Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại ngân hàng chính sách x...

Tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại ngân hàng chính sách xã hội tỉnh nghệ an

.DOCX
89
35
147

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt từ 7- 8%; đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, chính trị được giữ vững và ổn định. Lĩnh vực XĐGN cũng đạt được nhiều thành tích nổi bật và được Liên hợp quốc đánh giá cao. Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển cũng ngày càng bức xúc, như khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng; sự tụt hậu ngày càng lớn giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng; tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng; tình trạng ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên đất nước.v.v.. Hàng triệu hộ nghèo hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa không được hưởng những thành quả của sự phát triển. Họ đang bơ vơ, lạc lõng trước sự hội nhập toàn cầu và ánh sáng của thế giới văn minh. Những yếu kém trên là nguyên nhân mất ổn định về xã hội- chính trị, là nỗi đau của một xã hội đang phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng- dân chủ- văn minh. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến nhiệm vụ XĐGN; Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ XĐGN là một trong những chương trình phát triển kinh tế, xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài và nhấn mạnh “phải thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ XĐGN bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả”. Chính phủ đã phê duyệt và triển khai chương trình, mục tiêu quốc gia XĐGN, giai đoạn 1998- 2000 và giai đoạn 20012010, như hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo; hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn; định canh, định cư, di dân, kinh tế mới; hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông- lâm- ngư; hỗ trợ tín dụng cho người nghèo; hỗ trợ người nghèo về y tế; hỗ trợ người nghèo về giáo dục; hỗ trợ sản 2 xuất, phát triển ngành nghề; đào tạo cán bộ làm công tác XĐGN, cán bộ các xã nghèo, chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn (QĐ số 135/1998/QĐ-TTg), chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm.v.v… Trong lĩnh vực tín dụng cho người nghèo, năm 1996 đã thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo và đến năm 2003 được tách ra thành Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH), với mục tiêu chủ yếu là cho vay ưu đãi hộ nghèo. Sau hơn 5 năm hoạt động, NHCSXH đã cho vay hàng chục ngàn tỷ đồng, cho hàng chục triệu lượt hộ nghèo và đã góp phần to lớn trong công cuộc XĐGN cho đất nước. Tuy nhiên, sự nghiệp XĐGN vẫn đang còn ở phía trước, với nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp; trong đó, lĩnh vực tín dụng cho hộ nghèo nhiều vấn đề vẫn đang bức xúc như: Quy mô tín dụng chưa lớn, hiệu quả XĐGN còn chưa cao, hoạt động của NHCSXH chưa thực sự bền vững.v.v… Những vấn đề trên là phức tạp, nhưng chưa có mô hình thực tiễn và chưa được nghiên cứu đầy đủ. Để giải quyết tốt vấn đề nghèo đói ở Việt Nam nói chung và tín dụng cho hộ nghèo nói riêng, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách có hệ thống, khách quan và khoa học, phải có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước cũng như toàn xã hội. Với những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài - Nhằm hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đói nghèo, tín dụng đối với hộ nghèo. - Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả cho vay hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An. 3 - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cho vay hộ nghèo tại chi nhánh NHCSXH tỉnh Nghệ An từ năm 2003 đến 2007. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp quan sát khoa học, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp tổng hợp, thống kê, chứng minh, diễn giải, sơ đồ, biểu mẩu và đồ thị trong trình bày luận văn. 5. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo. Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An (2003-2007). Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An. 4 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO 1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÓI NGHÈO 1.1.1. Khái niệm về đói nghèo Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ và số lượng, thay đổi theo thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy, để nhìn nhận và đánh giá được tình trạng đói nghèo của một quốc gia, một vùng và nhận dạng được hộ đói nghèo, để từ đó có giải pháp phù hợp để XĐGN, đòi hỏi chúng ta phải có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí để đánh giá đói nghèo tại từng thời điểm. Ở nước ta trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng thu nhập và nâng cao đời sống của số đông dân chúng, vẫn còn tồn tại một bộ phận dân chúng sống nghèo khổ, đặc biệt là những hộ nông dân nghèo sống tập trung ở các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa…Chính vì vậy, trong xã hội sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra ngày một sâu sắc, khoảng cách giàu, nghèo ngày càng rộng. Đây là một thách thức lớn đặt ra đòi hỏi phải có những chính sách và giải pháp phù hợp, đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội phải thực hiện thành công chương trình, mục tiêu quốc gia về XĐGN. Muốn XĐGN bền vững, thì điều đầu tiên là phải trả lời được câu hỏi: Quan niệm thế nào là nghèo, người nghèo là ai và vì sao họ nghèo? Để trả lời được các câu hỏi này chính xác, 5 phải hiểu rõ được bản chất và nội dung của đói nghèo. Phải khẳng định rằng không có định nghĩa duy nhất về đói, nghèo. Đói nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn chế đến tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít có khả năng tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan tháng 9/1993: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoã mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục, tập quán của địa phương’’[5, trang 122] Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. Đói nghèo là tổng hợp khái niệm đói và khái niệm nghèo: Đói và nghèo thường gắn chặt với nhau, nhưng mức độ gay gắt khác nhau. Đói có mức độ gay gắt cao hơn, cần thiết phải xoá và có khả năng xoá. Còn nghèo, mức độ thấp hơn và khó xoá hơn, chỉ có thể xoá dần nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương đối chỉ có thể giảm dần. Vì vậy, để giải quyết vấn đề đói nghèo, ta thường dùng cụm từ "Xoá đói giảm nghèo". Cụ thể hơn các khái niệm đói nghèo ta có thể thấy: Dù ở dạng nào, thì đói cũng đi liền với thiếu chất dinh dưỡng, suy dinh dưỡng. Có thể hình dung các biểu hiện của tình trạng thiếu đói như sau: - Thất thường về lượng: Bữa đói, bữa no, ăn không đủ bữa . - Về mặt năng lượng: Nếu trong một ngày con người chỉ được thoả mãn mức 1.500 calo/ngày, thì đó là thiếu đói (thiếu ăn); dưới mức đó là gay gắt. Nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn cảnh nào thì hộ nghèo, người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh hàng ngày về kinh tế, biểu hiện trực tiếp nhất là bữa ăn. Họ không thể vươn 6 tới các nhu cầu về văn hoá, tinh thần, hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Biểu hiện rõ nhất ở các hộ nghèo là hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học, không có điều kiện để chữa bệnh khi ốm đau. Nhìn chung ở hộ nghèo, người nghèo thu nhập thực tế của họ hầu như chỉ dành chi toàn bộ cho ăn; thậm chí không đủ chi ăn, phần tích luỹ hầu như không có. 1.1.2. Tiêu chí về đói nghèo Theo Ngân hàng Thế giới, biện pháp áp dụng thông dụng nhất để đo lường đói nghèo là dựa trên mức thu nhập hoặc mức chi tiêu. Một người được coi là nghèo, nếu mức độ chi tiêu hoặc thu nhập của anh ta xuống dưới mức tối thiểu cần thiết để đáp ứng cho các nhu cầu căn bản. Mức tối thiếu này được gọi là “ngưỡng đói nghèo”. Các yếu tố đáp ứng nhu cầu căn bản thay đổi theo thời gian và xã hội. Do đó, ngưỡng đói nghèo khác nhau theo thời gian và địa điểm và mỗi quốc gia sử dụng các ngưỡng thích hợp với mức độ phát triển, chuẩn mực và giá trị xã hội của mình. Để tổng hợp và so sánh toàn cầu, Ngân hàng thế giới sử dụng ngưỡng tham chiếu $1 và $2/ngày trong thuật ngữ “sức mua tương đương” (PPP) 1993 (PPP đo lường sức mua tương đối của đồng tiền các quốc gia). Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình XĐGN ở Việt Nam, WB đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam: Thứ nhất, là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2.100 calo/người/ngày, gọi là chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm; Thứ hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác, gọi là chuẩn nghèo chung. Tại Việt Nam hiện nay đang sử dụng một loạt các chỉ tiêu đánh giá về nghèo đói và phát triển xã hội: Bộ LĐ- TB&XH (cơ quan thường trực của Chính phủ trong tổ chức, triển khai, thực hiện XĐGN) dùng phương pháp dựa 7 trên thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo từng thời gian. Các hộ được xếp vào diện nghèo, nếu thu nhập đầu người của họ ở dưới mức chuẩn được xác định. Mức này khác nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ lệ nghèo được xác định bằng tỷ lệ giữa dân số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo so với tổng dân số trong cùng một thời điểm. Năm 1997, chuẩn nghèo đói thuộc phạm vi của chương trình quốc gia (chuẩn nghèo cũ) để áp dụng cho thời kỳ từ năm 1996 - 2000 như sau: Hộ đói là hộ có thu nhập dưới 13 kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000 đồng cho tất cả các vùng). Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo từng vùng ở các mức tương ứng như nhau: - Vùng nông thôn miền núi, hải đảo dưới 15 kg gạo/người/tháng (tương đương 55.000 đồng). - Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20 kg gạo/người/tháng (tương đương 70.000 đồng). - Vùng thành thị dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng). Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo từ 40% trở lên, thiếu một trong các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt, thuỷ lợi nhỏ và chợ). Trước những thành tích của công cuộc XĐGN, cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức sống. Cuối năm 2000 mức sống của dân cư tăng lên 1,5 lần, thu nhập GDP đầu người tăng lên 1,47 lần so với năm 1996, chuẩn hộ nghèo đã được điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn quốc tế. Theo chuẩn mực phân loại hộ nghèo do Bộ LĐ- TB&XH quy định tại văn bản số 1143 ngày 01/11/2000 đã công bố mức chuẩn nghèo mới áp dụng cho thời kỳ 20012005, thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng như sau: 8 - 80.000 đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng miền núi nông thôn. - 100.000 đồng/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn. - 150.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. - Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm từ 25% trở lên, thiếu 3 trong số các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện thắp sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ). - Vùng nghèo có thể là một số xã liền kề (hoặc một vùng dân cư) nằm ở vị trí khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận lợi. Các cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất và đảm bảo đời sống, là vùng có tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo cao. Theo tiêu chí đánh giá này, thì thời điểm đầu năm 2001 cả nước có khoảng 2,7 triệu hộ nghèo, tỷ lệ 17,3%. Theo quyết định số 170/2005/QĐTTg, ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006 - 2010: - Đối với khu vực thành thị: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người 1 tháng dưới 260.000 đồng. - Đối với khu vực nông thôn: Hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người 1 tháng dưới 200.000 đồng. Theo tiêu chí cũ về hộ nghèo, thì đến năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam còn 7%, còn theo tiêu chí mới tỷ lệ hộ nghèo tới 22%. Phương pháp xác định đói nghèo do Bộ LĐ- TB&XH nêu trên có những ưu điểm nhất định: Dễ hiểu, dễ tính toán, dễ điều tra. Việc đưa ra giới hạn đói nghèo của Bộ LĐ- TB&XH là phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tiện lợi cho việc Nhà nước có một bức tranh tổng quát về đói nghèo, đặc biệt là vùng nông thôn và miền núi để có thể đưa ra các giải pháp XĐGN trong cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc bình xét hộ nghèo tại một số địa phương (xóm, bản, xã, phường) đã không thực hiện 9 đúng theo hướng dẫn của Bộ LĐ- TB&XH về các tiêu chí đánh giá hộ nghèo, cho nên đã dẫn đến tình trạng số hộ nghèo thực tế lớn hơn số hộ nghèo được cấp thẻ (hộ nghèo trong danh sách) tại từng thời điểm (vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập cụ thể ở phần sau). Tổng cục Thống kê thì dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người để tính tỷ lệ nghèo. Tổng cục Thống kê xác định ngưỡng nghèo dựa trên chi phí cho một giỏ tiêu dùng, bao gồm lương thực và phi lương thực; trong đó, chi tiêu cho lương thực phải đủ đảm bảo 2.100 calo mỗi ngày cho 1 người. Các hộ được coi là thuộc diện nghèo, nếu mức thu nhập và chi tiêu không đảm bảo giỏ tiêu dùng này. Phương pháp đo lường đói nghèo bằng chi tiêu tỏ ra là một phương pháp tốt. Tuy nhiên, một trong những hạn chế của phương pháp này là nó đòi hỏi rất nhiều số liệu, chi phí điều tra cao, thời gian dài. 1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo Đói nghèo là hậu quả đan xen của nhiều nguyên nhân nằm trong các nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân khách quan, do môi trường tự nhiên (vị trí, khí hậu, đất đai); kinh tế - xã hội (trình độ dân trí thấp, yếu tố tập quán của từng dân tộc, từng vùng miền, chính sách của Nhà nước) và nhóm nguyên nhân do bản thân người nghèo; đi vào phân tích các nguyên nhân như sau: 1.1.3.1. Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên; kinh tế - xã hội - Điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến SXKD của các hộ gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo. Đói nghèo tập trung khu vực nông thôn: Nghèo có đặc thù rõ rệt về mặt địa lý. Ở Việt Nam, với 80% dân số và 90% số người nghèo sống ở nông thôn “Những đặc trưng của người nghèo vẫn giống như trước đây - đói nghèo vẫn là hiện tượng phổ biến ở nông thôn và đối với các dân tộc thiểu số, 10 thì mức độ đói nghèo cao và nghiêm trọng hơn so với đa số người Kinh. Các đặc trưng khác của đói nghèo, là rủi ro cao về thu nhập, do thường xuyên bị thiên tai và tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn” [16, trang 1]. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực và thực phẩm ở nông thôn là 15,9% đa số người nghèo là nông thôn (trên 80%), trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ…), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn, những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là phụ nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất, phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu nhập thấp hơn, họ có ít quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng, do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại. Điều kiện vị trí không thuận lợi đã hạn chế nhiều đến sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và sinh hoạt của các hộ gia đình. Người nghèo tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn; đa số người nghèo sinh sống ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn hoặc ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền trung; do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán…) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn, đặc biệt sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. “Năm 2000, khoảng 20- 30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% số xã chưa đủ công trình thủy lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã. Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người dân thuộc diện cứu trợ đột 11 xuất hàng năm khá cao, khoảng 1- 1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo còn lớn” [4, trang 19]. Đói nghèo trong khu vực thành thị: Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh. Một số lao động mất việc làm do chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước, dẫn đến điều kiện sống của họ càng khó khăn, một số người thất nghiệp. Các hộ nghèo thường có ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên tại một số nơi. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo, cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị cao. - Điều kiện kinh tế - xã hội Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy, không có đủ điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai, để thoát khỏi cảnh đói nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái… Những ảnh hưởng này tác động không những đối với thế hệ hiện tại, mà cả đối với các thế hệ tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục, trở nên khó khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy, khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; Trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn rất lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong 12 việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên; 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp, hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp và những công việc mang lại thu nhập cao và ổn định hơn. Do trình độ dân trí thấp, nên việc bất bình đẳng giới thường xảy ra. Bất bình đẳng giới còn sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân người phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng giới, thì còn có những tác động bất lợi khác đối với gia đình. Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Mặc dù vậy, nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khóa khuyến nông về chăn nuôi và 10% các khóa khuyến nông về trồng trọt. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo; họ thường xuyên gặp khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại công việc. Phụ nữ có học vấn thấp, dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn. Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ lây truyền HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục. “Nghèo cũng liên quan chặt chẽ tới nhóm dân tộc, ngay cả khi tất cả các đặc điểm khác nhau là giống nhau, chi tiêu của một người thuộc dân tộc thiểu số cũng thấp hơn chi tiêu của một người thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa 13%. Trình độ giáo dục cũng tạo sự khác biệt đáng kể; một hộ gia đình chủ hộ có trình độ trung cấp có mức chi tiêu cao hơn mức trung bình gần 19% và nếu chủ hộ có trình độ đại học thì mức cao hơn là 31%. Con số này là 29% nếu vợ/chồng có trình độ trung cấp và 48% nếu vợ/chồng có trình độ đại học” [3, trang 20]. 13 Ngoài yếu tố dân trí ra thì phong tục, tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã hội như buôn bán thuốc phiện, khai thác khoáng sản bừa bãi và di dân tự do cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Một số vùng đồng bào dân tộc hiện nay vẫn còn những hủ tục lạc hậu, như người ốm không đưa đến các trạm y tế để chữa bệnh mà mời thầy cúng đến làm lễ để cúng “con ma” ám vào người bệnh (họ cho rằng người ốm là do ma ám). Làm lễ cúng như thế, bệnh của người ốm ngày càng nặng thêm và rất tốn kém về kinh tế, dẫn đến gia đình nghèo càng nghèo thêm. - Chính sách nhà nước Do cơ chế chính sách Nhà nước thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng, kết cấu hạ tầng cho từng vùng nghèo, chính sách khuyến khích sản xuất, chính sách tín dụng, chính sách giáo dục đào tạo, y tế, chính sách đất đai…đã ảnh hưởng đến kết quả XĐGN. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến mức giảm nghèo. Việt Nam đã có những thành tích giảm đói nghèo rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên, quá trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đến người nghèo: Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi, các trục công nghiệp chính, chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, vẫn chưa chú trọng đầu tư các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú trọng khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp như lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước… không đúng đối tượng, làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa. Cải cách doanh nghiệp Nhà nước và những khó khăn về tài chính của các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm trong giai đoạn đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc 14 đã gặp rất nhiều khó khăn trong tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Phần lớn số người này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp và người lớn tuổi. Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự do hoá thương mại tạo ra được những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tạo việc làm chưa đựợc quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp và năng lực sản xuất hạn chế đã làm không ít các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản và đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, buộc họ phải gia nhập vào đội ngũ người nghèo. Tăng trưởng kinh tế giúp XĐGN trên diện rộng, song việc cải thiện tình trạnh của người nghèo về thu nhập, khả năng tiếp cận, phát triển các nguồn lực lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích tăng trưởng trong các nhóm dân cư bao gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng. Phân tích tình hình biển đổi về thu nhập của nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn và kết quả đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn, đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của nhân dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động. Hệ thống pháp luật kinh tế vẫn chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu một số đạo luật quan trọng. Nhiều văn bản pháp quy dưới luật chưa được ban hành kịp thời và thiếu nhất quán đã gây không ít cản trở trong quá trình thực hiện. Chất lượng một số luật về kinh tế, một số văn bản pháp quy dưới luật còn yếu. 15 Việc mở các lớp bồi dưỡng về khoa học kỹ thuật mới đối với hộ nghèo còn ít, hiệu quả chưa cao. Nhà nước chưa định hướng cụ thể cho người dân nên trồng cây gì, nuôi con gì cho phù hợp với điều kiện từng vùng, từng thời kỳ. Rủi ro trong SXKD của hộ nghèo chưa được xử lý kịp thời để hỗ trợ họ. 1.1.3.2. Nhóm nguyên nhân do bản thân hộ nghèo Hộ nghèo thường thiếu nhiều thứ như: Tri thức, học vấn, kỹ năng lao động, khả năng tiếp cận thị trường, sức khỏe. Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực (vốn SXKD, kiến thức và kỹ năng làm ăn, tư liệu sản xuất: Đất sản xuất, công cụ lao động, sức kéo…); trong đó, thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng để SXKD là một lực cản lớn nhất trong việc thoát khỏi đói nghèo. Người nghèo thường không đủ điều kiện để vay được nhiều vốn, trong khi nguồn vốn tự có khiêm tốn hoặc không có. Thiếu vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới…Mặc dù trong khuôn khổ của dự án tín dụng cho người nghèo thuộc chương trình XĐGN quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều. Song vẫn còn khá nhiều người nghèo, đặc biệt là người rất nghèo không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng. Một mặt, không có tài sản thế chấp, những người nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn. Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp, nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó khăn nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu ở 16 các vùng thành phố, thị xã… Nên người nghèo khó tiếp cận; hơn nữa phí dịch vụ pháp lý còn cao so với khả năng tài chính của họ. Hộ nghèo thường gặp khó khăn và thiếu tự tin trong việc giải quyết các vấn đề của chính bản thân mình. Về giao tiếp xã hội, người nghèo thường quan hệ với những người nghèo như mình, hoặc nghèo hơn mình. Không muốn quan hệ với những người khá giả hơn mình. Từ đó, càng làm hạn chế về khả năng tiếp cận tư duy mới, cũng như kinh nghiệm làm kinh tế giỏi. Đây là một cản trở lớn trong công cuộc XĐGN. Đại đa số hộ nghèo kiến thức và kỹ năng về sản xuất yếu, phương pháp canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức. Sản xuất tự cung, tự cấp là chính, chưa có khái niệm về sản xuất hàng hoá. Kiến thức về marketting không có; bán các sản phẩm làm ra, nhưng chưa qua chế biến, nên giá trị thấp; sản phẩm làm ra chưa xuất phát từ nhu cầu của thị trường (bán sản phẩm của mình có, chứ không bán cái mà thị trường cần). Người nghèo thường sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn, thiếu phương tiện thông tin liên lạc, con cái thất học…Thiếu việc làm, không năng động tìm kiếm việc làm, lười biếng lao động. Do sinh con nhiều, đông con vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của đói nghèo. Trong gia đình các hộ nghèo mặc dù nhân khẩu nhiều, nhưng số người có sức lao động lại ít. Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém, nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khoẻ…). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra nhưng bất ổn lớn trong cuộc sống của họ. “Các rủi ro trong SXKD đối với người nghèo cũng rất cao, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo 17 cũng rất kém, do nguồn thu nhập hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro hơn nữa.” [4, trang 24]. Bệnh tật và sức khỏe kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng đói nghèo. Khi bị bệnh tật, hộ nghèo phải gánh chịu mất đi thu nhập từ lao động và chi phí cao cho việc khám chữa bệnh; do vậy đẩy họ vào chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi đói nghèo. Trong khi đó, khả năng tiếp cận các dịch vụ phòng bệnh của người nghèo còn hạn chế: Tình trạng sức khỏe của người Việt Nam trong thập kỷ qua đã được cải thiện, song tỷ lệ người nghèo mắc các bệnh vẫn còn khá cao. Theo số liệu điều tra, mức sống năm 1998, số ngày ốm bình quân của nhóm 20% người nghèo là 3,1 ngày/năm, so với 2,4 ngày/năm của nhóm 20% người giàu. Bệnh tật và sức khoẻ yếu ảnh hưởng đến việc lao động sản xuất và tìm việc làm của người nghèo. Hộ nghèo do có người không chịu làm việc, hoặc hay uống rượu, hoặc chơi cờ bạc. 1.1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo 1.1.4.1. Đói nghèo là nguyên nhân gây mất ổn định xã hội, phá hoại môi trường và cản trở nâng cao dân trí Đa số người nghèo hiện sống tại khu vực nông thôn. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân chính gây nên các vấn đề xã hội. Ở nông thôn đất sản xuất có hạn và ngày càng bị thu hẹp; ngành nghề phụ một số nơi không phát triển và có thu nhập thấp hoặc không có ngành nghề phụ dẫn đến thời gian nông nhàn nhiều, hậu quả góp phần làm nảy sinh các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút. Các nguồn tài nguyên xuống cấp và cạn kiệt, đánh bắt cá quá mức và các môi trường tự nhiên biển bị phá hủy; môi trường tự nhiên ở vùng đất mặn và ven biển bị mất đi; mất đất rừng tự nhiên ở các vùng núi, cùng với sự phá hoại hệ sinh thái đa 18 dạng; các vùng đất có vấn đề ngày càng lan rộng do sử dụng đất kém và không đúng cách, ô nhiễm nước mặn, đất và nguồn nước khu vực nông thôn. Những mất mát đi kèm với việc các hộ nghèo buộc phải bán đất, di dân tự do ra thành thị và ven đô, nơi họ sinh sống thiếu hoặc không có những dịch vụ cơ bản, một bộ phận con cái họ dễ trở thành nạn nhân của tội phạm (trộm cắp, buôn bán hàng cấm, gái mại dâm…) và sự xuống cấp của môi trường xung quanh tăng ở mức ngoài tầm kiểm soát…Nhiều hộ cả vợ chồng bỏ ra thành phố làm ăn, một năm về nhà vài lần, ở nhà các con tự nuôi nhau hoặc ở nhà với ông bà già, các con thiếu sự quản lý, thiếu tình thương bố mẹ, nhiều trường hợp học hành giảm sút bị bỏ dở, tham gia trộm cắp…Tại thành phố sự chênh lệch giàu nghèo rõ nét, thiếu việc làm, không có đất để sản xuất dẫn đến một số người làm ăn phi pháp, tệ nghiện hút ở thanh niên ngày càng gia tăng… 19 1.1.4.2. Đói nghèo làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước Mục tiêu tổng quát của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm 2001- 2010 là: “ Đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao” [4, trang 36]. Để đạt được những mục tiêu này, cần phải tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, tăng cường cở sở hạ tầng kinh tế - xã hội, cải thiện hệ thống giáo dục đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tăng cường các lợi thế cạnh tranh trong các cam kết thương mại song phương và đa phương nhằm chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Tăng trưởng phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nhằm tạo thêm việc làm, cải thiện sức khoẻ cộng đồng, XĐGN và ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Muốn thực hiện các mục tiêu nêu trên, thì yếu tố con người là yếu tố đầu tiên và có tính chất quyết định. Vì vậy, phát triển con người là mục tiêu hàng đầu, vừa là động lực to lớn khơi dậy mọi tiềm năng của cá nhân và tập thể trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. XĐGN là một trong những chính sách xã hội hướng phát triển con người, nhất là đối với nhóm người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Đói nghèo và lạc hậu bao giờ cũng đi đôi với gia tăng dân số, suy giảm thể lực, trí lực… Vì vậy, XĐGN là một yêu cầu cấp thiết để phát triển một xã hội bền vững. 20 1.1.4.3. Xoá đói giảm nghèo bảo đảm cho đất nước giàu mạnh và xã hội phát triển bền vững XĐGN không chỉ là công việc trước mắt, mà còn là nhiệm vụ lâu dài; trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo. Lâu dài là xoá sự nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. XĐGN góp phần thực hiện công bằng xã hội thể hiện trên các mặt: Mở rộng cơ hội lựa chọn cho cá nhân và nhóm người nghèo, nâng cao năng lực cá nhân để thực hiện có hiệu quả sự lựa chọn của mình trong tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống. Tạo cơ hội cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng, giảm khoảng cách và sự chênh lệch quá đáng về mức sống giữa nông thôn và thành thị, các nhóm dân cư. XĐGN tham gia vào điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý hơn, từng bước thực hiện sự phân phối công bằng cả trong khâu phân phối tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất cho mỗi người, nhất là nhóm người nghèo. Hỗ trợ tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội, nhất là những dịch vụ xã hội cơ bản. XĐGN không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động, mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động vươn lên thoát nghèo. XĐGN không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn; mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”. Do vậy, các chính sách ban hành để thực thi chương trình XĐGN giữ vai trò quan trọng, góp phần tích cực hoàn thành mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao, tạo cơ hội thuận lợi để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội SXKD và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng, tạo điều kiện thu hẹp dần
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan