1. Euro trong hệ thống tiền tệ toàn cầu
Theo một bản nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương châu Âu tỷ lệ của
đồng Euro trong dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu tăng từ 13% trong năm
2001 lên 16,4% trong năm 2002 và đến 18,7% trong năm 2003, cũng
trong cùng thời gian này tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ giảm từ 68,3% (2001)
xuống 67,5% (2002) và trong năm 2003 còn 64,5%. Nói chung người ta
tin rằng tầm quan trọng của đồng Đô la Mỹ như là tiền tệ dự trữ thế giới
sẽ tiếp tục giảm và đồng Euro sẽ ngày càng quan trọng hơn trong chức
năng này. Tầm quan trọng ngày càng tăng của đồng Euro cũng thể hiện
qua một khía cạnh khác: Trong năm 1999 21,7% tất cả các giấy nợ quốc
tế được tính bằng Euro, trong năm 2001 là 27,4% và trong năm 2003 đã
là 33%. Năm 2004 đồng Đô la Mỹ đã chấm dứt vai trò là tiền tệ quan
trọng nhất cho các loại trái phiếu và công trái với lãi suất cố định và lãi
suất thả nổi (tiếng Anh: Floating Rate Notes): Trong cuối tháng 9 năm
2004 có trên 12.000 tỉ đô la trái phiếu và công trái quốc tế lưu hành trên
toàn thế giới. Trong đó có 5.400 tỉ là đồng Euro, 4.800 tỉ là đồng Đô la
Mỹ, 880 tỉ đồng Bảng Anh, 500 tỉ tiền Yen và 200 tỉ là đồng Franc Thụy
Sĩ. Tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ trong tổng số tiền gửi tại các tài khoản của
các quốc gia OPEC giảm từ 75% trong mùa hè 2001 xuống còn 61,5%
trong mùa hè 2004. Tỷ lệ tiền Euro tăng trong cùng khoảng thời gian từ
12% lên 20%. Trong năm 2003 tỷ lệ mua bán Euro trên các thị trường
ngoại tệ là 25% so với 50% của đồng Đô la Mỹ và 10% cho hai loại tiền
Bảng Anh và Yen Nhật. Đồng Euro vì vậy là tiền tệ quan trọng đứng thứ
nhì hiện thời.
2. mã tiền tệ ISO
Ký hiệu quốc tế bao gồm ba mẫu tự của đồng Euro (mã tiền tệ ISO) là
EUR. Ký hiệu này là một trường hợp đặc biệt trong mã tiền tệ ISO vì
nhiều lý do:Thông thường thì chữ cái đầu tiên của ký hiệu cho một loại
tiền tệ được sử dụng trong khuôn khổ của một liên minh tiền tệ là chử X.
Vì thế ký hiệu nếu như theo như tiêu chuẩn phải là XEU. Nếu như chữ
đầu tiên không phải là X thì hai mẫu tự đầu tiên là mã quốc gia theo ISO
3166. Ký hiệu EU dành cho Liên minh châu Âu cũng được định nghĩa
trong tiêu chuẩn này nhưng thật ra là trường hợp đặc biệt vì Liên minh
châu Âu không phải là một quốc gia có chủ quyền. Chữ cái cuối cùng
của mã tiền tệ thường là chữ cái đầu tiên của tiền tệ. Không có ký hiệu
chính thức và cũng không có cách viết tắt chính thức cho Cent của Euro.
3. Tiền giấy và tiền xu euro
Ngày của đồng euro (112002) là ngày cuối
cùng của một dự án dài tới 6 năm để thiết kế và
in hơn 14 tỉ tờ tiền giấy và một lượng lớn
khoảng 50 tỉ tiền xu. Trong cùng một lúc,
khoảng 10 tỉ tờ tiền giấy được đưa vào lưu
thông. Số tiền này thay thế cho tiền của từng
quốc gia riêng biệt, số còn lại đưa vào dự trữ.
Đồng tiền euro có hai loại: Tiền giấy và tiền xu
với các loại mệnh giá khác nhau. Đôi với tiền
giấy, có tất cả 7 loại mệnh giá cụ thể là: 5 euro,
10 euro, 20 euro, 50 euro, 100 euro, 200 euro,
500 euro. Bảy loại mệnh giá được in với bảy
loại màu sắc riêng biệt để giúp thêm cho việc
nhận diện.
Kích thước của các đồng tiền cũng khác nhau
và tăng dần tương ứng với giá trị đồng tiền.
Những đặc trưng chung cho tất cả các loại tiền
giấy euro là: Tên của đồng tiền được viết theo
cả hệ chữ cái latinh (euro) và hệ chữ cái Hylạp
(EYPW); những chữ cái đầu của Ngân Hàng
Trung ương Châu Âu được viết theo năm ngôn
ngữ khác nhau BCE, ECB, EZB, EKT, EKP
bao gồm trong đó tất cả 11 ngôn ngữ chính thức
của các quốc gia trong cộng đồng Châu Âu;
Kí hiệu thể hiện bản quỳên đã được đăng kí ; chữ kí của ông Wilem
F.Duisenberg, Chủ tịch Ngân hàng trung ương Châu Âu và cuối cùng là
cờ của liên minh Châu ÂU. Đồng euro xu được đưa vào lưu thông có 8
loại mệnh giá khác nhau: 1, 2, 5, 10, 20 và 50 cent và 1 euro, 2 euro.Một
euro tương đương với 100 cent. Các đồng xu euro khác nhau về kích
thước, trọng lượng, chất liệu, màu sắc và độ dày mỏng để giúp người
mù, người suy giảm thị năng nhận dạng. ngoài ra, từng đồng xu này
cũng khác nhau.
3.Hình dạng và kích thước
Euro (ký hiệu tiền tệ quốc tế: "EUR") là tiền tệ chung của 12 nước
thuộc Liên minh châu Âu. Tiền giấy và tiền kim loại Euro bắt đầu được
lưu hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 tuy rằng loại tiền tệ này đã được
đưa vào sử dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1999.
Tiền giấy Euro có 7 mệnh giá, mỗi mệnh giá có một màu khác nhau. Các
tờ tiền giấy mang hình của kiến trúc châu Âu từ các thời kỳ khác nhau
trong lịch sử nghệ thuật.
Mặt trước có hình của một hay nhiều cửa sổ hay cổng vào và mặt sau là
một chiếc cầu. Đó không phải là công trình kiến trúc có thật mà chỉ là
tập hợp của những đặc điểm phong cách của từng thời kỳ kiến trúc một.
Tất cả các tờ tiền giấy đều có cờ hiệu châu Âu, chữ đầu tự của Ngân
hàng Trung ương châu Âu bao gồm 5 ngôn ngữ (BCE, ECB, EZB, EKT,
EKP), một bản đồ châu Âu (bao gồm cả các khu hành chính hải ngoại
của Pháp) ở mặt sau, tên "Euro" bằng chữ La tinh và chữ Hy Lạp, chữ
ký của Giám đốc Ngân hàng Trung ương Châu Âu đương nhiệm. Vì
Wim Duisenberg đã trao lại chức giám đốc cho Jean-Claude Trichet
trong mùa thu 2003 nên trên các tờ tiền giấy in sau này chữ ký cũng đã
thay đổi. 12 ngôi sao của EU cũng có trên tờ tiền giấy Euro.
Các tờ tiền giấy là do người Áo Robert Kalina thiết kế sau một cuộc thi
trong toàn EU.
5.] Các mệnh giá
Miêu tả têền giấấy Euro
Mệnh giá
5 Euro 5 €
Kích
thước
Màu
chính
120 x 62
Xám
mm
10
127 x 67
10 €
Euro
mm
Đỏ
Kiêấn trúc
Thời kỳ
Vị trí mã nhà in
Kiểu Cổ điển
Trước thếế
Cạnh phía trái
kỷ thứ 5
Kiểu Lãng
mạn
Thếế kỷ 11– Ngôi sao phía 8
Thếế kỷ 12
giờ
20
133 x 72 Xanh da
Thếế kỷ 13– Ngôi sao hướng
20 €
Kiểu Gô tch
Euro
mm
trời
Thếế kỷ 14
9 giờ
50
140 x 77
Thời kỳ Phục Thếế kỷ 15–
50 €
Da cam
Euro
mm
Hưng
Thếế kỷ 16
100 100 147 x 82 Xanh lá
Euro € mm
cây
Barock và
Rococo
Cạnh phải
Bến phải của
Thếế kỷ 17–
ngôi sao hướng
Thếế kỷ 18
9 giờ
Bến phải của
200 200 153 x 82 Vàng- Kiếến trúc bằằng Thếế kỷ 19–
ngôi sao hướng
Euro € mm
Nâu thép và kính Thếế kỷ 20
8 giờ
500 500 160 x 82
Euro € mm
Tía
Kiếến trúc hiện Thếế kỷ 20–
đại
Thếế kỷ 21
Ngôi sao ở
hướng 9 giờ
]6. Sốố xê ri
Khác với tiền kim loại Euro các tờ tiền giấy Euro không có một mặt đặc
trưng cho từng quốc gia và vì thế mà không thể nhận biết qua hình ảnh
là tờ tiền giấy là của quốc gia nào. Thay vào đấy, thông tin này có trong
số xê ri trên mặt sau. Mẫu tự đầu tiên của số xê ri có 12 chữ số là dấu
hiệu của Ngân hàng Trung ương Quốc gia chịu trách nhiệm in tờ tiền
giấy này. Ngân hàng Trung ương Quốc gia này hoặc là đã đưa tờ tiền
giấy vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng hoặc là đã
cung cấp cho một Ngân hàng Trung ương Quốc gia khác để ngân hàng
này đưa vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng đó. Các
mẫu tự W, K và J được dành riêng cho các quốc gia EU không tham gia
vào Euro trong thời gian này.
Sau mẫu tự của Ngân hàng Trung ương Quốc gia là một số bao gồm 10
con số và cuối cùng là một con số kiểm định. Tổng số ngang (cộng tất cả
các con số của dãy số lại cho đến khi nào chỉ còn một con số) của 11 con
số này là một tổng số kiểm định trong bảng phía dưới. Con số kiểm định
cũng có thể được kiểm tra bằng cách thay thế mẫu tự bằng thứ tự của
mẫu tự đó trong bảng chữ cái (A=1;Z=26). Tổng số ngang của các con
số kể cả số thay cho chữ cái phải là 8.
Một con số kiểm định đúng tất nhiên không phải là một sự bảo đảm là tờ
tiền giấy này là tờ tiền thật. Chỉ có con số kiểm định đúng thôi thì tờ tiền
giả không trở thành tờ tiền thật nhưng kinh nghiệm cho thấy nhiều người
giả mạo đã in số kiểm định sai trên tờ tiền giả. Để kiểm tra tiền giả hay
thật nên dùng những phương pháp khác.
7.Cách nhận biết tiền giả
Đối với đồng euro giấy, có tất cả 7 mệnh giá khác nhau là 5, 10, 20, 50,
100, 200, 500 euro. Chúng có một số đặc điểm sau:
1/ Các đồng euro được in trên một loại giấy đặc biệt, có thành phần cấu
tạo chủ yếu là sợi bông, nó tạo cảm giác giòn chứ không mềm uột hay
nhẵn nhụi.
2/ Như các đồng tiền khác, đồng euro có hình mờ in biểu tượng về các
kiến trúc, mệnh giá đồng tiền và có thể nhìn từ hai mặt. Các hình mờ
được tạo bằng cách thay đổi độ dày mỏng của đồng tiền trong các công
đoạn sản xuất khác nhau. Có thể nhìn thấy những bộ phận khác nhau,
một số có sắc màu nhạt hơn, một số đậm hơn những bộ phận xung
quanh.
3/ Chỉ bảo mật được đưa vào đồng tiền khi sản xuất. Nếu nhìn qua ánh
sáng có thể thấy một sợi chỉ chạy xuyên suốt chiều ngang đồng tiền,
nhưng nếu nhìn kỹ trên sợi chỉ còn có các chữ euro và các con số chỉ giá
trị đồng tiền (ở cả hai mặt).
4/ Góc trái trên của mặt trước đồng tiền có một số hình ảnh nhìn xuyên,
gồm những dấu hiệu bất thường được in cả trước và sau. Khi đưa ra
trước ánh sáng chúng kết hợp với nhau để tạo nên con số chính xác và
hoàn hảo.
5/ Mặt trước trên, phía bên phải của những đồng mệnh giá 5, 10, 20 euro
có một vạch 3 chiều (có chứa hình ảnh 3 chiều), khi lật hai mặt của đồng
tiền có thể thấy ký hiệu đồng euro, con số mệnh giá màu sắc tươi sáng.
Còn đối với đồng có mệnh giá 50, 100, 200 và 500 euro, cũng có vạch 3
chiều nhưng khi dịch chuyển đồng tiền có thể thấy con số chỉ mệnh giá
cùng các công trình kiến trúc có màu sắc tươi.
