Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giải pháp chính sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn địa bàn huyện thọ...

Tài liệu Giải pháp chính sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn địa bàn huyện thọ xuân tỉnh thanh hóa

.PDF
83
458
134

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRỊNH THỊ NGA GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Tác giả luận văn Trịnh Thị Nga MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ........................................................................................7 1.1. Khái niệm chính sách phát triển cán bộ, công chức .............................. 7 1.2. Nội dung của chính sách phát triển cán bộ, công chức........................ 13 1.3. Mục tiêu của chính sách phát triển cán bộ, công chức ........................ 21 1.4. Giải pháp và công cụ chính sách phát triển cán bộ, công chức ........... 22 1.5. Chủ thể ban hành chính sách phát triển cán bộ, công chức ................. 26 1.6. Thể chế chính sách phát triển cán bộ, công chức ................................ 27 1.7. Những yếu tố tác động chính sách phát triển cán bộ, công chức ........ 29 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TẠI HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA........... 35 2.1. Khái quát tình hình cán bộ, công chức tại huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. ..................................................................................................................... 35 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa............................................................... 41 2.3. Những thuận lợi và tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức huyện Thọ Xuân ................................................... 51 Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA .. 58 3.1. Định hướng, mục tiêu chính sách phát triển cán bộ, công chức huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ......................................................................... 58 3.2. Một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện chính sách phát triển cán bộ, công chức huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ...................................................... 63 3.3. Một số đề xuất, kiến nghị ..................................................................... 71 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 76 DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBCC Cán bộ, công chức ĐVT Đơn vị tính HĐND Hội đồng nhân dân KT-XH Kinh tế - xã hội UBND Ủy ban nhân dân DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Cơ cấu cán bộ, công chức Huyện Thọ Xuân giai đoạn 2011-2015 theo giới tính ................................................................................... 37 Bảng 2.2 : Cơ cấu CBCC huyện Thọ Xuân giai đoạn 2011-2015 theo độ tuổi.... 38 Bảng 2.3: Cơ cấu CBCC huyện Thọ Xuân giai đoạn 2011-2015 theo trình độ chuyên môn ..................................................................................... 39 Bảng 2.4: Cơ cấu CBCC huyện Thọ Xuân theo trình độ ngoại ngữ, tin học và bồi dưỡng QLNN ............................................................................ 40 Bảng 2.5: Cơ cấu CBCC huyện Thọ Xuân theo trình độ lý luận chính trị ........... 41 Bảng 2.6: Số lượng CBCC được đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ giai đoạn 2011 – 2015 ..................................................................... 44 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đảng và Nhà nước ta đã xác định đội ngũ cán bộ, công chức có ý nghĩa quan trọng tới chất lượng và hiệu quả công việc, là một trong những yếu tố quyết định sự thành công trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Như sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Hội nghị trung ương 3, khóa VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Cán bộ là nhân tố trực tiếp quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Trong hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở thì đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng. Họ là những người vừa trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, trực tiếp giải quyết quyền, lợi ích hợp pháp của người dân; vừa là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; là nơi tổ chức, thực hiện việc truyền đạt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, biến chúng thành hoạt động thực tế của nhân dân địa phương. Họ đại diện cho Đảng và Nhà nước trong việc thực thi chủ trương, chính sách cấp trên và ban hành chính sách nhằm quản lý, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Phẩm chất chính trị, trình độ năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ, công chức là yếu tố làm nên sức mạnh ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế không ngừng nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện là một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay. Huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa là một huyện nằm ở phía tây tỉnh 1 Thanh Hoá. Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền huyện Thọ Xuân luôn quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ mới hiện nay việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức của huyện còn nhiều hạn chế, yếu kém. Như chính sách tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức còn nhiều bất cập, thiếu sự đồng bộ; chính sách quy hoạch tạo nguồn cán bộ, công chức chưa đảm bảo tính kế cận, vẫn còn tình trạng hẫng, hụt cán bộ, công chức... Do đó chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức huyện Thọ Xuân chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, trình độ năng lực còn nhiều yếu kém…Dẫn đến hoạt động quản lý, điều hành chính quyền của huyện Thọ Xuân có một số nơi chưa tốt, còn tùy tiện, vẫn còn tình trạng chưa thực sự làm việc theo pháp luật mà nặng về thói quen, tình cảm. Từ những tồn tại nêu trên, nhằm đánh giá đúng thực trạng việc triển khai thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức ở huyện Thọ Xuân trong thời gian qua, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển cán bộ, công chức tại huyện Thọ Xuân trong những năm tới, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Giải pháp chính sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn địa bàn huyện Thọ Xuân - tỉnh Thanh Hóa” làm luận văn thạc sỹ Chính sách công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chính sách phát triển cán bộ, công chức có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nên mảng đề tài này từ lâu đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến: 2 - PGS.TS.Đức Vượng, “Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2010. Tác giả đã sưu tầm các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác đào tạo cán bộ, phân tích khoa học tư tưởng của Người về đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài qua các thời kỳ cách mạng để giành độc lập, kháng chiến và kiến quốc. - TS. Nguyễn Ngọc Hiến (2002) chủ biên, “Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam” đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về công vụ, công chức; đổi mới cơ chế tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, hiện đại hóa công sở. - GS.TS. Hoàng Chí Bảo, “Thực hiện tốt chính sách cán bộ - giải pháp động lực góp phần đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Tạp chí ban tuyên giáo, 2012. Bài viết nêu ra 4 nhóm giải pháp lớn của Nghị quyết trung ương 4 (Khóa XI) và cho rằng nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách, mà quan trọng hàng đầu là chính sách cán bộ là giải pháp động lực, góp phần ngăn ngừa, phòng chống tham nhũng, lãng phí, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. - GS.TSKH.Vũ Huy Từ, “Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 5/2006. Đây là công trình nghiên cứu khoa học chủ yếu nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của cán bộ, công chức cơ sở và năng lực quản lý của cán bộ, công chức chính quyền cấp cơ sở như thể chế về tiêu chuẩn, chế độ, chính sách; tạo nguồn, tuyển dụng theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch; kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; xây dựng chế độ thanh tra, kiểm tra. - TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, “Một số vấn đề về phát triển năng lực của cán bộ, công chức”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 1/2011. Trong bài viết, tác giả nghiên cứu về năng lực của cán bộ, công chức, từ đó đưa ra một số vấn đề về phát triển năng lực. Tác giả đã có những đóng góp làm rõ hơn về lý luận năng lực và cơ sở hình thành năng lực của cán bộ, công chức. Công trình cúng 3 đã đưa ra một số biện pháp phát triển năng lực phù hợp với môi trường hành chính nhà nước, công chức không chỉ nhận biết được những năng lực đã có (năng lực hiện tại) mà phải xác định được những năng lực cần được lĩnh hội, phát triển. - GS.TS. Đinh Văn Tiến, Ths. Thái Vân Hà (2013), Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong tình hình mới, đã phân tích vai trò, thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức để đề xuất giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta trong thời gian qua và đưa ra giải pháp, kiến nghị phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong những năm tới. Nhìn chung, những công trình, bài viết trên có giá trị lớn cả về lý luận và thực tiễn về chính sách phát triển cán bộ, công chức ở nước ta. Tuy nhiên chưa có một đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể về chính sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Các công trình nghiên cứu trước đó sẽ là nguồn tư liệu quan trọng để tham khảo, bồi đắp thêm về mặt lý luận và thực tiễn cho luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chính sách phát triển cán bộ, công chức; phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa; để từ đó phát hiện đúng các vấn đề chính sách và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, các nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được xác định là: 4 - Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận, lý thuyết về chính sách phát triển cán bộ, công chức. - Vận dụng lý thuyết về chính sách công để phân tích, khảo sát, đánh giá chính sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. - Phân tích định hướng, mục tiêu và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới việc xây dựng, thực thi chính sách phát triển cán bộ, công chức phù hợp với điều kiện thực tế huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu chính sách và việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức tại huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Giải pháp thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa Phạm vi giới hạn: giai đoạn năm 2011 – 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức cấp huyện nói riêng. Luận văn sử dụng các phương pháp chính sách công để nghiên cứu quy trình từ khâu hoạch định chính sách đến thực thi chính sách và đánh giá chính sách công Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp như phương pháp điều tra trực tiếp bằng bảng hỏi; Phương pháp phỏng vấn chuyên sâu; ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp khác như: Thống kê, khái quát thực tiễn, phân tích định lượng, suy luận logic, diễn giải trong quá trình phân tích đánh giá chính sách. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5 Luận văn phát triển và làm phong phú thêm nền tảng lý luận về chính sách phát triển cán bộ, công chức ở Việt Nam. Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách khách quan toàn diện về chính sách phát triển cán bộ, công chức và thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức tại huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa; chỉ ra những mặt thuận lợi và những điểm còn tồn tại, hạn chế từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách phát triển cán bộ, công chức Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển cán bộ, công chức huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC 1.1. Khái niệm chính sách phát triển cán bộ, công chức 1.1.1. Khái niệm về cán bộ, công chức Khái niệm cán bộ quy định tại khoản 1, điều 4 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 quy định cụ thể “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo từng thời kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi tắt là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. [26, tr.1] Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ các tiêu chí chung của CBCC mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ. Như vậy, cán bộ huyện gồm các chức vụ sau: + Bí thư, Phó Bí thư huyện ủy; + Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thường trực Hội đồng Nhân dân huyện; + Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện, + Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện; + Bí thư, Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện; + Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam huyện; + Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam huyện; + Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam huyện; 7 + Chủ tịch, Phó chủ tịch Liên đoàn Lao động huyện. - Hiện nay, khái niệm công chức quy định tại khoản 2, Điều 4 “Luật cán bộ, công chức” được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 và tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP, ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những người là công chức, ta có thể hiểu: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.[26, tr.2] Theo quy định này thì tiêu chí để xác định công chức gắn với cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Những người đủ các tiêu chí chung của công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thông qua quy chế tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh thì được xác định là công chức. Như vậy, công chức cấp huyện gồm các chức danh sau: + Đối với cơ quan Đảng, gồm: người giữ chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các ban Huyện ủy; 8 + Đối với cơ quan hành chính, gồm: Chánh văn phòng, Phó chánh văn phòng và người làm việc trong Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Chánh văn phòng, Phó Chánh văn phòng và người làm việc trong văn phòng Ủy ban nhân dân huyện (đối với nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân); Người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân; + Đối với cơ quan Tòa án, gồm: Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện; Thẩm phán tòa án nhân dân cấp huyện; thư ký tòa án; người làm việc trong tòa án nhân dân cấp huyện; + Đối với cơ quan Viện kiểm sát Nhân dân, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện; kiểm sát viên, điều tra viên và người làm việc trong Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện; + Đối với cơ quan của các tổ chức chính trị - xã hội: Người làm việc trong cơ quan của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức tương đương. Theo quy định tại Điều 61, Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì chức danh cán bộ, công chức cấp xã gồm: - Cán bộ cấp xã: + Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; + Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND; + Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND; + Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; + Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; + Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam); + Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam; - Công chức cấp xã có các chức danh sau đây: + Trưởng Công an; 9 + Chỉ huy trưởng Quân sự; + Văn phòng - Thống kê; + Địa chính - Xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường đối với xã); + Tài chính - Kế toán; + Tư pháp - Hộ tịch; + Văn hóa - Xã hội. 1.1.2. Khái niệm chính sách phát triển cán bộ, công chức Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...”.[20, tr.135] Chính sách phát triển cán bộ, công chức thực chất là một trong các chính sách công. Vậy để hiểu khái niệm chính sách phát triển cán bộ, công chức, trước hết phải hiểu chính sách công là gì?Ở Việt Nam, thuật ngữ chính sách công còn mới mẻ, thông thường chúng ta quen dùng cụm từ đồng nghĩa: Chính sách của nhà nước hoặc chính sách của Đảng và Nhà nước, vì ở nước ta, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc vạch ra đường lối, chiến lược, các định hướng chính sách, đó chính là những căn cứ chỉ đạo để Nhà nước ban hành các chính sách công. Như vậy, về thực chất, các chính sách công là do Nhà ban hành nhưng các chính sách này chính là cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân ta. Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính sách công” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau: 10 Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành (Peter Aucoin, 1971). [27] Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978). [27] Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas R. Dye, 1984). [27] Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy Peter, 1990). [28] Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992). [27] Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and Eloise F. Malone, 1995). [27] Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh hưởng tới đời sống của công dân (B. Guy Peters, 1999). [27] Ở nước ta, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra các quan niệm về chính sách công, như: PGS.TS. Lê Chi Mai cho rằng: “Chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn; chính sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định; chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau”. [27] 11 PGS.TS. Đỗ Phú Hải nêu ra định nghĩa về chính sách công như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định của đảng chính trị cầm quyền”. [13, tr.12] Chính sách công là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được hiện thực hoá. Trong các chính sách công bao giờ cũng xác định được mục tiêu, phương hướng, các biện pháp, các công cụ, các nguồn lực để thực hiện. Chính sách công luôn hướng đến sự phát triển bền vững của xã hội, điều này cho thấy các chính sách công luôn mang trong mình những mục đích chính trị mà chỉ bản thân chủ thể mới hiểu rõ. Như vậy : “Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội theo mục tiêu xác định”. Từ những quan điểm về chính sách công nói chung ở trên có thể đưa ra quan điểm: Chính sách phát triển cán bộ, công chức là tập hợp các quyết định có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của cán bộ, công chức theo mục tiêu đã xác định. Chính sách phát triển cán bộ, công chức là hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đối với đội ngũ cán bộ, công chức; là công cụ và các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đồng bộ, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng. Chính sách phát triển cán bộ, công chức là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chính sách là do con người tạo ra, nhưng đồng thời chính sách lại tác động mạnh mẽ 12 đến hoạt động của con người. Chính sách có thể mở đường, là động lực thúc đẩy tính tích cực, khả năng sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm của mỗi con người, nhưng cũng có thể kiềm hãm những hoạt động, làm thui chột tài năng, sáng tạo của họ. Vì vậy, có thể khẳng định rằng chất lượng cán bộ, công chức luôn gắn liền với hệ thống chính sách phát triển cán bộ, công chức. Chính sách phát triển cán bộ, công chức còn góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, bảo đảm cho mọi người sống trong bình đẳng, phát triển hài hòa. 1.2. Nội dung của chính sách phát triển cán bộ, công chức Nội dung chính sách phát triển CBCC bao gồm toàn bộ các quan điểm, chủ trương, biện pháp, quy định về công tác cán bộ. Do đó, chính sách phát triển CBCC gắn liền với các khâu trong công tác cán bộ, khó có thể tách bạch rạch ròi chính sách phát triển CBCC với từng khâu công tác cán bộ. Chính sách phát triển CBCC nhằm hướng đến mục tiêu phát huy sự sáng tạo, cống hiến của CBCC làm phong phú thêm các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Do