BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
NGUYỄN VĂN HÀO
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2004
-1-
CHÖÔNG 1
1.1. Lý luận về tín dụng.
1.1.1. Sự ra đời và bản chất của tín dụng:
Quan hệ tín dụng đã có từ lâu trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Lúc
đầu, các quan hệ tín dụng hầu hết đều là tín dụng bằng hiện vật và một phần nhỏ là tín
dụng hiện kim. Cùng với sự phát triển của xã hội, hình thức biểu hiện của tín dụng
ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, do vậy có rất nhiều quan điểm khác nhau về tín
dụng. Tuy nhiên, dù dưới hình thức nào và tính phức tạp bao nhiêu thì quan hệ tín dụng
vẫn có chung một bản chất và có thể hiểu tín dụng một cách tổng quát như sau:
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế liên quan đến các giao dịch về tài sản giữa
bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2. Các hình thức của tín dụng:
Dựa vào các chủ thể của quan hệ tín dụng, trong nền kinh tế xã hội tồn tại các
hình thức tín dụng sau đây:
1.1.2.1. Tín dụng thương mại (Commercial credit):
Tín dụng thương mại (TDTM) là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá cho
nhau.
Đối tượng của TDTM là hàng hoá thông thường, chứ không phải tiền tệ. TDTM
đều có lợi cho cả hai phía và cả cho nền kinh tế. Đối với người bán, TDTM giúp họ
đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hoá, chiếm lĩnh thị trường… Đối với người mua,
TDTM giúp họ có được hàng để tiến hành sản xuất kinh doanh, bảo đảm cho quá trình
sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
-2-
Công cụ của TDTM là thương phiếu để đảm bảo cho hành vi mua bán chịu được
tiến hành và việc thực hiện thanh toán tiền hàng mua chịu được thực hiện chắc chắn.
Thương phiếu bao gồm lệnh phiếu (Promissory note) và hối phiếu (Bill of exchange).
1.1.2.2. Tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng Ngân hàng (TDNH) là quan hệ tín dụng, trong đó bên cho vay là các
TCTD và bên đi vay là các chủ thể trong nền kinh tế xã hội.
Đối tượng của TDNH là cho vay chủ yếu dưới hình thức vốn bằng tiền và là
hình thức tín dụng quan trọng nhất đối với nền kinh tế.
TDNH vừa là tín dụng mang tính chất sản xuất kinh doanh gắn với hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vừa là tín dụng tiêu dùng, không gắn với
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì vậy quá trình vận động và phát
triển của TDNH không hoàn toàn phù hợp với quá trình phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
Công cụ của hoạt động TDNH trong lĩnh vực huy động như kỳ phiếu, chứng chỉ
tiền gửi, sổ tiết kiệm… và trong lĩnh vực tín dụng như hợp đồng tín dụng, giấy nhận
nợ…
Tác dụng của TDNH có những ưu thế hơn so với TDTM:
- TDTM chỉ bó hẹp giữa những nhà sản xuất kinh doanh quen biết nhau hoặc có
mối liên hệ với nhau về cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Trái lại, TDNH có thể mở rộng
cho mọi đối tượng trong xã hội.
- TDTM thường bị giới hạn về số lượng và quy mô hoạt động thì trái lại TDNH
không bị giới hạn về quy mô, có nghĩa là TDNH có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế
với số lượng rất lớn.
- Hoạt động của TDNH còn có tác động và ảnh hưởng lớn đối với tình hình lưu
thông tiền tệ của đất nước. Nhờ hoạt động TDNH mà vốn tiền tệ của xã hội được huy
động và sử dụng tối đa cho nhu cầu phát triển kinh tế, đẩy mạnh chu chuyển vốn, tập
trung qua hệ thống ngân hàng.
-3-
1.1.2.3. Tín dụng Nhà nước:
Tín dụng Nhà nước (TDNN) là quan hệ vay mượn giữa Nhà nước và các đơn vị,
cá nhân trong xã hội, trong đó, Nhà nước chủ yếu đứng ra huy động vốn của các Tổ
chức, cá nhân. Khi Nhà nước phát hành và bán các trái phiếu, lúc đó đóng vai trò là
người đi vay, ngược lại, khi Nhà nước mua trái phiếu từ dân chúng, các TCKT, khi đó
Nhà nước là người cho vay. Người sở hữu trái phiếu có thể đem chiết khấu, cầm cố vay
ngân hàng hoặc bán trên thị trường chứng khoán.
1.1.2.4. Tín dụng Quốc tế:
Ngoài các hình thức tín dụng nói trên, còn có loại hình tín dụng quốc tế. Đây là
quan hệ tín dụng giữa Chính phủ, giữa các tổ chức tiền tệ được thực hiện bằng nhiều
phương thức khác nhau nhằm trợ giúp lẫn nhau để phát triển kinh tế, xã hội của một
nước.
1.1.3. Vai trò của TDNH đối với sự nghiệp CNH - HĐH:
1.1.3.1. Sự nghiệp CNH - HĐH là sự phát triển khách quan và đúng quy luật:
CNH - HĐH nền kinh tế đất nước, trước hết chúng ta cần nắm bắt những thành
tựu khoa học, công nghệ vừa hiện đại, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của nước ta để
áp dụng vào việc quản lý: Sản xuất, tổ chức lưu thông, phân phối … của nền kinh tế.
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, nghề trên cơ sở lợi thế từng
vùng, mỗi ngành, đồng thời kết hợp với những công nghệ mới tham gia vào quá trình
hợp tác trong nước và quốc tế.
Cùng với quá trình CNH - HĐH là xây dựng một hệ thống các doanh nghiệp có
quy mô và trình độ sản xuất, quản lý khác nhau. Trong đó, cần chú ý xây dựng các
DNNVV, vì các DNNVV đáp ứng được yêu cầu về tình hình cụ thể ở nước ta hiện nay,
đó là: cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ quản lý còn thấp, trình độ kỹ
thuật và tay nghề của người lao động chưa cao…
-4-
Mặt khác, DNNVV có ưu thế trong cơ chế thị trường, đó là: Tính thích ứng,
năng động cao, vốn đầu tư không lớn, có khả năng ứng dụng công nghệ mới nhanh, tổ
chức quản lý gọn, nhẹ nhưng mang lại hiệu quả cao và trong trường hợp cần thiết có
thể nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu, thay thế công nghệ và chuyển hướng mặt hàng sản
xuất kinh doanh.
1.1.3.2. Vai trò của TDNH đối với quá trình thực hiện CNH - HĐH nền kinh tế:
Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, TDNH đối với sự nghiệp CNH-HĐH có vai
trò quan trọng, được thể hiện trên một số mặt sau đây:
- Trong nền kinh tế, đại đa số nguồn vốn nhàn rỗi đều được tập trung vào hệ
thống ngân hàng qua hoạt động huy động vốn. Sau đó, TDNH sẽ làm tốt vai trò cung
ứng vốn cho các doanh nghiệp dưới các hình thức nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hoá được thực hiện nhanh hơn.
- TDNH nhờ làm tốt chức năng tích tụ và tập trung vốn, đầu tư vào các thành
phần kinh tế đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch
vụ và nông nghiệp.
- TDNH đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo
điều kiện cho quá trình CNH - HĐH đạt kết quả cao, đặc biệt đối với kinh tế hộ gia
đình và HTX nông thôn.
- TDNH là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất hiện nay của một ngân
hàng, nó quyết định sự phát triển hay không của hệ thống ngân hàng. TDNH sẽ góp
phần làm cho hoạt động thanh toán phát triển, điển hình như TDNH cho người mua
vay để áp dụng các biện pháp thanh toán không dùng tiền mặt như séc, thư tín
dụng…Trong việc thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt khi khách hàng vay vốn
hay gửi tiền, TDNH tạo ra tiện ích cho khách hàng.
Tóm lại, TDNH có vai trò rất quan trọng cho sự nghiệp CNH - HĐH. Để thực
hiện được CNH - HĐH trước hết cần phải có vốn, bởi lẽ khi thiếu vốn thì doanh nghiệp
nói riêng và nền kinh tế nói chung không thể tiến hành hoạt động được, nền kinh tế sẽ
-5-
vận hành kém. Chúng ta phải biết khai thác một cách có hiệu quả nguồn vốn còn rất
lớn đang tiềm ẩn trong dân cư, các doanh nghiệp…để tạo nguồn vốn tập trung cho đầu
tư phát triển, sản xuất kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp.
1.2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.2.1. Khái niệm DNNVV:
1.2.1.1. Một số quan điểm và khái niệm về DNNVV của các nước:
Cho đến nay các nước trên thế giới chưa có một khái niệm chung về loại hình
DNNVV mà tuỳ thuộc đặc điểm của từng Quốc gia, từng giai đoạn phát triển kinh tế
mà đưa ra những quy định về DNNVV. Khi định nghĩa về DNNVV, các nước thường
căn cứ vào quy mô về vốn của doanh nghiệp, số lao động thường xuyên tại doanh
nghiệp, tổng doanh thu, tổng tài sản… của doanh nghiệp. Chung quy lại mỗi quốc gia
sử dụng những tiêu thức hay có cách kết hợp các tiêu thức trên khác nhau mà đưa ra
định nghĩa riêng về DNNVV.
Trên thế giới, không chỉ tiêu chuẩn để phân loại các doanh nghiệp khác nhau mà
ngay cả cách phân loại doanh nghiệp cũng khác nhau. Có nước phân ra bốn loại doanh
nghiệp như: Doanh nghiệp nhỏ; doanh nghiệp vừa; doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp
cực lớn. Có nước phân loại doanh nghiệp thành: Doanh nghiệp cực nhỏ (thường là kinh
tế hộ gia đình); doanh nghiệp nhỏ; doanh nghiệp vừa; doanh nghiệp lớn và doanh
nghiệp cực lớn. Có nước (như Mỹ), chỉ những DNNVV độc lập thì mới là DNNVV,
nhưng cũng có nước tính cả DNNVV là thành viên của các công ty lớn cũng là
DNNVV.
Nhìn chung trên thế giới, hai tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến để phân loại
doanh nghiệp là số lao động sử dụng và số vốn. Trong hai tiêu chuẩn ấy, khá nhiều
nước coi tiêu chuẩn về số lao động sử dụng là quan trọng hơn.
-6-
Bảng 1.1: Một số khái niệm về DNNVV một số nước:
Quốc gia
Số lao động
Ngành, nghề
Số vốn
Doanh thu
Mỹ
Tất cả các ngành
0 - 500
Không
Nhật bản
Chế tác
1 - 300
300 triệu Y
Bán buôn
1 - 100
0 - 100
Bán lẻ
1 - 50
0 - 50
Dịch vụ
1 - 100
0 - 50
Chế tác
0 - 200
80 triệu NT$
Không
không
100
Đài loan
Nông,
lâm,
ngư 0 - 50
Không
Không
nghiệp và dịch vụ
Thái lan
triệu
NT$
Sản xuất
- Doanh nghiệp nhỏ
- Doanh nghiệp vừa
0 - 50 bath
không
Bán buôn
50
–
200 không
bath
- Doanh nghiệp nhỏ
- Doanh nghiệp vừa
0 – 50 bath
Bán lẻ
0 – 100 bath
- Doanh nghiệp nhỏ.
- Doanh nghiệp vừa.
0 – 30 bath
30 – 60 bath
Nga
Doanh nghiệp nhỏ
1 – 249
Doanh nghiệp vừa
249 – 999
Trung
Doanh nghiệp nhỏ
50 – 100
Quốc
Doanh nghiệp vừa
101 - 500
không
Không
không
Không
(Nguồn số liệu: Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hoa, 2001, Phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa: kinh nghiệm nước ngoài và phát triển DNNVV ở Việt Nam).
-7-
Như vậy, điều đáng lưu ý là tiêu chuẩn về trình độ công nghệ, phạm vi quan hệ,
khả năng quản lý và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không được tính đến khi
phân loại doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn phân định DNNVV là không cố định và không những khác nhau
giữa các nước mà còn thay đổi trong một nước. Đó là sự thay đổi theo ngành, nghề và
theo thời gian. Thông thường ở nhiều nước, người ta phân biệt DNNVV qua ba ngành
nghề: doanh nghiệp chế tác, doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp dịch vụ.
1.2.1.2. Khái niệm về DNNVV ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, trải qua các thời kỳ và tuỳ thuộc vào mục đích xác định đối tượng
đặt quan hệ của từng cơ quan, đơn vị có liên quan mà đưa ra những tiêu thức xác định
DNNVV khác nhau. Một số khái niệm như sau:
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 23/11/2001 về trợ giúp
phát triển DNNVV, định nghĩa “DNNVV là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Trong luận văn này số
liệu được thu thập theo tiêu chí này.
Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời
cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
Đối tượng DNNVV bao gồm:
-
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
-
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật DNNN.
-
Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
-
Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày
03/2/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Một số TCTD quy ước DNNVV như sau:
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam:
-8-
+ Đối với ngành công nghiệp: DNNVV là doanh nghiệp có số vốn dưới năm (5)
tỷ VNĐ, lao động thường xuyên dưới 300 công nhân.
+ Đối với ngành thương mại, dịch vụ: DNNVV là doanh nghiệp có số vốn dưới
hai tỷ VNĐ, lao động thường xuyên dưới 200 công nhân.
Ngân hàng Công thương Việt Nam, coi DNNVV là các doanh nghiệp có dưới
500 lao động, vốn cố định dưới 10 tỷ đồng…
1.2.2. Vai trò của TDNH đối với sự phát triển DNNVV:
Để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, các DNNVV cần phải sử dụng
vốn, trong đó bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động từ bên ngoài. Trong các kênh
huy động vốn từ bên ngoài thì kênh TDNH là quan trọng nhất, bởi vì ngoài TDNH còn
có TDTM với quy mô và khả năng đáp ứng thấp. TDNH có ưu điểm là hiện nay có rất
nhiều các TCTD với nhiều chi nhánh rộng khắp, cung ứng vốn dồi dào hơn, lãi suất
hấp dẫn, thời hạn vay tương đối dài hơn, được tư vấn đầu tư…Vì vậy TDNH ngày
càng có vai trò quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói
riêng, đó là:
- Có khả năng cung cấp vốn đáp ứng nhu cầu về vốn cho các DNNVV để mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ…Vốn bao gồm vốn trung dài
hạn phục vụ đầu tư máy móc thiết bị, nhà xưởng và vốn lưu động thường xuyên.
- Với tỷ lệ lãi suất thoả thuận thì DNNVV có thể đàm phán, lựa chọn các TCTD
có lãi suất cho vay thấp để đặt quan hệ tín dụng, qua đó mang lại hiệu quả kinh doanh
cao cho doanh nghiệp. Tạo ra giá trị doanh nghiệp cao hơn, tích luỹ vốn nhiều hơn.
- Trong quá trình cung ứng vốn cho các DNNVV, do trình độ có hạn mà đa số
có trình độ thấp của các chủ doanh nghiệp, các TCTD còn phải kiêm thêm chức năng
tư vấn, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Một mặt, để giúp doanh nghiệp lập
phương án kinh doanh, hoạch định chiến lược kinh doanh. Mặt khác, trong khi tiếp
-9-
cận, hướng dẫn doanh nghiệp lập kế hoạch vay vốn, qua đó tạo cho TCTD có thêm
luồng thông tin để quyết định cho vay hay không, nhằm tránh rủi ro.
1.2.3 Vai trò của các DNNVV đối với nền kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình
CNH – HĐH đất nước:
Từ Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam xác định khi định hướng phát
triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH như sau: “ Trong phát
triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi
vốn nhanh”.
Trong thời kỳ CNH-HĐH của Việt Nam, nhất là Công nghiệp hoá nông nghiệp
và nông thôn thì các DNNVV càng có vai trò quan trọng trong việc khai thác mọi tiềm
năng và nguồn lực đất nước.
Trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay, vai trò của DNNVV có vị trí đặc biệt
quan trọng, thể hiện như sau:
- Góp phần tạo việc làm cho người lao động: Giải quyết công ăn việc làm luôn
là vấn đề bức xúc đối với hầu hết các nước trên thế giới. Đây là thế mạnh rõ rệt của
DNNVV và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển
DNNVV ở nước ta hiện nay. Việc phát triển DNNVV tạo thêm công ăn việc làm cho
người lao động trong doanh nghiệp và kể cả ngoài doanh nghiệp. Trải khắp đất nước,
đâu đâu cũng có DNNVV, số lượng lao động được phân tán tuỳ theo mức độ và quy
mô doanh nghiệp từng vùng, điều dễ thấy nhất là lực lượng lao động của Việt Nam
ngày càng dồi dào, nhưng tỷ lệ thất nghiệp ngày càng giảm.
- Đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế: Mỗi năm DNNVV đóng góp
khoảng 25%-30% GDP của cả nước. Giá trị hàng hoá và dịch vụ được tạo ra hàng năm
của khu vực DNNVV ngày càng tăng cao. Nhiều làng nghề truyền thống đã ra đời,
phát huy hiệu quả, được nhiều nơi biết đến cả trong và ngoài nước đã tạo thu nhập lớn
cho quốc gia. Điều quan trọng là DNNVV có nhiều thuận lợi trong việc khai thác các
-10-
tiềm năng rất phong phú trong dân, từ trí tuệ, tay nghề tinh xảo, vốn liếng, các bí quyết
nghề nghiệp, các quan hệ huyết thống, làng nghề truyền thống…
- Tăng thu nhập cho dân cư: Thu nhập dân cư nước ta hiện nay còn thấp. Ngay
trong lĩnh vực nông nghiệp, dù sản lượng hàng năm tăng cao nhưng dân vẫn chỉ đủ ăn,
đủ mặc do chưa có ngành công nghiệp chế biến nên giá cả bán ra rất thấp. Do vậy phát
triển DNNVV ở nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu
nhập của dân cư. Việc phát triển DNNVV chế biến rộng khắp ở nông thôn sẽ tạo nên
bộ mặt mới cho nông thôn, cả về kinh tế, văn hoá và xã hội, góp phần rất quan trọng
thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH:
Xét về các loại cơ cấu, như cơ cấu theo thành phần kinh tế, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu
lãnh thổ, phân bố dân cư, việc phát triển DNNVV sẽ tạo ra những chuyển biến hết sức
quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. Chính sự phát triển DNNVV góp phần
quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng. Nó giúp cho
vùng sâu, vùng xa, các vùng nông thôn có thể khai thác được tiềm năng của vùng, địa
phương để phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo vùng, lãnh thổ. Đây cũng là vấn đề có ý nghĩa để thực hiện CNH - HĐH Nông
nghiệp, Nông thôn.
- Làm cơ sở vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn: Các DNNVV, với tư cách là bên
cung cấp nguyên liệu, dịch vụ đầu vào, gia công một số công đoạn hay làm trung gian
tiêu thụ sản phẩm đầu ra đã hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp lớn, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp lớn dễ dàng mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo ra
giá trị hàng hoá và dịch vụ tăng cao.
- Góp phần quan trọng thu hút vốn đầu tư trong dân và sử dụng tối ưu các nguồn
lực địa phương: Do đặc điểm DNNVV là dễ khởi sự nên đa số dân cư có thể tham gia
đầu tư. Mặt khác, trong quá trình hoạt động, các DNNVV có thể huy động vốn dựa trên
quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, việc huy động vốn, sử dụng các
-11-
khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư của các
DNNVV rất hiệu quả.
Với quy mô nhỏ và vừa, lại được phân bố phân tán ở hầu hết các địa phương,
các vùng lãnh thổ nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về lao động, về
nguyên vật liệu…sẵn có ở địa phương.
- Góp phần gia tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng thu cho ngân sách Nhà nước:
Ngày nay, cùng với quan hệ giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia phát triển rộng
rãi đã làm cho các sản phẩm truyền thống trở thành một nguồn xuất khẩu quan trọng.
Việc phát triển DNNVV đã tạo ra khả năng thúc đẩy khai thác tiềm năng của ngành
nghề truyền thống ở các địa phương mỗi nước như các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ.
Bên cạnh đó, do sự tạo lập và phát triển DNNVV dễ dàng làm cho số lượng
doanh nghiệp tăng nhanh và gia tăng khả năng cung ứng sản phẩm cho xã hội, làm tăng
thu cho ngân sách Nhà nước.
Tóm lại, Tuy mỗi nước đều có đặc điểm và mức độ phát triển khác nhau, nhưng
các DNNVV đều đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, tạo
ra nhiều việc làm, ổn định xã hội, duy trì các làng nghề truyền thống, tăng kim ngạch
xuất khẩu cho đất nước. Chính vì vậy, sự phát triển của các DNNVV là một tất yếu
khách quan và cần thiết trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia.
1.3. Kinh nghiệm của các nước về TDNH đối với DNNVV và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam.
1.3.1. Kinh nghiệm của các nước về TDNH đối với các DNNVV:
1.3.1.1. Trung Quốc:
Trung Quốc có “ Vườn ươm DNNVV” là nơi mà hầu như tất cả các doanh
nghiệp đều được sự hỗ trợ từ Chính phủ. Thông thường các DNNVV trong vườn ươm
được hỗ trợ từ 3-5 năm. Tại đây, các DNNVV có thể được giúp để tìm kiếm các nhà tài
-12-
trợ hoặc các TCTD để có thể tăng nguồn vốn kinh doanh. Gíup các doanh nghiệp tăng
vốn ban đầu lên 5-6 lần bằng cách hỗ trợ ngay từ đầu trong vườn ươm.
1.3.1.2. Hàn Quốc:
Ở Hàn Quốc có hệ thống nhà thầu phụ nhằm giúp phát triển các DNNVV.
Chính phủ Hàn Quốc bắt buộc các doanh nghiệp lớn phải thanh toán bằng tiền mặt cho
DNNVV trong trường hợp ký hợp đồng sản xuất hay mua sản phẩm của DNNVV. Đối
với các DN tiêu thụ sản phẩm của DNNVV sẽ được vay 50% vốn. Nếu các tổ chức nào
cung cấp dịch vụ hỗ trợ sự phát triển về công nghệ mới cho các DNNVV, Chính phủ sẽ
đảm bảo cho họ nhận được 70% vốn vay ngân hàng.
Ngoài ra, để hỗ trợ vốn cho các DNNVV, Chính phủ bắt buộc các Ngân hàng
dành 35% toàn bộ vốn vay của mình cho các DNNVV. Còn đối với ngân hàng nước
ngoài và các tổ chức bảo hiểm là 25%.
Hỗ trợ tín dụng thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng, tạo điều kiện cho các
DNNVV có điều kiện vay vốn với lãi suất ưu đãi. Đặc biệt, Ngân hàng Hàn Quốc đảm
bảo cung cấp khoảng 90% tổng số vốn vay trong các lĩnh vực nhập khẩu công nghệ,
hoạt động nghiên cứu và phát triển, nhập máy móc để sản xuất nguyên vật liệu, phụ
tùng.
1.3.1.3. Philippine:
Luật của Philippine quy định: Ngân hàng phải dành ít nhất 10% trong tổng số
các khoản cho vay cho DNNVV. Chính phủ cho phép các Ngân hàng lập chi nhánh bất
cứ chỗ nào họ muốn, nhiều chi nhánh đã mọc lên khắp các tỉnh và vùng nông thôn, nơi
có nhiều DNNVV đang cần vốn, đã tạo điều kiện cho họ có khả năng tiếp cận nguồn
vốn ngân hàng với lãi suất cạnh tranh và hấp dẫn.
1.3.1.4. Đài Loan:
Thành lập “Quỹ phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ” nhằm mục đích giúp các
DNNVV cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp
-13-
và cấp tín dụng với lãi suất thấp hơn lãi suất ngân hàng. Thành lập ngân hàng chuyên
cho các DNNVV vay vốn.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc cấp TDNH cho DNNVV:
Từ những kinh nghiệm thực tế ở các nước, có thể thấy rằng:
- Đa số các DNNVV trước tiên phải tự hoàn thiện, phát triển dựa trên chính
mình, tranh thủ sự trợ giúp từ Chính phủ.
- Chính phủ thiết lập những cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như: dành
một tỷ lệ vốn huy động nhất định để cho vay DNNVV, thành lập quỹ bảo lãnh tín
dụng, các trung tâm trợ giúp, tư vấn cho DNNVV.
- Nhà nước quan tâm đặc biệt đến khu vực này, có thể đưa những quy định đối
với DNNVV vào trong Luật.
Với những kinh nghiệm nêu trên, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam như sau:
- Trong việc cấp TDNH cho các DNNVV, Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, giúp đỡ
chứ không bao cấp. Phải để cho các DNNVV tự nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường, tìm kiếm nhà đầu tư vốn hiệu quả.
- Có thể nghiên cứu thành lập ngân hàng chuyên cho vay đối với DNNVV trực
thuộc các TCTD.
- Thành lập và tổ chức Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV để bảo lãnh vay
vốn ngân hàng khi họ không đủ tài sản đảm bảo.
-14-
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, vai trò đóng góp của các thành phần
kinh tế là rất quan trọng. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mà đại bộ phận có quy
mô nhỏ và vừa. DNNVV có những vai trò to lớn mà chúng ta phải thừa nhận trong việc
đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế đất nước. Để có được lực lượng các DNNVV đủ
mạnh về quy mô, năng lực hoạt động, có khả năng cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi
các DNNVV phải cần đến lượng vốn đầu tư phù hợp.
Trong chương này, chúng ta phân tích vai trò của TDNH đối với DNNVV, cũng
như đối với sự nghiệp CNH – HĐH. Qua đó, thấy được vai trò to lớn của DNNVV đối
với nền kinh tế. Bài học kinh nghiệm từ các nước về phát triển DNNVV, đòi hỏi Việt
Nam cần nghiên cứu vận dụng.
Để nắm rõ về tình hình hoạt động tín dụng của các TCTD đối với các DNNVV
như thế nào? Thực trạng hoạt động của các DNNVV trên địa bàn Đồng Nai ra sao?
Đặc biệt là một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của nó trong cấp tín dụng cho
đối tượng DNNVV trong cả nước nói chung và tại Đồng Nai nói riêng. Chúng ta sẽ
nghiên cứu ở chương 2 dưới đây.
-15-
CHÖÔNG 2
2.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Đồng Nai:
2.1.1. Vị trí địa lý, dân số, nguồn lao động:
Đến nay, Đồng Nai có mười một đơn vị hành chính, gồm chín Huyện, một Thị xã
và Thành phố Biên Hoà là trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá của tỉnh. Chín
Huyện gồm: Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc, Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn Trạch,
Thống Nhất, Cẩm Mỹ và Trảng Bom (Cẩm Mỹ và Trảng Bom là 2 huyện mới thành
lập năm 2003), và một Thị xã là Thịxã Long Khánh.
Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam: Đông giáp tỉnh
Bình Thuận, đông bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, Tây bắc giáp tỉnh Bình Dương và Bình
Phước, Nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây giáp TP.HCM.
Có vị trí hết sức quan trọng do nằm ngang cửa ngõ thành phố Hồ Chí Minh, một
trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, là cửa ngõ của trục động lực kinh tế trọng điểm
phía nam: Thành Phố Hồ Chí Minh, Biên Hoà, Bà Rịa – Vũng Tàu, giữ vai trò trọng
yếu trong vùng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
Về dân số: Đến cuối năm 2003, dân số Đồng Nai có quy mô 2.207 ngàn người,
tốc độ tăng bình quân khoảng 2,4%/năm. Tỷ lệ dân cư sống ở thành thị chiếm 40%,
còn lại sống ở nông thôn. Số người trong độ tuổi lao động 123 ngàn người, tăng bình
quân 3,5%/năm.
Diện tích tự nhiên của tỉnh Đồng Nai khoảng 5.862,37 km2. Quỹ đất khá phong
phú, phì nhiêu và đa dạng, được chia thành các loại đất: 2.984 km2 đất nông nghiệp,
1.758 km2 đất lâm nghiệp, 690 km2 đất chuyên dùng, 106 km2 đất ở và 324 km2 đất
chưa sử dụng.
Lao động trên địa bàn được phân bố như sau:
• Lao động trong các ngành nông, lâm, thủy chiếm 46%.
• Lao động trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 33%.
-16-
• Các ngành dịch vụ chiếm: 21%.
2.1.2. Một số kết quả về Kinh tế - Xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình
CNH –
HĐH ở tỉnh Đồng Nai.
Theo báo cáo đánh giá tình hình chín tháng và nhiệm vụ công tác quý IV của
Tỉnh Uỷ Đồng Nai và báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng chín tháng
đầu năm 2004 và nhiệm vụ chủ yếu quý IV năm 2004 của Uỷ ban nhân dân Tỉnh Đồng
Nai cho thấy:
Năm 2004, cùng với những khó khăn chung của cả nước như: Giá vật tư hàng hoá
tăng cao, đặc biệt là giá thép, xăng dầu, gas và dịch cúm gia cầm đã làm cho việc thực
hiện mục tiêu kinh tế của Tỉnh gặp nhiều khó khăn.
¾ Về sản xuất công nghiệp: Chín tháng đầu năm 2004, giá trị sản xuất công
nghiệp đạt 24.667 tỷ đồng, bằng 73,9% kế hoạch năm, tăng 18,5% so cùng kỳ. Đã tập
trung đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, công nghệ, thực hiện các chính sách ưu đãi đầu
tư, tháo gỡ kịp thời khó khăn của doanh nghiệp. Gía trị sản xuất công nghiệp quốc
doanh Trung ương tăng 11,7%, địa phương tăng 16%, công nghiệp ngoài quốc doanh
tăng 22,4%, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,9% so cùng kỳ.
¾ Về hoạt động thương mại - dịch vụ: Lưu thông hàng hoá trên thị trường nội địa
ổn định, hàng hoá phong phú, đa dạng đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá tăng 17,7%, chỉ số giá tiêu dùng chín tháng tăng 9,1%.
Ngành thương mại đã tổ chức tốt các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư
trong, ngoài nước, tăng cường quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại,
sắp xếp và phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ người lao động tại các khu công
nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 2,3 tỷ USD,
chủ yếu nhập vật tư, máy móc thiết bị.
-17-
¾ Về sản xuất nông nghiệp: Nhìn chung là phát triển thuận lợi, giá trị sản xuất
nông nghiệp tăng 4,8% so cùng kỳ, đạt giá trị 3.417 tỷ đồng.
¾ Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Chín tháng thu hút thêm 791 triệu USD, có
70 dự án mới chủ yếu là dự án sản xuất công nghiệp, phục vụ xuất khẩu với số vốn 439
triệu USD. Các dự án tăng vốn có 69 dự án, với số vốn gần 352 triệu USD.
Đến nay, toàn tỉnh có 570 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 6,99 tỷ USD, trong đó
có 300 dự án đi vào hoạt động, 117 dự án đang xây dựng, vốn thực hiện trên 3,3 tỷ
USD, tỷ lệ cho thuê đất bình quân chiếm 55% số diện tích đất dành cho thuê trong tổng
số 15 Khu công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt.
2.2. Thực trạng hoạt động của các DNNVV ở Đồng Nai:
2.2.1. Số lượng và quy mô vốn DNNVV ở tỉnh Đồng Nai.
Bảng số 2.1: Tình hình DNNVV ở tỉnh Đồng Nai.
Đơn vị: Triệu đồng.
Năm 2001
Hình thức
doanh nghiệp
DNTN
CT TNHH
CT CP
Năm 2002
Năm 2003
Số doanh
Số
Số doanh
Số
Số doanh
Số
nghiệp
vốn
nghiệp
vốn
nghiệp
vốn
1.180
653.707
452 1.149.690
33
614.880
1300
795.600
650 1.540.320
54
750.000
1.552
976.398
893 2.083.904
70
981.393
Hộ cá thể
17.400 1.480.000
22.500 2.230.000
26.000 3.120.000
Tổng cộng
19.065 3.898.277
24.504 5.315.920
28.515 7.161.695
(Nguồn : Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện NQ 14 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX
trên địa bàn Đồng Nai).
Nhờ vào sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp, kể từ năm 2000, số lượng và
vốn đăng ký của doanh nghiệp mà hầu hết là DNNVV không ngừng tăng so với các
năm trước.
-18-
Năm 2003 có 2.515 DNNVV (chưa kể hộ kinh doanh cá thể), tăng 34% về số
doanh nghiệp so với năm 2002 và tăng 51,5% so với năm 2001.
Biểu đồ số 2.1
Số DNNVV
Biểu đồ so sánh số DNNVV qua các năm
30000
25000
20000
15000
10000
5000
0
2001
2002
2003
DNTN
CT
TNHH
CTCP
Hộ cá
thể
Tổng vốn đăng ký của các DNNVV (chưa kể hộ kinh doanh cá thể) trên địa bàn
đến cuối năm 2003 là 4.041 tỷ đồng, tăng so với năm 2002 khoảng 31%, bình quân một
doanh nghiệp khoảng 1,6 tỷ đồng. Tổng vốn đăng ký của 26.000 hộ kinh doanh cá thể
đạt 3.120 tỷ đồng, bình quân một hộ cá thể đạt 120 triệu đồng. Như vậy nhìn chung,
quy mô doanh nghiệp ở Đồng Nai còn nhỏ cả về số lượng và quy mô vốn.
Như vậy, tổng vốn đăng ký đến cuối năm 2003 đạt 7.161 tỷ đồng, tăng 34,7% so
với đầu năm và tăng 83,7% so với cuối năm 2001.
-19-
Biểu đồ số 2.2: Tình hình vốn đăng ký của DNNVV ở Đồng Nai.
4000
3000
2000
1000
0
DNTN
CT TNHH
2001
CTCP
2002
Hộ cá thể
2003
Xu thế góp vốn chủ yếu của doanh nghiệp bằng tiền mặt, chiếm khoảng 70%, số
còn lại góp bằng tài sản như nhà, đất, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải.
Chín tháng đầu năm 2004, toàn tỉnh có 470 DNNVV thành lập mới (không kể hộ
kinh doanh cá thể), với tổng vốn đăng ký là 1.050 tỷ đồng. Trong đó có 200 DNTN,
vốn đăng ký 150 tỷ đồng; 242 Công ty TNHH, vốn đăng ký 420 tỷ đồng; 28 CTCP,
vốn đăng ký 480 tỷ đồng. Ngoài ra, trong 9 tháng đầu năm có 150 doanh nghiệp đăng
ký bổ sung 650 tỷ vốn kinh doanh. Như vậy, trong 9 tháng năm 2004, tổng vốn đăng
ký mới và bổ sung là 1700 tỷ đồng.
Tính đến cuối 9/2004, tổng số DNNVV (chưa kể hộ cá thể) trên toàn Tỉnh có
khoảng 3.000 doanh nghiệp, vốn đăng ký hơn 8.861 tỷ đồng.
2.2.2. Những đóng góp của DNNVV đối với nền kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai:
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai năm 2002 và 2003. Các
DNNVV cũng đạt được sự phát triển đáng khích lệ kể cả số lượng doanh nghiệp và
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do các DNNVV được hình thành và hoạt động trên một diện rộng từ thành phố,
thị xã, thị trấn đến các vùng nông thôn và sản xuất, kinh doanh rất nhiều ngành nghề.
Các doanh nghiệp thương mại dịch vụ làm nhiệm vụ thu mua nông sản, thực phẩm cho
các doanh nghiệp lớn, làm đại lý tiêu thụ sản phẩm cung ứng cho người tiêu dùng. Đây
thực sự là cầu nối hai chiều giữa người sản xuất với người tiêu dùng mà chủ yếu là các
- Xem thêm -