6/ Đối với 4 đồng tiền có mệnh giá lớn nhất, các con số chỉ giá trị đồng
tiền trên góc dưới bên phải của mặt trái các đồng tiền đều in bằng mực
đổi màu. Nó có mầu tím khi nhìn thẳng, chuyển sang ôliu, hoặc thậm chí
là nâu khi nhìn nghiêng.
7/ Đối với 3 loại đồng tiền mệnh giá thấp có một vạch ngũ sắc chỉ xuất
hiện ở mặt trái, phát sáng dưới ánh sáng mạnh và có thể nhìn rõ ký hiệu
euro và con số giá trị đồng tiền ở vạch ngũ sắc đó.
Đối với tiền xu có tất cả 8 loại mệnh giá khác nhau 1, 2, 5, 10, 20, 50
cent và 1, 2 euro (1 euro = 100 cent). Các loại mệnh giá khác nhau về
kích cỡ, trọng lượng, chất liệu, màu sắc, độ dày mỏng và cả rìa đồng tiền
(giúp người khiếm thị nhận biết). Đồng tiền có cấu tạo đơn giản hơn tiền
giấy, đối với 3 loại có giá trị thấp nhất có hình bản đồ với biểu tượng
tượng trưng cho Liên minh châu Âu như một khối thống nhất từ nhiều
quốc gia thành viên. Các loại tiền xu còn lại có biểu tượng của cả khoi
lien minh chau au
Đôằng USD
Giới thiệu
Đôằng đô la Myỹ hay Myỹ kim (United States dollar, ký hiệu: $; mã: USD),
còn được gọi ngằến là "đô la" hay "đô", là đơn vị tếằn tệ chính thức của
Hoa Kỳ. Nó cũng được dùng để dự trữ ngoài Hoa Kỳ. Hiện nay, việc
phát hành tếằn được quản lý bởi các hệ thôếng ngân hàng của Cục Dự
trữ Liến bang (Federal Reserve). Ký hiệu phổ biếến nhâết cho đơn vị này
là dâếu $. Mã ISO 4217 cho đô la Myỹ là USD; Quyỹ tếằn tệ quôếc tếế (IMF)
dùng US$. Trong nằm 1995, trến 380 tỷ đô la đã được lưu hành, trong
đó hai phâằn ba ở ngoài nước. Đếến tháng 4 nằm 2004, gâằn 700 tỷ đô la
đã được lưu hành [1], trong đó hai phâằn ba vâỹn còn ở nước ngoài
Đồng đô la Mỹ thông thường được chia ra thành 100 xu (cent, ký hiệu
¢). Trong một cách chia khác, có 1.000 min (mill) trong mỗi đô la; thêm
vào đó, 10 đô la còn được gọi là Eagle (đại bàng). Tuy nhiên, chỉ có đơn
vị xu mới được dùng rộng rãi; dân chúng Mỹ ít nghe đến "eagle" hay
"mill", tuy mill có khi được dùng trong việc thu thuế. Trong tiền được
lưu hành, các đơn vị ít hơn hoặc bằng 1 đô la được phát hành với dạng
tiền kim loại trong khi các đơn vị nhiều hơn hoặc bằng 1 đô la được phát
hành với dạng tiền giấy (đơn vị 1 đô la có thể theo dạng tiền giấy hay
tiền kim loại, nhưng tiền giấy được lưu hành hơn nhiều). Trước đây, tiền
giấy đôi khi được phát hành cho các đơn vị ít hơn 1 đô la, và tiền đúc
bằng vàng đã được phát hành cho các đơn vị tới 20 đô la.
USD gồm tiền kim loại và tiền giấy
1. Tiền kim loại được đúc bởi Sở đúc tiền Hoa Kỳ (United States Mint).
Tiền giấy được in bởi Cục Khắc và In (Bureau of Engraving and
Printing) cho Cục Dự trữ Liên bang từ năm 1914. Chúng được bắt đầu
in giấy bạc cỡ lớn, nhưng từ năm 1928 đã đổi thành cỡ nhỏ, Tiền giấy
trên 100 đô la không còn được in nữa sau 1946 và đã chính thức ngưng
lưu hành trong năm 1969. Những tờ tiền giấy này thường được dùng bởi
các ngân hàng để trao đổi với nhau hay bởi các thành phần tội phạm có
tổ chức .Sau khi việc trao đổi tiền điện tử được ra đời, chúng trở thành
dư thừa. Các đơn vị tiền lớn đã được phát hành gồm có $500, $1.000,
$5.000, $10.000 và $100.000.
Tiền kim loại 1 đô la chưa bao giờ là phổ biến tại Hoa Kỳ. Đồng bạc
được đúc giữa 1794 đến 1935 với một vài thời gian bị gián đoạn; tiền
đúc bằng đồng và niken cùng cỡ được đúc từ 1971 đến 1978. Đồng
Susan B. Anthony được ra mắt trong năm 1979; chúng không được ưa
chuộng vì dễ bị nhầm lẫn với đồng quarter (25¢) có cỡ gần bằng, có viền
răng cưa và màu sắc tương tự. Những đồng này bị ngừng đúc ngay sau
đó, nhưng vẫn là có thể dùng làm tiền hợp pháp. Trong năm 2000, một
đồng $1 mới có hình Sacagawea được ra mắt, chúng có viền phẳng và có
màu vàng kim loại. Dù vậy, chúng không được ưa chuộng bằng đồng
tiền giấy $1 và ít được dùng trong công việc hằng ngày. Sự thất bại của
tiền kim loại đã bị đổ lỗi vào sự thất bại trong việc đồng thời thu hồi tiền
giấy và cố gắng yếu kém trong việc phổ biến tiền kim loại. Hầu hết các
máy bán hàng tự động không thối tiền bằng giấy được, cho nên chúng
thường được thiết kế để thối bằng đồng đô la hay nửa đô la kim loại.
Trong quá khứ, Hoa Kỳ đã đúc tiền kim loại với giá trị: nửa xu, hai xu,
ba xu, hai mươi xu, $2,50, $3,00, $4,00, $5,00, $10,00 và $20,00. Chúng
vẫn là tiền tệ chính thức theo giá trị trên mặt, nhưng cao giá hơn đối với
những nhà sưu tầm tiền cổ.
Sở Đúc tiền Hoa Kỳ cũng sản xuất tiền thoi vàng và bạch kim, được gọi
là "American Eagles" (Đại bàng Mỹ), đều là tiền tệ chính thức tuy chúng
rất hiếm khi được dùng. Lý do là chúng không được sản xuất để trao đổi,
do đó giá trị mặt của chúng thấp hơn giá kim loại quý được dùng để tạo
chúng. Đồng thoi American Silver Eagle (Đại bàng bạc Mỹ) được lưu
hành với giá trị $1 (1 ounce troy). Đồng thoi American Gold Eagle (Đại
bàng vàng Mỹ) có giá trị $5 (1/10 ounce troy), $10 (1/4 ounce troy), $25
(1/2 ounce troy) và $50 (1 ounce troy). Đồng thoi American Platinum
Eagle (Đại bàng bạch kim Mỹ) có giá trị $10 (1/10 ounce troy), $25 (1/4
ounce troy), $50 (1/2 ounce troy) và $100 (1 ounce troy). Đồng bạc có
99,9% bạc, đồng vàng có 91,67% vàng (22 karat) và đồng bạch kim có
99,95% bạch kim. Các đồng tiền này không có bán lẻ cho cá nhân, mà
phải mua từ các cơ quan có phép.
Sở Đúc tiền còn sản xuất tiền kim loại dành cho các nhà sưu tầm, có
cùng giá mặt và thể tích vàng thoi, để bán lẻ. Hiện giờ đơn vị lớn nhất
được lưu hành là tờ $100 và đồng $100 ounce troy Platinum Eagle.
2. Tiền giấy
Tiền kim loại và giấy Hoa Kỳ đang lưu
hành
Đơn
vị ($)
Hình trong
mặt trước
Hình trong
mặt sau
Tiền kim loại
0,01
Abraham
Lincoln
Tượng đài
Lincoln
0,05
Thomas
Jefferson
Hành trình về
hướng tây
0,10
Franklin D.
Roosevelt
đuốc, nhánh
cây sồi, cành
ôliu
0,25
George
Washington
Biểu tượng các
tiểu bang
0,50
John F.
Kennedy
Dấu ấn của
Tổng thống
Hoa Kỳ
0,50
Benjamin
Franklin
Chuông Độc
lập
1
Sacagawea
Đại bàng trắng
đang bay
1
Dwight
Eisenhower
Đại bàng trắng
đáp trên Mặt
Trăng
1
Susan B.
Anthony
Đại bàng trắng
đáp trên Mặt
Trăng
Tiền giấy
1
George
Washington
Dấu ấn Hoa Kỳ
2
Thomas
Jefferson
Tuyên ngôn
độc lập
5
Abraham
Tượng đài
Lincoln
Lincoln
10
Alexander
Hamilton
Toà ngân khố
20
Andrew
Jackson
Nhà Trắng
50
Ulysses S.
Grant
Toà Quốc hội
100
Benjamin
Franklin
Toà Độc lập
Đơn vị lớn hơn (không dùng nữa)
Mặt phải của 1 đô la Mỹ (1999)
Mặt trái của 1 đô la Mỹ (1995)
Mặt trái của tờ 100 đô la (1996), có hình
Hội trường Tự do
Đồng 1 đô la Mỹ (1862)
Đồng 1 đô la Mỹ (1917)
$100 Benjamin Franklin
$50 Ulysses S. Grant
$20 Andrew Jackson
$10 Alexander Hamilton
$5 Abraham Lincoln
$2 Thomas Jefferson
$1 George Washington
3. Vấn đề chống làm giả
Tuy các biện pháp nhằm chống tiền giả như thêm màu và hình mờ đã
được đưa vào tiền giấy, các người chỉ trích cho rằng việc làm tiền giả
còn quá dễ dàng. Họ cho rằng việc in hình màu là việc dễ dàng đối với
các máy in hiện đại rẻ tiền. Họ đề nghị Cục dự trữ Liên bang nên đưa
vào các chức năng ảnh toàn ký (holography) như đã có trong các đơn vị
tiền lớn khác như Đô la Canada, franc Thụy Sĩ và đồng euro, khó giả
mạo hơn. Một kỹ thuật khác được phát triển tại Úc, được một vài nước
sử dụng (kể cả Việt Nam), chế tạo ra tiền giấy bằng polymer.
Tuy nhiên, có lẽ tiền Mỹ cũng không dễ giả mạo như các nhà chỉ trích đã
nói. Hai chức năng chống tiền giả quan trọng nhất trong tiền Mỹ là giấy
và mực. Các thành phần của giấy và các chế biến mực còn được giữ bí
mật. Sự kết hợp của giấy và mực tạo ra một lớp da đặc biệt, càng được
nổi rệt ra khi tiền được qua nhiều tay. Các đặc điểm này khó tái tạo được
nếu không có đủ thiết bị và vật dụng. Tuy nhiên, tiền giấy Mỹ vẫn còn
dễ giả mạo hơn hầu hết các tiền khác, và trong khi một ngân hàng có thể
phát hiện tiền giả, chúng ít được xem xét kỹ lưỡng khi được sử dụng.
Các nhà chỉ trích đồng thời còn cho rằng tiền giấy Mỹ rất khó phân biệt:
chúng có hoa văn rất giống nhau, và được in bằng cùng màu, và có cỡ
bằng nhau. Các tổ chức hỗ trợ người mù muốn chúng được in bằng cỡ
khác nhau tuỳ theo mệnh giá và có chữ Braille cho những người khiếm
thị có thể sử dụng chúng mà không cần phải đọc chữ. Tuy một số người
khiếm thị đã có thể dùng cảm giác để phân biệt tiền giấy, nhiều người
khác phải dùng máy đọc tiền; trong khi một số người khác gấp tiền khác
nhau theo mệnh giá để dễ phân biệt chúng. Giải pháp này vẫn cần sự
giúp đỡ của một người thấy rõ, cho nên không phải là một giải pháp
hoàn thiện.
Trong khi đó, các đơn vị tiền quan trọng khác như đồng euro có tiền với
cỡ khác nnhau: mệnh giá càng cao thì cỡ tiền càng lớn, và chúng còn
được in bằng nhiều màu khác nhau. Chẳng những chúng giúp người
khiếm thị, chúng còn giúp người thường không lẫn lộn một tờ giấy có
giá trị cao trong một xấp tiền có giá trị thấp, một vấn đề thường gặp ở
Mỹ. Các du khách cũng thường không phân biệt được tiền Mỹ vì họ
không rành lắm với những hoa văn trên mặt giấy.
Đã có dự án để đổi tiền giấy thành nhiều cỡ, nhưng những nhà sản xuất
máy bán hàng tự động và máy đổi tiền cho rằng làm vậy sẽ làm các máy
đó phức tạp hơn và tốn tiền hơn. Tại châu Âu họ cũng dùng lý luận này
trước khi có nhiều cỡ tiền, nhưng đã bị thất bại.
Ngoài việc in tiền nhiều màu và nhiều cỡ khác nhau, nhiều nước khác
cũng có các chức năng cảm giác trong tiền không tìm thấy được trong
tiền Mỹ để hổ trợ người khiếm thị. Tiền Canada có một số nút có thể
cảm nhận được trong góc trên phải để cho biết mệnh giá tiền.
Ngoài chức năng giúp người dùng phân biệt tiền, việc in tiền nhiều cỡ có
một chức năng chống một cách làm tiền giả mà tiền Mỹ đã bị nhiều lần:
các người làm tiền giả tẩy trắng mực từ một tờ tiền với mệnh giá thấp
(như là 1 đô la) và in lại với mệnh giá cao hơn (như là 100 đô la). Hiện
đang có đề nghị được đưa ra để làm tờ 1 đô la và 5 đô la một inch ngắn
hơn và nửa inch thấp hơn; tuy nhiên, giải pháp này không hoàn thiện vì
có 7 đơn vị tiền mà chỉ có 2 cỡ tiền giấy.
Đối với các đồng USD mang các series năm phát hành từ 1996 đến nay,
chữ cái đặc trưng và con số của NH nằm dưới dãy series số hiệu góc bên
trái mặt trước của tờ bạc.
Các loại USD phát hành trước năm 1990 không có ký hiệu bóng chìm,
nhưng từ năm 1990 đến nay có thêm ký hiệu bóng chìm là ảnh chân
dung tổng thống theo từng loại mệnh giá.
Mỗi đồng USD đều có thêm dây bảo hiểm dạng chữ và số trên bề mặt.
Dây bảo hiểm (DBH) được nhuộm màu phát quang, dưới ánh đèn cực
tím sẽ phát sáng các màu khác nhau: 100USD phát màu đỏ, 50USD màu
vàng, 20USD màu xanh lá cây...
Tất cả các loại USD đều có các sợi tơ màu đỏ và xanh nước biển quyện
trong giấy. Các sợi tơ màu bảo hiểm và tơ phát quang được đưa vào giấy
trong quá trình chế tạo giấy (trước đây được thực hiện theo phương pháp
rắc trên bề mặt giấy tiền khi còn ướt để các sợi tơ bám dính tự nhiên,
hiện nay phương pháp này chỉ được những kẻ in tiền giả thực hiện).
USD được in từ 3 loại mực: Mực từ tính, mực phát quang và mực phản
ứng dung môi (mực tự huỷ, là loại mực được trộn thêm một số hoá chất
tạo ra khả năng phản ứng khi tiếp xúc với các dung môi, sẽ tự huỷ các
hoạ tiết để bảo vệ tờ giấy bạc trước việc tẩy, sửa các hoạ tiết trên tờ giấy
bạc của bọn tội phạm).
Ngoài ra, tờ USD thật còn có các đặc điểm bảo hiểm khác như có dải
băng quang học, khi tờ bạc được quan sát dưới luồng sáng, trên bề mặt
sẽ xuất hiện một dải băng rực rỡ lấp lánh với các hình hoa văn, con số
mệnh giá và ký hiệu tiền tệ; các dòng chữ hay số siêu nhỏ in theo
phương pháp intaglio có khả năng chống giả rất cao; phoi quang học
chống giả hologram (là những tem nhiều lớp màu sắc và hình ảnh khác
nhau trên cùng một diện tích được chế tạo một cách tinh vi từ bột kim
loại và bột gốm, được gắn trên bề mặt tờ bạc để điểm định vị bằng
phương pháp ép nóng nhằm tăng khả năng bảo vệ tờ giấy bạc. Các họa
tiết này sẽ thay đổi nếu chuyển góc nhìn từ thẳng sang nghiêng và ngược
lại
Ngoài việc quan sát mực in, sợi tơ bảo hiểm, hình dập nổi... trên tờ bạc,
chúng ta có thể phân biệt tiền giả qua các đặc điểm sau: Tiền giả không
được in bằng phương pháp intaglio nên các hoạ tiết không được khắc
lõm, mà trơn nhẵn.
- Xem thêm -