đó, khi bàn đến chính sách phát triển CBCC cần khắc phục thói quen hiểu chính sách phát triển CBCC chỉ là chế độ đãi ngộ vật chất, động viện tinh thần đối với CBCC. Chính sách phát triển CBCC bao gồm nhiều bộ phận cấu thành như: chính sách bầu cử cán bộ; chính sách tuyển dụng, bố trí, sử dụng công chức; chính sách thu hút sinh viên; chính sách đào tạo, bồi dưỡng; chính sách khen thưởng - kỷ luật; chính sách đánh giá, phân loại; chính sách tiền lương; chính sách đãi ngộ... có tác động trực tiếp đến việc sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, tạo lập môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, hướng đến mục tiêu phát đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, thật sự vì Nhân dân. Mặt khác, chính sách phát triển CBCC bao gồm toàn bộ các hoạt động từ việc xác định mục tiêu đến xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ, công chức và được tiến hành bởi các cơ quan, 13 tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, nhằm tạo nên một đội ngũ CBCC đồng bộ, có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất đạo đức, năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở cơ sở trong từng giai đoạn cách mạng. Các chính sách phát triển đội ngũ CBCC cũng xác định rõ các phương hướng chung, cơ bản; các biện pháp, công cụ, các nguồn lực để đạt được mục tiêu đề ra. Mỗi chính sách được xây dựng khởi nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách - đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn trong xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải quyết nhằm đạt tới mục tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu giải quyết vấn đề của chính sách thường thể hiện ở các mục tiêu của chính sách. Tuy nhiên, đôi khi mục tiêu được đề ra quá rộng, chung chung, không rõ ràng, khi đó dù các chính sách có được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng rất khó xác định vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu. Hơn nữa, vấn đề chính sách thường có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức độ giải quyết vấn đề chính sách có thể đo lường được bằng một loạt tiêu chí liên quan đến các khía cạnh kinh tế – xã hội này. Xác định vấn đề chính sách là giai đoạn khởi đầu trong quy trình xây dựng chính sách công, bao gồm từ bước phát hiện những vấn đề xã hội, mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống xã hội, đến mức cần phải có giải pháp giải quyết bằng chính sách cho đến khi hoàn thành những mục tiêu của chính sách công. Những vấn đề đó thường là những mâu thuẫn trong xã hội, những vướng mắc trong quá trình phát triển hoặc là nhu cầu phát triển ở mức độ cao hơn. Vì vậy, vấn đề của chính sách luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội. Việc xác định vấn đề chính sách được bắt đầu bằng cảm nhận vấn đề so với cấu trúc vấn đề, đó là cảm nhận về các trở ngại, khó khăn, vướng mắc trong xã hội cần được giải quyết bằng chính sách hoặc các bất hợp lý gây mâu thuẫn, mất cân bằng, mất ổn định về kinh tế xã hội, cản trở tăng trưởng kinh tế hoặc những nhu cầu trong tương lai cần đạt được bằng 14 chính sách. Việc xác định rõ quy mô và mức độ nghiêm trọng của vấn đề xã hội để xác định rõ phạm vi và mức độ can thiệp của chính sách là hết sức quan trọng và cần được xem xét cụ thể thông qua các chỉ số đáng tin cậy. Vấn đề phát triển cán bộ, công chức là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay. Đặc biệt trong bối cảnh khoa học và công nghệ thế giới phát triển nhanh, toàn cầu hóa trở thành xu hướng tất yếu và cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, thì cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Vấn đề của chính sách đối với cán bộ, công chức nảy sinh khi những mâu thuẫn giữa quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức đến mức cần phải giải quyết; mâu thuẫn giữa thu nhập bị giới hạn với chi phí trong cuộc sống liên tục gia tăng; giữa sự chênh lệch thu nhập của các thành phần kinh tế; giữa trình độ đào tạo và khả năng thực hiện công việc; giữa sự đãi ngộ và khả năng cống hiến. Việc xác định đúng vấn đề chính sách đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng, ban hành, thực hiện chính sách và quyết định đến sự thành công hay thất bại của chính sách. Vì vậy, các vấn đề được đề cập trong các chính sách phát triển CBCC rất toàn diện, đầy đủ và bao hàm tất cả các vấn đề liên quan đến đội ngũ CBCC. 1.2.1. Tuyển dụng cán bộ, công chức Tuyển dụng cán bộ, công chức là một quá trình phức tạp nhằm tìm kiếm, bổ sung nguồn nhân lực cho bộ máy chính quyền. Tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý công chức, có tính quyết định cho sự phát triển một cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước. Vì vậy khi tuyển dụng cán bộ, công chức cần tuyển được những người có khả năng đảm nhiệm được chức danh trong hiện tại và tương lai, chứ không chỉ thuần túy là đáp ứng ngay các công việc mà họ đảm nhiệm trước mắt. Theo điều 38 Luật CBCC, việc tuyển 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan