Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giải quyết khiếu nại về đất đai của ủy ban nhân dân tỉnh gia lai ...

Tài liệu Giải quyết khiếu nại về đất đai của ủy ban nhân dân tỉnh gia lai

.PDF
106
492
84

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM MINH TRUNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK - NĂM 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM MINH TRUNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lê Thị Hương ĐẮK LẮK - NĂM 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả được trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ luận văn nào trước đây. Học viên Phạm Minh Trung MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1 .................................................................................................................. 8 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ........................................................................ 8 1.1. Khiếu nại về đất đai và giải quyết khiếu nại về đất đai ................................. 8 1.2. Giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh .......................... 26 1.3. Kinh nghiệm giải quyết khiếu nại về đất đai của một số địa phương và bài học kinh nghiệm ................................................................................................. 37 Chương 2 ................................................................................................................ 45 TÌNH HÌNH KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI ......... 45 2.1. Tình hình khiếu nại về đất đai trên địa bàn tỉnh Gia Lai............................. 45 2.2. Thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai ................................................................................................................ 51 Chương 3 ................................................................................................................ 69 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI .............................................. 69 3.1. Quan điểm bảo đảm giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai ......................................................................................................... 69 3.2. Giải pháp bảo đảm giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai ......................................................................................................... 77 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 95 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - CNXH Chủ nghĩa xã hội - GCNQSD Giấy chứng nhận quyền sử dụng - UBND Ủy ban nhân dân - XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tổng hợp diện tích đất được cấp GCNQSD đất của tỉnh Gia Lai tính đến tháng 12/2015 .................................................................................................. 46 Bảng 2.2: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến đất đai của tỉnh Gia Lai từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực đến năm 2011…. 49 Bảng 2.3: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại, tố cáo của tỉnh Gia Lai giai đoạn 2011-2015 .............................................................................................................. 50 Bảng 2.4: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại và kết quả giải quyết khiếu nại của tỉnh Gia Lai giai đoạn 2011-2015. ......................................................................... 51 Bảng 2.5: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực hành chính của UBND tỉnh Gia Lai tiếp nhận giai đoạn 2011-2015. ............................ 51 Bảng 2.6: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại về đất đai và kết quả giải quyết khiếu nại của UBND tỉnh Gia Lai giai đoạn 2011-2015. ...................................... 52 Bảng 2.7: Tổng hợp số liệu cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Gia Lai có trình độ sau đại học tính đến ngày 30/6/2014. ....................................................... 66 Bảng 2.8: Tổng hợp số liệu công chức kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tham mưu giải quyết khiếu nại về đất đai cho UBND tỉnh Gia Lai........................................ 67 Bản đồ hành chính tỉnh Gia Lai MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và là thành quả cách mạng của cả dân tộc Việt Nam. C.Mác đã chỉ rõ: “Đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi hoạt động của loài người” [13; tr.473,474]. Bất kỳ quốc gia nào, nếu biết quản lý, sử dụng hợp lý đất đai thì nguồn tài nguyên này được bảo vệ và mang lại hiệu quả, lợi ích to lớn, thiết thực phục vụ cho mỗi con người và cả cộng đồng. Đất đai có vai trò quan trọng như vậy nên Đảng và Nhà nước ta giành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề đất đai. Chủ trương, đường lối của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về đất đai được điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chính sách, pháp luật đất đai trở thành cơ sở pháp lý hết sức quan trọng huy động nguồn lực đất đai để phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Vì vậy, quản lý nhà nước bằng pháp luật về đất đai ngày càng hoàn thiện, đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, hệ thống quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường, từng bước phân cấp và phát huy tính tự chủ của địa phương. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình quản lý và sử dụng đất đai hiện nay đang có những yếu kém. Vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa có tính chiến lược lâu dài và ổn định hoặc thiếu tính khả thi; cơ chế quản lý về đất đai thiếu hiệu quả; cơ quan quản lý đất đai các cấp nhìn chung còn nhiều yếu kém. Chính vì thế tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về quản lý và sử dụng đất đai có xu hướng diễn biến phức tạp. Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo còn chưa kịp thời, thiếu hiệu quả. Những yếu kém trong công tác quản lý và sử dụng đất nói chung cũng như những yếu kém trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất 1 đai nói riêng có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng từ sự hạn chế, bất cập của chính sách, pháp luật đất đai và việc giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi nhận tại Điều 30: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [22; tr.7]. Thực hiện quyền khiếu nại là một trong những hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước. Khiếu nại là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại không những có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước và công dân. Khiếu nại đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội; đặc biệt khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai - những giá trị vốn có thì tranh chấp, khiếu nại đất đai phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp về mặt nội dung. Tuy nhiên, khiếu nại đất đai kéo dài với số lượng ngày càng đông người dân tham gia thì lại là vấn đề rất đáng quan tâm, tìm hiểu nguyên nhân nảy sinh để đề ra các biện pháp giải quyết phù hợp, nhằm “tháo ngòi nổ” xung đột không để phát sinh trở thành “điểm nóng” gây mất ổn định chính trị, tình hình trật tự an toàn xã hội. Tính phức tạp của khiếu nại đất đai, khiếu nại kéo dài không chỉ bắt nguồn từ những xung đột gay gắt về lợi ích, từ hệ quả của sự quản lý thiếu hiệu quả của cơ quan công quyền, sự bất hợp lý và thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật đất đai… mà còn do những nguyên nhân có tính lịch sử trong quản lý và sử dụng đất đai qua các thời kỳ. 2 Gia Lai là một tỉnh miền núi biên giới nằm ở khu vực phía bắc Tây Nguyên, được đánh giá là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, với diện tích tự nhiên là 15.495,7 km2 (lớn thứ hai cả nước); có 90 km đường biên giới giáp với Campuchia; dân số hơn 1,3 triệu người, trong đó có hơn 44% dân số là người đồng bào dân tộc thiểu số (chủ yếu là dân tộc Jrai, chiếm tỷ lệ 29,2% và dân tộc Bahnar, chiếm tỷ lệ 11,9%). Với đặc thù đó, việc tìm hiểu thực trạng và tìm giải pháp để giải quyết tốt công tác khiếu nại trong lĩnh vực đất đai ở tỉnh Gia Lai là một chuyên đề hay và cấp thiết, nó giúp cho chúng ta có được cái nhìn tổng quát về thực tiễn giải quyết khiếu nại ở địa phương; những bất cập giữa pháp luật hiện hành với thực tiễn; những vấn đề bức xúc, tồn đọng trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai ở địa phương và tìm ra những giải pháp khắc phục. Nhận thức những vướng mắc cần phải được chấn chỉnh, tháo gỡ cũng như tầm quan trọng của việc giải quyết khiếu nại về đất đai nói chung và của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Gia Lai nói riêng. Đồng thời đó cũng là những trăn trở của tác giả được đúc kết từ thực tiễn và quá trình học tập, vì thế tôi chọn đề tài “Giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai” làm luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Hiện nay theo tôi tìm hiểu và được biết thì số lươ ̣ng các công trình nghiên cứu về công tác giải quyết khiếu nại nói chung và giải quyết khiếu nại về lĩnh vực đất đai nói riêng đã có nhiều tác giả thực hiện. Những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học được công bố liên quan đến khiếu nại và giải quyết khiếu nại, được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể chia các công trình thành 02 nhóm vấn đề sau: - Các tài liệu chuyên khảo, giáo trình phục vụ nghiên cứu và giảng dạy có đề cập đến khiếu nại và giải quyết khiếu nại như: “Đặc san tuyên truyền pháp luật số 9”, của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính 3 phủ (2009); “Hiệu quả pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở Việt Nam”, Nxb Chính trị - Hành chính Hà Nội (2012); “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người”, của GS.TS. Võ Khánh Vinh - Viện khoa học xã hội Việt Nam; "Giải đáp Luật hành chính Việt Nam, Chương XIX", của TS. Phạm Hồng Thái và TS. Đinh Văn Mậu, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh (1996); "Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Chương XXI, Chương XXII", của Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2005); "Tìm hiểu pháp luật về khiếu nại, tố cáo", của PGS.TS Phạm Hồng Thái (Chủ biên), Nxb thành phố Hồ Chí Minh (2003). - Luận văn và Luận án tốt nghiệp như: “Giải quyết khiếu nại đất đai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ quản lý công của Nguyễn Thị Thúy Hằng; “Giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công của Trương Tiến Dũng; “Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”, Luận văn Thạc sỹ luật học của Phạm Văn Long; “Giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk”, Luận văn Thạc sỹ quản lý hành chính công của Nguyễn Quang Huy; “Giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra tỉnh Đắk Lắk”, Luận văn Thạc sỹ quản lý công của Vũ Văn Hưng; “Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền khiếu nại hành chính của công dân ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sỹ của nghiên cứu sinh Nguyễn Tuấn Khanh; "Tăng cường hiệu lực của pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ luật học của Nguyễn Thế Thuấn. Mỗi công trình nghiên cứu chọn cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Mặt khác, công tác giải quyết khiếu nại ở các địa phương khác nhau và trong những giai đoạn khác nhau sẽ có những đặc thù khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu và phân tích thực trạng giải quyết khiếu nại về lĩnh vực đất đai của UBND tỉnh Gia Lai. Vì vậy, việc nghiên 4 cứu đề tài “Giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai” là không trùng lặp. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Thông qua hệ thống cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai và thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai của UBND tỉnh Gia Lai, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm giải quyết khiếu nại về đất đai của UBND tỉnh Gia Lai trong giai đoạn tiếp theo. - Nhiệm vụ: Để hoàn thành mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ: - Làm sáng tỏ những nội dung lý luận, pháp lý về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; quan điểm của đảng, nhà nước đối với khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của công dân trong thời kỳ đổi mới. - Đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của UBND tỉnh Gia Lai thời gian qua, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những mặt tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu. - Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm giải quyết khiếu nại về đất đai của UBND tỉnh Gia Lai hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác giải quyết khiếu nại về đất đai của UBND tỉnh Gia Lai. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động giải quyết khiếu nại về đất đai trong phạm vi những vấn đề được quy định trong Luật Khiếu nại, Luật Đất đai và một số văn bản pháp luật liên quan đến đất đai. 5 Với mục đích đặt ra của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sâu việc giải quyết khiếu nại về đất đai của UBND tỉnh Gia Lai trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và tham khảo các công trình khoa học và bài viết của các tác giả có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu, làm rõ các vấn đề chung về khiếu nại, giải quyết khiếu nại, khái niệm, trình tự thủ tục của khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của UBND tỉnh Gia Lai. - Về thực tiễn: Qua phân tích, đánh giá thực trạng công tác giải quyết khiếu nại về đất đai của UBND tỉnh Gia Lai, luận văn đánh giá thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của UBND tỉnh Gia Lai; nhận diện, phân tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại trong quản lý và sử dụng đất; những tồn tại, hạn chế trong công tác giải quyết. Từ đó, đề xuất giải pháp nhằm làm giảm các nguy cơ phát sinh khiếu nại và nâng cao trách nhiệm giải quyết khiếu nại trong quản lý và sử dụng đất thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh Gia Lai trong thời gian tới. 6 Luận văn có thể cung cấp cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh một số hiểu biết cơ bản về thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành, qua đó tạo điều kiện tốt hơn cho việc tuyên truyền, phổ biến và vận động cán bộ, nhân dân chấp hành pháp luật về lĩnh vực này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, bao gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh. Chương 2: Tình hình khiếu nại và thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai. Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH 1.1. Khiếu nại về đất đai và giải quyết khiếu nại về đất đai 1.1.1. Quan niệm về khiếu nại và khiếu nại về đất đai 1.1.1.1. Khiếu nại và quyền khiếu nại của công dân Nhà nước ra đời trở thành công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, thông qua việc sử dụng nhà nước, giai cấp thống trị đã điều hòa được những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội, bảo vệ được quyền lợi của giai cấp mình. Tuy nhiên, bất kì nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều phải an dân và ổn định xã hội. Bởi, nếu không có dân thì cũng không có nhà nước. Do vậy, trong hoạt động của mình, mọi nhà nước đều có những quy định trong luật việc bảo vệ công dân của mình. Về phía người dân, dù người có hiểu biết cao đến hiểu biết thấp đều nhận thức rằng: dưới sự bảo hộ của nhà nước thì mọi quyền lợi của mình mới được bảo đảm, được bảo vệ. Song, do bản chất của mỗi kiểu nhà nước khác nhau nên mức độ bảo hộ cũng có khác nhau. Mặt khác, bản thân nhà nước cũng luôn mong muốn bộ máy do mình lập ra, trong đó có đội ngũ quan chức nhà nước phải tuân thủ sự điều khiển, quản lý của nhà nước, không muốn bất kì ai, tổ chức nào trong bộ máy nhà nước lại phá vỡ những quy định (pháp luật) mà nhà nước đã đặt ra. Thế nhưng, trong thực tiễn, từ nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn, từ sự chi phối của lợi ích, của tình cảm hay từ sự yếu kém trong quản lý mà một bộ phận nào đó đã vô tình hoặc cố ý làm sai, thậm chí vi phạm nghiêm trọng những quy định của pháp luật, làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền lợi hợp pháp của công dân, tổ chức, xã hội. Những sai lầm, vi phạm đó rất khó giữ kín. Ở góc độ khác, mỗi công dân trong hoạt động thực tiễn của mình, dù ít, dù nhiều đều có quan hệ với bộ máy chính quyền nhà nước, với tổ chức xã hội và các công dân khác. Trong các quan hệ đó, có lúc, có nơi với nhiều lý do khác nhau, những người trong bộ máy 8 công quyền cũng đã vi phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, và như vậy xuất hiện khiếu nại. Trong đời sống xã hội, khi quyền, lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm từ phía các cơ quan nhà nước, người dân có quyền khiếu nại các cơ quan nhà nước để đòi lại sự công bằng cho bản thân, đó là lẽ đương nhiên mà bất kỳ người nào, thời đại nào cũng hiểu. Trong xã hội cũ, những hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội có một số người cho qua, bởi họ không tin vào sự phân xử công bằng của nhà nước. Nhưng cũng có không ít người với trách nhiệm công dân đã dũng cảm ra khiếu nại hành vi sai trái đó để bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, tập thể và xã hội. Chính vì lẽ đó mà khiếu nại xuất hiện trong xã hội có giai cấp, có nhà nước là một tất yếu khách quan. Về mặt tâm lý, khiếu nại xuất hiện trong ý chí chủ quan của người đi khiếu nại. Trước hết những hành vi, hiện tượng vi phạm đó tác động vào nhận thức của người ta và chỉ khi người ta thấy ức chế, cần giải tỏa bằng cách bày tỏ với cơ quan nào đó để hy vọng được giải quyết thì họ mới yên lòng. Yếu tố tâm lý này cũng lớn dần theo thời gian nếu như những khiếu nại đó không được xem xét giải quyết kịp thời. Tuy nhiên, trong nhận thức của mỗi người, do trình độ bản thân, nhãn quan, tư duy về vấn đề mà có người cho là vi phạm trầm trọng, có người cho là không vi phạm. Mặt khác, nhiều trường hợp do không ở trong hoàn cảnh cụ thể nên có người không hiểu được bản chất vấn đề, mới thấy hiện tượng đã suy luận ra bản chất theo tư duy cá nhân của mình. Trong xã hội có người nhút nhát, ngại va chạm, thậm chí đúng là lợi ích của mình bị vi phạm nhưng cũng không dám lên tiếng phản đối. Ngược lại, cũng có những người luôn tưởng rằng, cho rằng mọi người đều sai, lợi ích của mình đã bị xâm phạm. Chính vì vậy mà khiếu nại còn là yếu tố tâm lý của con người. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “khiếu nại” được hiểu là: “thắc mắc, đề nghị xem lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã chuẩn y”. [28; tr.904]. 9 Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học thì “khiếu nại” là: Những đề nghị của công dân, cơ quan, tổ chức với cơ quan nhà nước hoặc người có chức vụ về sự vi phạm hoặc cho là vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của họ; khiếu nại được thể hiện dưới hình thức viết hoặc trình bày miệng. Nếu là khiếu nại viết thì đơn khiếu nại phải được ký bởi chính người có quyền hoặc lợi ích bị vi phạm hoặc người giám hộ của người đó, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ (hoặc nơi công tác, học tập) [53; tr.3]. Dưới góc độ chính trị - pháp lý, khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp, pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện bởi bộ máy nhà nước. Ở nước ta, từ năm 1959, Hiến pháp đã chính thức ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân. Cụ thể, Điều 29 Hiến pháp 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền khiếu nại và tố cáo bất kỳ cơ quan nào của nhà nước về những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ, nhân viên cơ quan nhà nước. Các khiếu nại, tố cáo cần phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại do những việc làm trái pháp luật gây ra có quyền được bồi thường” [18; tr.7]. Theo thời gian, các quy định về quyền khiếu nại của công dân ngày càng được hoàn thiện. Nếu như Hiến pháp 1959 chỉ quy định “Công dân… có quyền khiếu nại và tố cáo bất kỳ cơ quan nào của nhà nước về những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ, nhân viên cơ quan nhà nước…”, thì Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Hiến pháp (sửa đổi) 2013 đã mở rộng phạm vi quyền khiếu nại của công dân, đó là công dân có quyền khiếu nại và tố cáo những việc làm trái pháp luật của “cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Ngoài ra, Hiến pháp 1992, Hiến pháp (sửa đổi) 2013 còn quy định rõ ràng, cụ thể hơn về vấn đề khiếu nại; theo đó, Hiến pháp các giai đoạn trước quy định công dân được khiếu nại ở “bất cứ cơ quan nhà nước nào” thì Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền” [21; tr.16], Hiến pháp (sửa đổi) 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, 10 cá nhân có thẩm quyền” [22; tr.7]. Điều buộc cơ quan nhà nước phải có sự phân định rõ ràng thẩm quyền giải quyết khiếu nại của công dân theo từng ngành, từng cấp một cách có hệ thống. Như vậy, có thể khẳng định rằng quyền khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp; là một trong những phương tiện để công dân, tổ chức sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; là “quyền để bảo vệ quyền”, là phương tiện đấu tranh để đảm bảo các quyền khác của công dân. Mặt khác, khiếu nại còn được coi là công cụ để công dân, tổ chức giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước. Thông qua khiếu nại và giải quyết khiếu nại, nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoàn thiện hoạt động quản lý của mình. Có thể nói, khiếu nại và giải quyết khiếu nại là chính là cầu nối giữa công dân với Đảng, Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dặn: “Đồng bào có oan ức mới khiếu nại hoặc vì chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm đến quyền và lợi ích của họ, do đó mối quan hệ giữa Nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được tốt hơn”. Tóm lại, pháp luật về khiếu nại nước ta không ngừng phát triển, hoàn thiện về cả nội dung và hình thức. Đặc biệt, trong công cuộc đẩy mạnh cải cách nền hành chính thì việc đẩy mạnh công tác giải quyết khiếu nại của công dân và hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật về công tác giải quyết khiếu nại là cơ sở quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. 1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm khiếu nại về đất đai a) Khái niệm khiếu nại về đất đai Đất đai là tài sản của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch sử phát triển kinh tế - xã hội, đất đai là điều kiện lao động. Đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai 11 thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, cũng như không thể có sự tồn tại của loài người. Đất đai là một trong những tài nguyên vô cùng quý giá của con người, điều kiện sống cho động vật, thực vật và con người trên trái đất. Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Đất đai là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc, các công trình công nghiệp, giao thông và các công trình, dự án khác. Vai trò của đất đai càng lớn hơn khi dân số ngày càng đông, nhu cầu dùng đất làm nơi cư trú, làm tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội… Vì vậy, hiện nay đất đai là vấn đề quan tâm chung của toàn xã hội, là vấn đề bức xúc nhất đối với người dân, do liên quan đến lợi ích của từng cá nhân, cũng như tổ chức và cộng đồng xã hội, đồng thời là lĩnh vực xảy ra nhiều tranh chấp, khiếu nại nhất. Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy định chung thống nhất về thuật ngữ khiếu nại đất đai. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2, Luật Khiếu nại năm 2011, thì: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình” [39; tr.1]. Theo quy định tại Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 thì: Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai [44; tr.119,120]. Trên cơ sở Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hường dẫn thi hành, thì khái niệm khiếu nại đất đai được hiểu như sau: Việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính 12 nhà nước trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. b) Đặc điểm khiếu nại về đất đai Là một hiện tượng xã hội nên khiếu nại có thể xảy ra ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, quyền khiếu nại của công dân là quyền khiếu nại hành chính. Khiếu nại về đất đai là một dạng đặc biệt của khiếu nại hành chính, nên bên cạnh những đặc điểm chung của khiếu nại hành chính, khiếu nại về đất đai còn mang những đặc trưng riêng khác với các khiếu nại thuộc các lĩnh vực khác. Xuất phát từ quan niệm khiếu nại về đất đai có thể nhận thấy chủ thể, khách thể và đối tượng phát sinh trong quan hệ khiếu nại đất đai: - Chủ thể khiếu nại về đất đai chỉ có thể là chủ thể của quyền quản lý và quyền sử dụng đất, mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất đai. Quyền sử dụng đất của các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất của nhà nước, được nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các chủ thể khác hoặc được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của khiếu nại về đất đai là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc người sử dụng đất. Theo Điều 5, Luật Đất đai 2013 thì người sử dụng đất được xác định gồm 07 nhóm đối tượng [44; tr.3,4]: Thứ nhất, các tổ chức trong nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế - xã hội, tổ chức sự nghiệp công, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của Chính phủ được nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất; tổ chức kinh tế nhận chuyển quyền sử dụng đất; Thứ hai, hộ gia đình, cá nhân trong nước được nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất; 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan