Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của đảng giai đoạn 1945-1954...

Tài liệu Đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của đảng giai đoạn 1945-1954

.PDF
24
869
121

Mô tả:

GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU Phụ lục A. Đặt vấn đề 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Phương pháp nghiên cứu B. Nội dung I. Khắc phục nạn đói, khôi phục và bước đầu xây dựng nền kinh tế độc lập tực chủ 1. Bối cảnh lịch sử 2. Công cuộc đẩy lùi giặc đói, giặc dốt a. Diệt giặc đói  Thực trạng  Giải pháp  Thành tựu b. Diệt giặc dốt  Thực trạng  Giải pháp  Thành tựu 3. Giải quyết khó khăn vê tài chính và tiền tệ a. Về tài chính  Thực trạng  Giải pháp  Thành tựu b. Về tiền tệ  Thực trạng  Giải pháp  Thành tựu II. Đầy mạng sản xuất, xây dựng, phát triển kinh tế kháng chiến, từng bước giải quyết vấn đề ruộng đất 1. Đường lối kinh tế kháng chiến a. Kháng chiến toàn dân,toàn diện b. Vừa kháng chiến vừa kiến quốc c. Kháng chiến trường kì d. Tự lực cánh sinh e. Tự cấp tự túc f. Cần kiệm liêm chính,đồng cam cộng khổ ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 2. Những thành tựu kinh tế đạt được trong kháng chiến a. Nông nghiệp b. Thủy lợi c. Ruộng đất d. Công nghiệp e. Công nghiệp dụng f. Giao thông vận tải g. Thương nghiệp h. Tài chính tiền tệ Tài liệu tham khảo -Giáo trình Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam -Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam -Tạp chí cộng sản 9/2006 -Tủ sách thư viện khoa học và một số trang thông tin khác ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài -Sau cách mạng tháng Tám chính quyền CM non trẻ của nhân dân ta đang đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách. +CM non trẻ mới được thành lập chưa kịp củng cố, chưa ai công nhận vàđặt quan hệ ngoại giao, CM vẫn ở vào thế bị cô lập, lực lượng vũ trang nhân dân ta còn non trẻ nhất là về trang bị và kinh nghiệm chiến đấu. +Hậu quả của chính sách áp bức bóc lột của Pháp Nhật, chiến tranh tàn phá nặng nề làm cho kinh tế nước ta bịđình đốn. +Ngân quĩ quốc gia cạn kiệt, kho bạc nhà nước chỉ có khoảng hơn 1,2triệu đồng ĐD trong đó có 1 nửa rách nát không lưu hành được trong khi ngân hàng ĐD vẫn nằm trong tay người Pháp vàđộc quyền phát hành giấy bạc, thêm vào đó quân Tưởng lại tung ra thị trường các loại tiền quan kim quốctệđã mất giá càng làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn. +Hậu quả của chính sách ngu dân của chếđộ thực dân-phong kiến làm cho hơn 90% dân số nước ta bị mù chữ, các tệ nạn XH cũ như: trộm cướp, mại dâm, cờ bạc đang ngày đêm hoành hành. -Nhu cầu cấp thiết đặt ra cho Đảng là phải cải tổ,xây dựng và phát triển nền kinh tếđể khắc phục những khó khắn trước mắt và xây dựng 1 chiến lược phát triển dài hạn. =>Vậy Đảng ta đã thực hiện đường lối cải cách nền kinh tế như thế nào đểđưa nước ta trở lại quỹđạo phát triển sau khi giành được độc lập? Chính bởi những lí do trên đã thôi thúc tôi chon đề tài “Đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng giai đoạn 1945-1954” 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu a. Mục đích Thông qua quá trình xác định chính sách xây dựng,kiến thiết đất nước theo đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính sách đối ngoại phù ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU hợp với chính sách đối nội và bối cảnh nước nhà lúc bấy giờđể đưa đất nước thoát khỏi những khó khăn trước mắt ,đề ra đường lối xây dựng phát triển lâu dài b. Nhiệm vụ -Trình bày những cơ sở dẫn đến sự xác định chính sách đổi mới và giải quyết khó khăn -Trình bày các giai đoạn phát triển của đường lối phát triển kinh tế trong kháng chiến -Thông qua việc phân tích thực trạng nước nhà,giải pháp đề ra và những thành tựu đạt đươc,nhưng yếu kém còn tồn tại để khẳng định chủ trương ,đưởng lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” là quyết sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng, từđó bước đầu nêu lên những kinh nghiệm thực hiện chính sách và sự trưởng thành của Đảng. 3. Phương pháp nghiên cứu Theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và kết hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi bật những thắng lợi trong đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng giai đoạn 1945-1954 ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU B. NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẢNG 1945-1954 I. Khắc phục nạn đói,khôi phục và bước đầu xây dựng nền kinh tế độc lập tực chủ 1. Bối cảnh lịch sử -Những khó khăn và hiểm họa kể trên tưởng như khó có thể vượt qua. Song, chính quyền cách mạng tuy còn non trẻ về nhiều mặt nhưng lại có sức mạnh phi thường, bởi vì, đó là chính quyền của dân. Mọi người dân đều coi chính quyền cách mạng là chính quyền của mình và dốc lòng giúp đỡ. Như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Đây thực sự là chính quyền do dân bầu ra, dựa vào sức dân làm sức mạnh của mình để mưu cầu hạnh phúc cho dân. -Ngày 11/6/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh đãđọc lời Kêu gọi thi đua ái quốc trước quốc dân, đồng bào.  Người đã chỉ rõ“Mục đích của thi đua ái quốc là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “cách làm là dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”. “Vì vậy, bổn phận mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh…”, “bất kỳ già, trẻ, trai, gái, bất kỳ giàu nghèo, lớn, nhỏđều cần phải trở nên chiến sĩđấu tranh trên một mặt trận Quân sự, kinh tế, chính trị , văn hoá…”, “ Chúng ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc…”, “Thực hiện dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.  Thực hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các phong trào thi đua ái quốc đã phát triển rộng khắp các vùng miền và thu hút tầng tầng, lớp lớp nhân dân tham gia. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược các phong trào thi đua lớn như: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “Bình dân học vụ”, “Hũ gạo kháng chiến”…đã cuốn hút, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước hăng say lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm chống giặc đói; Thi đua học tập xoá nạn mù chữ, chống giắc dốt và dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu diệt giặc ngoại xâm làm nên chiến thắng lịch sửĐiện Biên Phủ lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu. -Dân tộc Việt Nam sau 80 năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đại đa số người dân bị mù chữ. Thiếu văn hóa, thiếu kiến thức, bao nhiêu tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu còn phổ biến. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU  Nhưng dưới ánh sáng của cách mạng, hình như có một phép màu giúp cho mọi người đều muốn thoát ra khỏi thân phận cũ, muốn thay đổi kiếp sống cũđể hưởng một kiếp sống mới tươi sáng hơn, xứng đáng là con dân của một quốc gia độc lập.  Chính với tinh thần đó, cùng với sự dìu dắt, hướng dẫn của Chính phủ, cả dân tộc nhanh chóng đổi thay về mọi mặt. Dưới đây, có thể kểđến những thành tích to lớn mà chính quyền cách mạng và toàn dân Việt Nam đãđạt được trong một thời gian ngắn, chỉ 16 tháng kể từ tháng 8-1945 cho tới ngày toàn quốc kháng chiến vào tháng 12-1946. => Sức mạnh của sựđoàn kết dân tộc được thể hiện rõ nét qua việc các thành viên trong bộ máy chính phủ mới kết hợp với hoàng đế Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương,các quan chức cấp cao trong triều đinh Huế để kiến thiết đất nước. Đó chính làđiều kiện làm nên những kỳ tích sau này. 2. Đẩy lùi giặc đói,giặc dốt Giặc đói cùng với giặc dốt là bạn đồng minh của giặc ngoại xâm. Ngay ngày mùng 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiệm vụ trước mắt của Chính phủ: Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành. a. Diệt giặc đói  Thực trạng -Giặc đói hoành hành, nạn đói cũ chưa được giải quyết, thì một nạn đói mới sắp diễn ra. -Nhật bắt chính quyền Pháp phải cưỡng bức thu mua lúa gạo của nhân dân Việt Nam theo giá rẻ, đồng thời ép buộc Ngân hàng Đông Dương phát hành thêm tiền để mua gạo. Đây chính là thời kỳ của nạn mua thóc tạ, một sự cướp bóc trắng trợn đối với người nông dân khó nhọc trồng nên cây lúa ở Việt Nam nói riêng vàđối với dân tộc Việt Nam nói chung.  Thóc lúa đã không đủ cung ứng nhu cầu chung, phát xít Nhật còn bắt người dân Việt Nam nhổ lúa, nhổ khoai, nhổ sắn để trồng cây đay_ thứ nguyên liệu dùng làm bao tải đựng cát, phục vụ cho việc xây dựng các công sự của quân đội Nhật. Hai chính sách tàn bạo đóđã khiến cho cả vùng Đông Dương, nơi từng đứng thứ nhì thế giới về xuất khẩu lúa gạo (những năm 1936-1937, Đông Dương xuất khẩu 1,6 - 1,7 triệu tấn, chỉđứng sau Miến Điện), khi đó trở thành một dân tộc thiếu đói trên quy mô gần như toàn thể. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU  Cho đến đầu năm 1945, nguồn lúa gạo ởĐông Dương hầu nhưđã cạn kiệt. Chính những người trồng lúa lại là người bịđói trước tiên. Nông dân đói từ Thanh Hoá, Nam Định, Thái Bình, Hà Nam... lũ lượt kéo ra các thành phốđi ăn xin, kéo lên miền núi đào củ chuối, củ mài cầm hơi. Trên đường đi, họ chết dần, chết mòn. Số còn lại sống lay lắt thêm ít ngày rồi cũng chết, vì không còn cái gì có thểăn được. -Tháng 8-1945, Việt Nam đã có tới 2 triệu người chết đói. Đó là con số chưa từng có trong lịch sử kinh tế Việt Nam. -Dịch tả diễn ra ở nhiều nơi, giết chết hàng vạn người. Nạn đói, rét đã sản sinh ra không biết bao thứ bệnh tật mà trước đó chưa được gọi tên.Trên mọi nẻo đường Việt Nam, nhất làở nông thôn, các thị trấn nhỏ, người Việt Nam trông thật tiều tụy, rách rưới, bẩn thỉu, đầy rẫy bệnh tật. Đó cũng là kết quả của sự“khai sáng” trong 80 năm Pháp thuộc và 5 năm “cách mạng da vàng” Nhật Bản.  Giải pháp - Chính phủđề ra hai biện pháp cứu đói khẩn cấp: Nhường cơm sẻáo là giải pháp trước mắt và tăng gia sản xuất là giải pháp lâu dài. +Toàn dân thể hiện tinh thần đoàn kết, đùm bọc nhau vượt qua cơn hoạn nạn. Phong trào nhường cơm sẻáo được phát động trong cả nước. +Những thân hào, thân sĩ, những công thương gia... ai có tiền thì góp tiền, ai có thóc thì góp thóc cho quỹ cứu đói. +Cán bộ, chiến sĩđứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh gương mẫu thực hiện 10 ngày nhịn ăn một bữa để dành gạo cứu đói.  Trong tuần lễ phát động chiến dịch cứu đói, vịđại biểu Quốc hội cao tuổi nhất là cụ Ngô Tử Hạđãđích thân kéo chiếc xe bò, xuất phát từ Nhà hát Lớn đểđi quyên gạo, quyên tiền cho công cuộc cứu đói.  Nhà nước cũng tổ chức những địa điểm phát chẩn để cung cấp cơm, cháo hay bất cứ thức gìăn được cho những người đang quá đói.  Nhờđó, hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn chiếc dạ dày lép kẹp chờ chết, những thân thể chỉ có da bọc xương đãđược cứu sống. Từ cuối tháng 9-1945, cảnh chết đói gần nhưđã chấm dứt. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU -Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào số lúa gạo có sẵn để cứu đói thì chỉ có tính cầm cự nhất thời. Biện pháp lâu dài là phải sản xuất. Ngay từ sau ngày tuyên ngôn độc lập, khắp nơi đều phát động chiến dịch tăng gia sản xuất. +Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra một khẩu hiệu thật đơn giản nhưng vô cùng thống thiết: Tăng gia sản xuất Tăng gia sản xuất ngay Tăng gia sản xuất nữa! +Để thực hiện chủ trương tăng gia sản xuất, khắp nơi đề ra khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”, tức là tận dụng mọi nơi mọi chỗ có thể trồng trọt được.  Ở các trường học, học sinh được phép cuốc sân trường lên để trồng khoai, trồng ngô.  Trên các vỉa hè thành phố, thanh niên, chiến sĩđào đất lên để trồng khoai, trồng sắn. Trên các bờđê sông Hồng, thanh niên nam nữ thay phiên nhau ra cuốc đất trồng ngô, khoai, sắn.  Ở nông thôn, Nhà nước yêu cầu tất cả ruộng đất đều phải được canh tác. Ruộng nào không canh tác hết thì chính quyền địa phương có quyền tạm trưng dụng để cho những người nông dân tổ chức sản xuất, tạo ra thu hoạch. +Một phong trào sản xuất trong cả nước được phát động rầm rộ bằng mọi hình thức, nhiều sáng kiến mới đã xuất hiện.  Thí dụ: sau khi nước lụt đã rút hết, đã qua mùa cấy lúa, chỉ có thể trồng khoai nhưng khoai thì phải có dây làm giống.  Trong tình hình khoai giống khan hiếm vì nhu cầu quá lớn, Kỹ sư Hoàng Văn Đức đã tìm ra một giải pháp: lấy dây khoai trồng tạm trong vòng ba tuần, khoai chưa ra củ nhưng đã ra rễ thìđào lên cắt từng đoạn giống, nhân lên gấp 5, gấp 10 lần để phát triển diện tích trồng khoai. Vụ thu hoạch có thể chậm hơn 2-3 tuần, nhưng diện tích và sản lượng thì tăng hơn 5-10 lần. Chính nhờ sáng kiến đó, đến khoảng tháng 10, tháng 11-1945, trên cả nước đã có những vụ thu hoạch lúa, ngô, khoai sắn đầu tiên. Nhân dân cả nước có thể nhoẻn miệng cười thoát cơn bĩ cực. Cảnh chết đói đầy đường chắc chắn sẽ không còn xảy ra dưới chính quyền cách mạng. -Đểđảm bảo sản xuất vững chắc, vấn đề quan trọng muôn thuở của nông nghiệp Việt Nam làđêđiều. Tháng 8-1945, đê vỡ hàng loạt chính là vì những chính quyền cũ bỏ bê việc củng cố hệ thống đê, khiến cho đêđiều sạt lở liên tiếp trong 4-5 năm mà không được gia cố. Nay, chính quyền cách mạng tổ chức đắp lại, củng cố tất cả những đoạn đê bị vỡ, sạt lở. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU Cho đến tháng 10-1945, hầu hết các đoạn đê vỡđãđược tu bổ, những đoạn đê xung yếu đãđược bồi đắp.  Thành tựu -Nhờ tất cả những cố gắng đó, đến năm 1946, nạn đói đã bịđẩy lùi. -Sản lượng lương thực năm 1946 đạt 1.155.000 tấn, gấp đôi năm 1945. Vì vậy, trong diễn văn kỷ niệm một năm Quốc khánh 2-9-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Cách mạng đã chiến thắng nạn đói. Thực là một kỳ công của chếđộ dân chủ” b. Diệt giặc dốt  Thực trạng -Sau 80 năm chịu sự “khai hoá văn minh” của người Pháp, hơn 90% dân số Việt Nam vẫn không biết đọc, biết viết. Sự dốt nát dẫn tới những tệ nạn mê tín, dị đoan, những hủ tục vừa tốn kém, vừa vô ích cho đời sống. -Nhiệm vụ chống nạn mù chữ được xếp thứ hai sau nhiệm vụ chống giặc đói  Giải pháp -Ngày 8.9.1945, Chính phủ ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ (BDHV) quyết định thành lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối. Việc học chữ quốc ngữ bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.  Lời kêu gọi của Bác về nhiệm vụ chống giặc dốt đã nhanh chóng thấm sâu vào tâm trí của mọi người dân, làm thức dậy lòng tự tôn dân tộc và thấy rõ trách nhiệm của mình là chỉ trong vòng một năm, ai ai cũng phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.  Những nhà có nhà ở rộng rãi mở lớp học tư gia cho bà con xóm giềng, nhiều hoà thượng, linh mục cho mượn chùa, nhà thờ để làm lớp. Dùng cánh cửa, chiếu trải xuống đất cho học viên ngồi...  Lớp học khắp nơi, học trưa, học chiều, học tối. Lớp đông giáo viên, lớp một thầy một trò. Chữ viết sẵn trên bảng, treo trên khóm tre, bụi chuối, bờ ao để bà con học tập.  Để tăng cường và đẩy mạnh việc học, việc hỏi chữ được thiết lập. Những người nào đọc được các chữ viết trên các bảng đen dựng bên các bến đò, cổng làng, cổng chợ... thì được đi qua cổng trang trí đẹp gọi là “Cổng vinh quang” để đi vào chợ, sang sông, về làng...  Thành tựu ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU -Chỉ sau một năm hoạt động Bình dân học vụ (08/09/1945 đến 08/09/1946) đã có 2.520.678 người thoát nạn mù chữ (dân số lúc đó là 22 triệu người). Thật là một kỳ tích của nền giáo dục non trẻ! -Toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngày 19.12.1946. Tại chiến khu Việt Bắc, Bác nói: “Diệt giặc dốt như diệt giặc Pháp, dốt nát cũng là tên địch. Địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm”(Báo Công Dân-LKIII-1948), và thế là phong trào BDHV tiếp nối kinh nghiệm quý báu trong năm đầu hoạt động. Các lớp học đi theo đồng bào tản cư kháng chiến, đi theo các đoàn dân công tiếp vận. 3. Giải quyết khó khăn về mặt tài chính và tiền tệ a. Về tài chính  Thực trạng -Khi cách mạng thành công, kho bạc hoàn toàn trống rỗng. Thực tế đóđược Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến nhận định một cách chua chát: Chính phủ cách mạng lúc đó là một chính phủ “không tiền”.  Có một địa chỉ giữ tiền vàđang in tiền là Ngân hàng Đông Dương nhưng do quân đội Nhật đóng giữ và chờ trao lại cho quân Đồng minh.  Trong khi đó, tình trạng lạm phát một cách nghiêm trọng trong suốt 5 năm trước đó của Ngân hàng Đông Dương khiến cho bản thân đồng tiền Đông Dương cũng mất giá nghiêm trọng. Số tiền do ngân hàng này phát hành năm 1939 là 216 triệu đồng, đến tháng 10-1945, tới 2.483 triệu. Đồng tiền trong tay người dân Việt Nam “teo lại” nhanh chóng. Giá gạo từ chỗ 4-5 đồng/tạ, đến giữa năm 1945 đã lên tới 700-800 đồng/tạ.  Giải pháp -Chỉ hai ngày sau tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng uy tín của mình đãđưa ra sáng kiến thành lập “Quỹđộc lập”. Tất cả mọi người, già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, người Việt hay người ngoại quốc đều có thểđóng góp giúp Chính phủ có phương tiện tài chính để duy trì nền độc lập Việt Nam. -Sau đó ít lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại phát động “Tuần lễ vàng”để phát động bà con trong và ngoài nước, ai có vàng bạc châu báu muốn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệđộc lập quốc gia đều có thểđóng góp vào quỹ này. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU  Thành tựu -Quỹđộc lập và Tuần lễ vàng đã giúp cho Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Chính phủ không tiền trở thành Chính phủ có tiền. Dù không nhiều, nhưng tiền đóng góp của toàn dân ít nhất đã giúp Chính phủ có thể lo ở mức tối thiểu những việc quốc gia đại sự, như cứu đói, đắp đê, chữa bệnh, giáo dục, quốc phòng, ngoại giao... => Tinh thần đoàn kết,tương thân tương ái, nghĩa cử cao đẹp “lá lành đùm lá rách” của nhân dân và chính quyền cách mạng đã góp phần to lớn cho thắng lợi quan trọng này của Đảng. b. Về tiền tệ  Thực trạng -Sau Cách mạng Tháng Tám, tình hình tiền tệở Việt Nam rất phức tạp. Ngoài những đồng tiền Quan kim và Quốc tệ do quân đội Trung Hoa dân quốc mang vào thìđồng bạc lưu hành chính thức ở Việt Nam vẫn là giấy bạc do Ngân hàng Đông Dương phát hành. Khi phát xít Nhật đảo chính lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp, giấy bạc Đông Dương vẫn được Nhật cho lưu hành. Quân đội Nhật kiểm soát hoạt động của ngân hàng này. Đây là vấn đề rất khó khăn và phức tạp.  Giải pháp -Chính phủ cách mạng đã tuyên bốđứng về phe Đồng minh vàđang ra sức tranh thủ sự thừa nhận của những cường quốc trong Đồng minh. -Để tranh thủđộc lập về chính trị, Chính phủ Việt Nam phải tuyên bố thừa nhận những quyền lợi về kinh tế của tư bản Pháp trên đất nước Việt Nam. Nếu Chính phủ phát hành đồng tiền mới, sẽảnh hưởng đến vấn đề chính trị nhạy cảm này. Tuy chưa thể phát hành đồng tiền mới, Việt Nam vẫn tích cực chuẩn bị cho động thái này.  Nhà tư sản đỏĐỗĐình Thiện đã hiến cho Chính phủ toàn bộ Nhà máy in Taupin của ông để phục vụ cho nhu cầu này.  Từ ngày 31-1-1946, những tờ giấy bạc Cụ Hồđầu tiên đã xuất xưởng. Việc phát hành được tính toán rất chu đáo. Đầu tiên, tờ giấy bạc này được phát hành ở Nam Trung Bộ, là nơi không có quân đội Anh và cũng không có quân đội Trung Hoa dân quốc. Nhân dân đón mừng nồng nhiệt và sẵn sàng đổi giấy bạc Đông Dương lấy giấy bạc Cụ Hồ với tỷ giá 1,2 đồng Đông Dương bằng 1 đồng ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU bạc Cụ Hồ. Nhờđó, từ Nam Trung Bộ, chính quyền địa phương đã rút ra một số lượng khá lớn giấy bạc Đông Dương để cung cấp cho Nam Bộ và Bắc Bộ, đồng thời tờ giấy bạc Cụ Hồđã vững chân trên một phần đất nước Việt Nam. Nhân dân nhìn thấy hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, thấy dòng chữ Việt Nam dân chủ cộng hòa thìđón nhận không chỉ như một đồng tiền, mà như một “chứng chỉ” của một nước Việt Nam độc lập. -Từ giữa năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc rút khỏi miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh cũng ra đi, trên đất nước Việt Nam chỉ còn hai đồng tiền song song tồn tại, đó là tiền Đông Dương và giấy bạc Cụ Hồ. Đến lúc này thì Pháp đã trở mặt trên nhiều lĩnh vực. Hy vọng vớt vát hòa bình ngày càng xa vời. =>Chính phủ ta đã lựa chọn một chủ trương mềm dẻo, để vừa đạt được mục đích, vừa không tạo ra thêm những bất lợi về mặt chính trị.  Thành tựu -Buộc chính phủ Pháp phải trả lương cho nhân viên -Thừa nhận giá trị hiệu lực của tờ 500 đồng -Các loại tiền mà Pháp tự do phát hành muốn lưu thông được ở Việt Nam thì phải có đóng dấu của chính quyền cách mạng của ta. -Từ tháng 8-1946, Chính phủ cho phép phát hành tiền ra cả Bắc Trung Bộ. Sau đó, giấy bạc Cụ Hồđã tràn cả ra miền Bắc, vàđến tháng 11-1946, Nhà nước chính thức cho phát hành giấy bạc Cụ Hồ trên phạm vi cả nước.Như vậy, khi bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, Việt Nam đã có đồng tiền riêng của mình, một đồng tiền độc lập của một quốc gia độc lập. II. Đầy mạng sản xuất, xây dựng, phát triển kinh tế kháng chiến, từng bước giải quyết vấn đề ruộng đất -Những nỗ lực cứu vãn hòa bình của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngăn chặn được cuộc chiến tranh từ phía thực dân Pháp. -Ngày 18-12-1946, người Pháp gửi tối hậu thư: nếu không chấp nhận những yêu cầu của họ thì họ phải tự nắm lấy quyền giữ trật tự, có nghĩa là loại toàn bộ Chính phủ Hồ Chí Minh khỏi vũđài chính trị. Đến nước đó, không còn cách nào khác là dùng súng đạn nói chuyện với súng đạn. Cuộc kháng chiến trường kỳ bắt đầu trên toàn lãnh thổ Việt Nam. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU 1. Đường lối kinh tế kháng chiến a. Kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện - Là một chủ trương bao trùm tất cả mọi hoạt động kháng chiến, mọi tầng lớp nhân dân. Cả dân tộc Việt Nam vùng dậy kháng chiến trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và ngoại giao. b. Vừa kháng chiến vừa kiến quốc -Là một chủ trương lớn của Đảng, được xác định ngay trong bản Chỉ thị ngày 25-11-1945 của Ban Thường vụ Trung ương, trở thành khẩu hiệu công khai lần đầu tiên tại phiên họp Quốc hội vào tháng 11-1946. Đó là khi cuộc kháng chiến sắp tới gần. Tên cuộc họp Quốc hội đóđược đặt là Quốc hội kháng chiến và kiến quốc.  Kiến quốc là xây dựng một cuộc sống toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế. Chính vì vậy, bộđội, cơ quan đi đến đâu, ngoài việc dựa vào dân về chỗở, chỗăn, đều phải tự túc một phần. Trong công nghiệp, Nhà nước tập trung cho mấy lĩnh vực quan trọng, như công nghiệp quốc phòng, sản xuất vũ khí vàđạn dược cho chiến tranh.  Ngoài ra, những ngành sản xuất khác để cho nhân dân tự lo, như vải mặc, đường, mực, phấn viết, ngòi bút, thuốc lá, các đồ dùng gia đình. Nông dân được Nhà nước khuyến khích tăng gia để nuôi mình, góp phần nuôi bộđội. Chợ búa được khuyến khích phát triển, các luồng giao lưu hàng hoá hầu hết do thương nhân đảm nhiệm và Nhà nước giúp đỡđể có thể lưu thông hàng hoá từ nơi thừa đến nơi thiếu. c. Kháng chiến trường kì Vì lực lượng hai bên không cân sức, cho nên không thể tiến hành chiến tranh chớp nhoáng mà phải kéo dài, phải kháng chiến trường kỳ. Thời gian sẽủng hộ lực lượng kháng chiến và gây bất lợi cho đối phương. =>Chính nhờ tư tưởng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, cho nên cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam không bị hụt hẫng, suy yếu trong quá trình chiến tranh. Ngược lại, hậu phương của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, khả năng cung ứng cho quân đội, cơ quan và cán bộ càng ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Đó chính là một trong những điều kiện quan trọng để duy trì cuộc kháng chiến trường kỳ, khiến cho quân đội Pháp ngày ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU càng gặp nhiều khó khăn, bị tiêu hao sức lực, trong khi lực lượng cách mạng ngày càng trưởng thành lớn mạnh. d. Đại đoàn kết dân tộc -Là một tư tưởng lớn về chính trị. Mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, bất kể thành phần tôn giáo, tín ngưỡng, đều một lòng đoàn kết dân tộc, hướng tới độc lập, tự do và hạnh phúc cho toàn dân. Mọi thành phần xã hội đều là thành viên của sự nghiệp kháng chiến chống Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dùng chữ: “Sĩ, nông, công, thương, binh”để nói về các thành phần của cuộc kháng chiến.  Trong nhiều lần trả lời báo chí nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói thẳng: Lúc này chúng tôi chưa đặt vấn đềđấu tranh giai cấp, mục tiêu số một lúc này làđấu tranh chống thực dân xâm lược. Chính vì vậy, trong một thời gian dài, tất cả các thành phần xã hội Việt Nam đều toàn tâm, toàn lực đóng góp cho kháng chiến. Người có khả năng nhiều đóng góp nhiều, người có khả năng ít đóng góp ít.  Về quan điểm giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lần đã nói về quan hệ chủ thợ như sau: “Chủ và thợ hợp tác chặt chẽ, thì hai bên đều có lợi…, mà còn lợi chung cho nền kinh tế của Tổ quốc, lợi chung cho toàn thểđồng bào”. e.Tự lực cánh sinh -Là một phương châm chiến lược của cuộc kháng chiến. + Như trên đã nói, cho tới năm 1950, Việt Nam ở trong cảnh bị bao vây cô lập, không biết trông cậy vào bất cứ ai để tiến hành cuộc kháng chiến. Cách duy nhất có thể là dựa vào sức mình. Sức mình chính là sức của bộđội, cán bộ và chủ yếu là sức dân. Dân nuôi bộđội, dân cho ăn, dân cho ở, dân cho quần áo... Chính phủ cần chi tiêu thì in tiền như một biện pháp để giải quyết ngân sách. +Nhờ vào lòng yêu nước của toàn dân, đồng tiền Việt Nam lúc đó (thường gọi là tiền tài chính) hoàn toàn không dựa vào thứ bản vị nào. Nói chính xác hơn, bản vị duy nhất khi đó là lòng dân, thế màđồng tiền phát huy giá trị rất hiệu quả, phục vụđắc lực cho cuộc kháng chiến. e. Tự cấp tự túc ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU -Tức là từng vùng, từng đơn vị phải tự lo các nhu yếu phẩm cho mình. Cơ quan phải tăng gia sản xuất để có lương thực, thực phẩm. Bộđội phải tự cấp tự túc một phần đểđỡ gánh nặng cho dân. Phải tự cấp tự túc vì trong kháng chiến, các vùng bị chia cắt, giao thông cách trở, vận chuyển khó khăn, khó có thể san bằng nơi thừa nơi thiếu.  Vì thế, ở các vùng như Liên khu V, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, Bình Trị Thiên, Việt Bắc, người dân và cán bộđều phải tự lo cho mình nào vải, nào gạo, nào thực phẩm, nào quần áo... Chỉ trừ một số nhu yếu phẩm mà mỗi vùng không tự giải quyết được thì Chính phủ phải tổ chức, chẳng hạn vấn đề muối.  Việt Bắc là vùng bị bao vây tứ phía, người Pháp biết là Việt Bắc không có muối nên đặt một hệ thống giám sát rất kỹ các cửa khẩu. Tiên liệu được điều đó, từ trước khi kháng chiến bùng nổ, Nhà nước đãđưa được một khối lượng muối rất lớn lên Việt Bắc và lập những kho dự trữ muối ởđây, đồng thời mở nhiều tuyến đường từ biển đểđưa muối lên Việt Bắc. Ngoài những nhu yếu phẩm như muối, có những hàng hóa khác không sản xuất được tại địa phương. Việc này phải nhờ tới các thương nhân len lỏi vào vùng tạm chiếm để mua về, đó là các loại thuốc chữa bệnh, hoá chất cần thiết cho việc in tiền và chế tạo vũ khí. Hiện thực này cho thấy, tư tưởng tự cấp tự túc trong thời chiến hoàn toàn khác với hình thức kinh tế tự nhiên. Kinh tế tự cấp tự túc là do tình thếđặt ra chứ không phải là một chủ trương đối lập với kinh tế thị trường. Ngược lại, trong vùng kháng chiến, chợ búa vẫn họp, giao lưu, đường bộ, đường thuỷ rất phát triển. f. Cần kiệm liêm chính, đồng cam cộng khổ -Là một khẩu hiệu lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, nguyên tắc quan trọng là phải cần cù, chăm chỉ trong công việc và trong nếp sống. Bộđội phải lo chiến đấu, cán bộ phải lo làm tròn trách nhiệm, ngoài ra phải ra sức tăng gia sản xuất.  Trong hoàn cảnh thiếu thốn thì tiết kiệm là một nguyên tắc. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng mặc áo vá, viết giấy tận dụng cả hai mặt... Tác phong đóđã thấm sâu tới mọi thành viên của Hội đồng Chính phủ và từđó, tới chiến sĩ, tới cán bộ, tới toàn dân. Kẻ nào hoang phí trong hoàn cảnh đó bị cả xã hội lên án. Trường hợp Trần Dụ Châu là một thí dụ tiêu biểu.  Liêm, chính là không tham ô, không lấy của công. Đối với dân, không được lạm dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dặn chiến sĩ và cán bộ là không được động đến cái kim, sợi chỉ của dân. Hầu hết, bộđội và cán bộ thời kỳ này đều thực hiện tốt nguyên tắc đó. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU +Để thực hiện “cần kiệm liêm chính” trong điều kiện kinh tế khó khăn, trên dưới phải bình đẳng không những về trách nhiệm, về công việc, mà phải bình đẳng cả về mức sống, tức làđồng cam cộng khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường cùng ăn với cán bộ chiến sĩ, mức ăn hoàn toàn như nhau; trong hàng ngũ cán bộ chiến sĩ, quần áo đều giống nhau. =>Đồng cam cộng khổ không chỉ là một giải pháp của sự thiếu thốn, mà còn là một yếu tố tinh thần vô cùng quan trọng, làm cho mọi người nhận thấy rằng, trong công cuộc kháng chiến, mọi người đều dốc lòng cho sự nghiệp chung, không ai mưu cầu sự giàu sang cho riêng mình.Đó là một trong những vẻđẹp của thời kỳ kháng chiến chống Pháp. 2. Những thành tựu kinh tế trong kháng chiến a. Nông nghiệp -Với chính sách toàn dân tăng gia sản xuất, lại được sự giúp đỡ tận tình của Chính phủ, các cơ quan, các đơn vị bộđội, cho nên nông nghiệp trong suốt thời kỳ kháng chiến được đảm bảo ổn định, phát triển vàđủ cung cấp cho kháng chiến. -Trong kháng chiến, tất cả các cơ quan, đơn vịđều tham gia sản xuất nông nghiệp. Đi đến đâu cũng phải khai phá thêm đất đai để trồng khoai, trồng sắn, trồng rau... +Từ Chủ tịch Hồ Chí Minh đến các vị bộ trưởng, ngày nào cũng phải dành thời gian để tăng gia sản xuất, nhằm tự túc một phần lương thực và thực phẩm, để giảm nhẹ sựđóng góp của nhân dân. +Liên khu V có thành tích nổi bật về việc sản xuất tự túc của các cơ quan. Một số tỉnh ở Liên khu V có thể tự túc vềăn từ 4 đến 8 tháng. +Những bà con tản cư từ thành thị về nông thôn, ngoài các nghề buôn bán, dịch vụ cũng khai pháđất đai để trồng trọt, chăn nuôi. =>Vì thế, trong suốt thời kỳ kháng chiến, không xảy ra nạn đói. Ởđâu có đất làởđó có cái ăn. b. Về thủy lợi -Tính từ năm 1946 đến năm 1954, diện tích được tưới bằng tiểu thủy nông trong vùng kháng chiến tăng gần 20 lần: Từ 22.500ha lên 405.300ha. -Nhờ những cố gắng kể trên, cho nên sản lượng lúa trong thời kỳ kháng chiến không những không giảm mà có xu hướng tăng lên. c. Ruộng đất ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU Là một trong những vấn đề lớn của sản xuất nông nghiệp. Sau Cách mạng Tháng Tám đến hết năm 1952, Đảng và Chính phủ chưa chủ trương làm cách mạng ruộng đất, nhưng có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề ruộng đất một cách hợp tình hợp lý. -Ngày 13-11-1945, Nhà nước đã ra thông tư về việc giảm 25% mức địa tôđối với táđiền, người cấy rẽ, cấy thuê. -Đến ngày 28-11-1946, Chính phủ lại ra thông tư nhắc lại việc giảm 25% địa tô cho những người lĩnh canh. -Đến ngày 14-7-1949, Nhà nước ban hành Sắc lệnh 78/SL về việc giảm địa tô 25%.  Tính đến tháng 4-1952, các tỉnh thuộc Liên khu Việt Bắc, bảy tỉnh thuộc Liên khu III và bốn tỉnh thuộc Liên khu IV đã có 147.000 mẫu ruộng được giảm tôđúng mức 25%.  Ở Liên khu V, diện tích giảm tô 25% đã lên tới 250.000 mẫu. Sốđịa chủ thực hiện giảm tô là 146.000 người, số táđiền được hưởng chính sách giảm tô là 291.000 người, số lúa giảm tô là 4.262 tấn7... -Cùng với việc thực hiện giảm tô, tháng 5-1950, Nhà nước ban hành Quy chế lĩnh canh, nhằm đảm bảo quyền lợi ổn định cho những người lĩnh canh.  Ngày 1-7-1949, Nhà nước ban hành Quy chế 75/SL về việc tạm cấp ruộng đất của Việt gian và thực dân Pháp cho nông dân, bộđội, du kích và những người táđiền đã từng lĩnh canh trên mảnh đất đó. Mức tạm cấp tối đa ở Bắc Bộ và Trung Bộ là 0,5 ha/người, ở Nam Bộ là 1ha/người…  Đến tháng 3-1952, Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về sử dụng công điền công thổ, dựa trên nguyên tắc chia cấp công điền một cách công bằng, dân chủ và có lợi cho nông dân nghèo. Với tất cả những biện pháp kể trên, phần lớn ruộng đất đã chuyển về tay người cày. Ước tính từ năm 1945 đến năm 1953, đã có tất cả 302.840ha ruộng đất từ các nguồn khác nhau (của thực dân Pháp, ruộng công và nửa ruộng công, ruộng hiến, ruộng trưng mua, trưng thu của địa chủ) được tạm cấp, tạm giao cho nông dân. Như vậy, làđã giải quyết tới 58,3% tổng số ruộng đất thuộc loại này (518.710ha). Cho tới trước cải cách ruộng đất, tháng 121953, trên thực tế, thành phần gọi làđịa chủ chỉ còn chiếm hữu non một nửa diện tích đất của họ trước cách mạng.  Riêng ở 3.035 xã thuộc miền Bắc, họ còn chiếm hữu khoảng 215.915ha, tức là khoảng 40% tổng số diện tích của họ có trước năm 19458. ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU  Ở Liên khu V, chỉ tính riêng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, đã có tới 207.000 mẫu, tức gần 25% diện tích đất của bốn tỉnh đãđược chia lại cho nông dân.  Ở Nam Bộ, có khoảng 6.000 địa chủđã bỏ ruộng đất ở vùng nông thôn vềở trong các thành phố.  Toàn Nam Bộđã chia khoảng 564.547ha cho 527.153 nhân khẩu, tính trung bình mỗi người được chia 1ha9… -Tuy nhiên, từ năm 1953, chịu ảnh hưởng của những kinh nghiệm nước ngoài, lại do bệnh ấu trĩ, tả khuynh trong vấn đề giai cấp, đã có phong trào phát động quần chúng giảm tô tiến tới cải cách ruộng đất, trong đó có việc đấu tốđịa chủ, phú nông, gây những tổn thương đáng kể trong khối đại đoàn kết dân tộc. -Đặc biệt từ cuối năm 1953, Nhà nước ban hành Luật cải cách ruộng đất, tiến hành việc đấu tố tràn lan ở một số nơi làm thíđiểm cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Nhất là từ sau khi hòa bình lập lại, nhiều đợt cải cách ruộng đất đãđược tiến hành ở những vùng mới giải phóng, gây nhiều tổn thất về kinh tế, xã hội vàđặc biệt là về tình cảm trong môi trường nông thôn. d. Công nghiệp Công nghiệp trong thời kỳ kháng chiến chủ yếu là công nghiệp quốc phòng. Nhiều máy móc được vận chuyển từ Hà Nội lên chiến khu để xây dựng các binh công xưởng, chế tạo vũ khí cho kháng chiến. -Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ngành công nghiệp quân giới đã có những nỗ lực to lớn nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của quân đội. -Cho tới trước năm 1954, Việt Nam bị bao vây tứ phía, nguồn vũ khí từ nước ngoài cung cấp gần như không có. Do đó, chỉ có hai cách là cướp súng đạn của giặc và tự chế tạo vũ khí, nhất làđạn dược.  Theo thống kê của ngành quân giới thì tốc độ phát triển của vũ khí đạn dược (tính từ Liên khu IV trở ra, tính bằng tấn vũ khí vàđạn dược) như sau: Năm 1946 là 100 thì năm 1947 là 107, 1948 là 1.044, năm 1949 là 3.544, năm 1950 là 2.111, năm 1951 là 1.877, năm 1952 là 1.744, năm 1953 là 3.552.  Ở Liên khu V, nếu năm 1948 là 100 thì năm 1949 là 130, năm 1950 là 243, năm 1951 là 1.087, năm 1952 là 327510. e. Công nghiệp dân dụng ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU -Trừ một vài cơ sở của Nhà nước sản xuất giấy, dệt vải cung cấp cho trường học, bộđội, phần còn lại hầu hết nằm trong tay các tiểu chủ từ thành phố tản cư ra. Nhà nước giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để họ tổ chức sản xuất những sản phẩm cần thiết cho đời sống nhân dân. Nhiều nhà sản xuất đã có sáng kiến khắc phục những khó khăn về nguyên liệu, máy móc để sản xuất được những nhu yếu phẩm, như vải mặc, xà phòng, thuốc đánh răng, bút máy, bút chì, mực, phấn viết, giày dép. +Liên khu V có thành tích lớn về việc đã tổ chức tự túc được hầu hết các nhu yếu phẩm của nhân dân và cán bộ, đặc biệt là vải mặc (vải sita). f. Giao thông vận tải Bước vào kháng chiến, công việc đầu tiên của giao thông vận tải là phá hoại đường sá, cầu cống và phương tiện vận tải để Pháp không thể tấn công vào các vùng kháng chiến. -Đã có 10.721km đường trong tổng số 21.026km đường ôtô, 1.540km đường trong tổng số 2.569km đường sắt và 30.560m cầu bị phá hoại. -Sau khi phá xong những phương tiện giao thông kể trên, vùng kháng chiến được bảo vệ một cách thụđộng do không còn khả năng vận động bằng cơ giới. Từđây, mọi hoạt động trong vùng kháng chiến là dựa vào xe đạp, xe ngựa và ngựa, đường thủy, gồng gánh, xe bò, xe trâu, ở một sốđịa phương cách xa các vùng chiếm đóng của Pháp thì duy trìđược một sốđoạn đường sắt để phục vụ kháng chiến, vừa chạy bằng tàu cóđầu máy kéo, vừa chạy bằng những xe goòng do người đẩy. +Liên khu V cóđoạn đường dài 307km. +Liên khu IV cóđoạn đường dài 74km từ bắc Quảng Bình ra tới nam Hà Tĩnh… -Một phát minh lớn trong thời kỳ kháng chiến là chiếc xe thồ. +Từ chiếc xe đạp dùng cho người, được cải tiến thành chiếc xe đẩy chở hàng hóa. Mỗi chiếc xe thồ có thể chởđược tới 300kg. Những chiếc xe thồ này đãđóng góp quan trọng cho các chiến dịch Tây Bắc, Điện Biên Phủ. +Từ năm 1953, Hội đồng cung cấp mặt trận đã huy động tới 12.400 chiếc xe thồ của tư nhân để phục vụ cho các chiến dịch. g. Thương nghiệp ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN GVHD: CAO ĐỨC SÁUSVTH: NGUYỄN NGỌC HIẾU Vùng hậu phương của Việt Nam phần lớn là nông thôn và miền núi. Chợ búa hầu hết là các chợ quê, chợ miền núi họp theo phiên và có phần sầm uất hơn trước, vì người đi chợ không chỉ là những người nông dân quanh vùng mà có thêm cả bộđội, cán bộ… -Một đặc điểm lớn của thương nghiệp thời kỳ này là có một số lượng đáng kể dân đô thị bỏ vùng Pháp chiếm đóng đi vào vùng tự do.  Họ không có ruộng đất và không quen nghề nông, cho nên họ chuyển sang nghề dịch vụ như mở quán nước, quán cà phê, làm thợ may, bán hàng xén ven các con đường kháng chiến.  Nhiều phố phường kháng chiến bỗng xuất hiện tại những nơi mà trước đây ít ai biết đến.  Hầu hết các chợđều phải họp ban đêm. Những người tản cư thì sinh sống trên những nẻo đường xa chợ và gần núi đồi để có thểđào hầm tránh máy bay. Đó là những hiệu cắt tóc, những quán cà phê, những quầy hàng xén, những hàng chữa đồng hồ, mài dao kéo, bán nước chè, bán bún, bánh, phở... Những đường phố mới hình thành này trở thành một trong những nét độc đáo trên những nẻo đường kháng chiến. -Thương nghiệp vẫn chủ yếu nằm trong tay tư nhân. Nhà nước chỉ có cơ quan tiếp liệu để mua nhu yếu phẩm cho cơ quan và bộđội. -Từ năm 1951, theo kinh nghiệm của các cố vấn Trung Quốc, Nhà nước đã thành lập một cơ quan thương nghiệp gọi là mậu dịch quốc doanh.  Mậu dịch quốc doanh lúc này chưa đảm đương toàn bộ nền thương nghiệp mà chủ yếu chỉ lo kinh doanh một số nhu yếu phẩm tối cần thiết cho kháng chiến là gạo, vải, muối, dầu thắp.  Mậu dịch quốc doanh đã tổ chức những chuyến vận tải muối từ miền biển của Liên khu III, qua Hoà Bình, lên Phú Thọ và tới Việt Bắc. Nhiều kho muối được lập ra ởđây để cung cấp muối là thứ nhu yếu phẩm hết sức khan hiếm ở Việt Bắc trước đây. Mậu dịch quốc doanh cũng tổ chức thu mua vải của nhân dân theo giá thị trường và mua vải vùng Pháp chiếm đóng để cung cấp quần áo cho bộđội.  Từ khi ra đời, mậu dịch quốc doanh đã phát triển nhanh chóng và tham gia tích cực cả trong hai lĩnh vực mua và bán để phục vụ kháng chiến và phục vụ cho đời sống nhân dân: Về mua vào, nếu tính theo đồng ngân hàng cũ thì năm 1951 là 388 triệu đồng, năm 1952 là 4.671 triệu đồng, năm 1953 là 5.958 triệu đồng, năm 1954 là 8.951 triệu đồng.  Như vậy, nếu năm 1951 là 100 thìđến năm 1954 là 2.308, tăng hơn 23 lần. Về lượng bán ra của mậu dịch quốc doanh, từ khi thành lập, ba mặt hàng chính cần bình ổn ở thị trường đã tăng lên ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CM ĐCSVN
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan