣơng án và quyết định chuyển công ty xuất nhập khẩu Hàng
không trực thuộc tổng công ty Hàng không Việt Nam thành công ty cổ phần.
1.3.2 Chức năng, nhiệm vụ và bộ máy tổ chức quản lý của Công ty cổ
phần xuất nhập khẩu Hàng không
1.3.2.1 Chức năng của Công ty
Kinh doanh xuất nhập khẩu máy bay, phƣơng tiện thiết bị phụ tùng, vật tƣ
cho ngành Hàng không.
Kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị, vật tƣ, vật liệu và hàng hoá dân dụng.
Kinh doanh dịch vụ nhận gửi háng hoá, đại lý vé máy bay, giữ vé Hàng
không.
Tuy nhiên, Công ty xuất nhập khẩu Hàng không chỉ mang danh nghĩa Công
ty xuất nhập khẩu còn thực chất hiện nay Công ty chỉ hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực nhập khẩu và là nhập khẩu uỷ thác hƣởng hoa hồng theo từng lô hàng nhập
khẩu. Vì vậy mọi hoạt động kinh doanh của Công ty đều phụ thuộc vào bên uỷ thác
nhập khẩu dẫn tới tình hình nhập khẩu của Công ty biến động lúc tăng lúc giảm
theo nhu cầu của ngành.