Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT HIỆN NAY...

Tài liệu ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT HIỆN NAY

.PDF
113
494
62

Mô tả:

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT HIỆN NAY
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN KIM CHUNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT HIỆN NAY Chuyên ngành : Văn hóa học Mã số : 60 31 06 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của bản thân, dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Thị Phương Hậu. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan này! Tác giả Nguyễn Kim Chung MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ KHÁI QUÁT VỀ SINH VIÊN SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT 1.1. Một số khái niệm 8 8 1.2. Khái quát về Trường Đại học Mỏ - Địa chất và đặc điểm sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất 21 1.3. Vai trò của đời sống văn hóa đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất 28 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT 37 2.1. Nhận thức về đời sống văn hóa sinh viên Trường Đại học Mỏ Địa chất 37 2.2. Thực trạng các thiết chế văn hóa phục vụ đời sống văn hóa sinh viên của Trường Đại học Mỏ - Địa chất 43 2.3. Thực trạng các hoạt động văn hóa của sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất 51 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ SINH VIÊN ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Những nhân tố tác động đến đời sống văn hóa sinh viên 74 74 3.2. Phương hướng và giải pháp xây dựng đời sống văn hóa của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất 87 KẾT LUẬN 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN Trang Bảng 1.1: Sinh viên trường Đại học Mỏ - Địa chất 27 Bảng 2.1: Kết quả đánh giá của sinh viên về mức độ quan tâm của Nhà trường tới đời sống văn hóa của sinh viên 41 Bảng 2.2: Nhận thức của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất về đời sống văn hóa Bảng 2.3: Các hoạt động Văn – Thể được tổ chức tại Trường 43 52 Bảng 2.4: Kết quả học tập của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất trong 3 năm gần đây 53 Bảng 2.5: Nhu cầu thưởng thức và tiêu dùng sản phẩm văn hóa của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất 63 Bảng 2.6: Những biểu hiện tiêu cực trong nhà trường 67 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN Trang Sơ đồ 1.1: hệ thống tổ chức quản lý trường Đại học Mỏ - Địa chất 22 Biểu đồ 2.1: Các thiết chế văn hóa trong trường Đại học Mỏ - Địa chất 44 Biểu đồ 2.2: Các phương tiện chủ yếu để sinh viên thưởng thức các sản phẩm văn hóa nghe nhìn 65 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở bất kỳ thời đại nào, con người bao giờ cũng là chủ thể đích thực sáng tạo ra lịch sử, là trung tâm của mọi sự phát triển xã hội. Thời đại ngày nay, chiến lược phát triển nguồn lực con người với tư cách là động lực của sự phát triển đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong đường lối cách mạng Việt nam, Đảng ta khẳng định: con người vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Đảng chủ trương lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Quan điểm này đã đặt ra cho quá trình phát triển nguồn nhân lực ở nước ta nhiều nhiệm vụ to lớn mới mẻ, đặc biệt là việc chăm lo giáo dục thế hệ trẻ Nghị quyết Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của Đảng mới đây đã khẳng định chủ trương Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh; coi trọng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức và lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ [21]. Đây là một trong những định hướng có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi hoạt động văn hóa ở nước ta hiện nay. Trong đó, xây dựng đời sống văn hóa cho thanh niên, sinh viên là nhiệm vụ rất cấp bách bởi vì vấn đề hiện đại hóa đất nước chính là hiện đại hóa thế hệ trẻ. Hiện cả nước có hơn 230 trường đại học và cao đẳng, với tổng số hơn một triệu sinh viên. Việc quan tâm xây dựng đời sống văn hóa cho sinh viên trong hệ thống nhà trường có vị trí hết sức quan trọng đối với quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trẻ, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng đời sống có văn hóa cho thế hệ trẻ nói chung và thanh niên sinh viên nói riêng là góp phần thực hiện quan điểm của 2 Đảng: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu là động lực để phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế, thanh niên, sinh viên đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng phải sẵn sàng đối mặt với những thách thức, khó khăn. Việc tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới và mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế đã giúp thanh niên, sinh viên có nhận thức, tư duy phát triển, thị hiếu thẩm mỹ nâng lên, sống có văn hóa và biết tôn trọng kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, đồng thời với thành tựu của sự phát triển là mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động không nhỏ, ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường sống của toàn xã hội, đặc biệt là đời sống văn hóa của thanh niên, sinh viên, do vậy nhu cầu hưởng thụ văn hóa và tham gia các hoạt động văn hóa của thanh niên, sinh viên cũng có rất nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực và tiêu cực. Trường Đại học Mỏ - Địa chất là một trường đại học chuyên ngành lớn mang tính chất kỹ thuật đặc thù được nằm ở Thủ đô Hà Nội - Trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả nước. Với tỉ lệ sinh viên nam chiếm khá đông. Phần lớn sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất hiện nay vẫn giữ được truyền thống văn hóa dân tộc, phẩm chất tốt đẹp của cha ông ta như “tôn sư trọng đạo”, hiếu học, kính thầy, yêu bạn, lối sống giản dị, chăm chỉ. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên chỉ quan tâm đến bản thân và nhu cầu trước mắt, sống thực dụng, kém ý chí vươn lên, học đòi lối sống xa hoa, hưởng thụ, thiếu trung thực trong học tập, tha hóa nhân cách, sa vào tệ nạn xã hội. Theo số liệu báo cáo hàng năm của Phòng Công tác chính trị - Sinh viên từ năm 2007 đến nay đã xử lý kỷ luật 1458 sinh viên vi phạm nội quy, quy chế nhà trường, trong đó kỷ luật khiển trách 266 sinh viên, cảnh cáo toàn trường 1186 sinh viên; đình chỉ học tập vì vi phạm nội quy 08 sinh viên. Số sinh viên bị đình chỉ học tập vì điểm kém từ năm 2009 đến nay là 758 sinh viên. 3 Từ năm 2003 đến nay tại Ký túc xá của Trường đã xảy ra 02 vụ án mạng nghiêm trọng giữa các sinh viên của trường chỉ vì những xích mích rất nhỏ trong sinh hoạt hàng ngày, 02 vụ sinh viên tổ chức đánh bài ăn tiền trong ký túc xá. Đó là những biểu hiện suy thoái về lối sống văn hóa của sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất trong những năm gần đây. Thực tế này đòi hỏi cần phải tăng cường giáo dục nếp sống, lối sống văn hóa và đạo đức cho thanh niên, sinh viên, cuốn hút sinh viên tham gia xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, phòng chống hiệu quả các tệ nạn xã hội định hướng để sinh viên phấn đấu rèn luyện theo chuẩn mực “vừa hồng vừa chuyên” như Bác Hồ kính yêu đã dạy. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Đời sống văn hóa của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp hệ đào tạo Thạc sỹ chuyên ngành Văn hóa học. Với mục đích nghiên cứu một cách tổng thể và đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đời sống văn hóa là một đề tài được rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa quan tâm. Có thể thấy trong những công trình nghiên cứu gần đây được công bố dưới hình thức luận văn, luận án, sách, bài viết tạp chí, cũng có khá nhiều tác giả đã đề cập đến vấn đề đời sống văn hóa và việc xây dựng đời sống văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể: cuốn “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” do Viện Văn hóa, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin xuất bản năm 1984 là một công trình tập trung vào việc nghiên cứu về văn hóa, chính sách đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao nhận thức, cũng như định hướng phát triển đời sống văn hóa ở cơ sở. Tiếp đó là hàng loạt những công trình như “Khái niệm về văn hóa” (1986) của Viện Văn hóa. “Đời sống văn hóa ở cơ sở thực trạng và những vấn đề cần giải quyết" (1991), “Lối sống trong đời sống đô thị hiện nay” (1993) của Viện Văn hóa xuất bản đều là những công trình đề cập đến nhiều mặt của đời sống văn hóa 4 nói chung. Một số các tác giả khác như: Nguyễn Viết Chức “Xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2001). GS Vũ Khiêu “Văn hóa Việt Nam xã hội và con người” (2005)... Những công trình nghiên cứu về văn hóa và đời sống văn hóa trên đây thực sự là một nguồn tư liệu quý giá góp phần đặt nền móng cho việc nghiên cứu về đời sống văn hóa của thanh niên, sinh viên sau này. Về văn hóa của thanh niên nói chung, cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được công bố dưới dạng các cuốn sách, các luận văn, luận án như: “Văn hóa với thanh niên, thanh niên với văn hóa. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002); “Văn hóa thanh niên và thanh niên với văn hóa dân tộc” của tác giả Dương Tự Đam (2001) “Văn hóa thanh niên trong quá trình hội nhập quốc tế của thanh niên" (2002) và “Xã hội học thanh niên” do Đặng Cảnh Khanh thực hiện năm (2006). Đây là các công trình nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề lý luận và thực tiễn căn bản nhất liên quan đến văn hóa thanh niên Việt Nam với tính cách là một nhóm xã hội không đồng nhất, trong đó định hướng giá trị, văn hóa, cấu trúc của thanh niên và phong trào thanh niên đã được phân tích trong mối liên hệ tương tác đa chiều với một số yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa.... Xung quanh vấn đề giáo dục thanh niên, sinh viên và xây dựng đời sống văn hóa cho thanh niên, sinh viên đã có những Hội thảo được tổ chức như: - Hội thảo “Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên giai đoạn hiện nay”, do Đảng ủy khối cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng tổ chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. - Hội thảo “Đời sống văn hóa sinh viên - Thực trạng và giải pháp” do Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức tháng 4/2007. 5 - Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn hóa học đường, Lý luận và thực tiễn” do Hội Khoa học tâm lý giáo dục Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Tiền Giang tổ chức tháng 3/2009. Về đời sống văn hóa của thanh niên và sinh viên cũng đã có những công trình tiêu biểu như: “Thực trạng và giải pháp nâng cao đời sống văn hóa của thanh niên hiện nay” - Đề tài nghiên cứu khoa học của tác giả Vũ Việt Hùng (2003); “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp xây dựng lối sống văn hóa của thanh niên các trường đại học, cao đẳng Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Lê Cao Thắng (2008); “Đời sống văn hóa tinh thần của sinh viên Học viện báo chí và tuyên truyền” hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Giang; “Đời sống văn hóa sinh viên các trường văn hóa nghệ thuật trên địa bàn Thành phố Hà Nội” của tác giả Đinh Lan Hương (2010); “Đời sống văn hóa thanh niên đô thị” của PGS.TS Nguyễn Thị Hương - Viện Văn hóa và phát triển - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Có thể nói, qua các công trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo, các cuốn sách, bài viết trên, tác giả đã đề cập đến những vấn đề cốt lõi liên quan đến đời sống văn hóa trong sinh viên hiện nay, như môi trường văn hóa, lối sống văn hóa, đời sống tinh thần, các mối quan hệ trong xã hội, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về đời sống văn hóa sinh viên của một trường đại học nằm trong khối kỹ thuật cụ thể là Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Vì vậy luận văn này sẽ khai thác những khía cạnh về đời sống văn hóa sinh viên nói chung cũng như sẽ có những đóng góp riêng mang tính đặc trưng của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1 Mục đích Trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận về đời sống văn hóa, khảo sát thực trạng đời sống văn hóa sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất, góp phần xây dựng con người nói chung và sinh viên nói riêng phát triển toàn diện Trí - Đức - Thể - Mỹ. 6 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ một số khái niệm cơ bản liên quan đến đời sống văn hóa sinh viên, coi đó là công cụ nghiên cứu các vấn đề ở nội dung và làm rõ một số đặc điểm của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất. - Phân tích vai trò của đời sống văn hóa đối với sinh viên nước ta hiện nay. - Phân tích thực trạng đời sống văn hóa của sinh viên Đại học Mỏ Địa chất hiện nay và những vấn đề đặt ra. - Đề xuất các giải pháp để nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đời sống văn hóa sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất giai đoạn hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu luận văn: Phạm vi nghiên cứu luận văn là đời sống văn hóa cho sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất tại cơ sở đào tạo Hà Nội. - Thời gian nghiên cứu trong 3 năm gần đây (tính theo năm học từ 2010-2-11; 2011-2012; 2012 - 2013) 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và đời sống văn hóa. Ngoài ra tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài. 5.2 Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của luận văn đã đề ra. - Phương pháp tra cứu tài liệu - Phương pháp khảo sát thực tế - Phương pháp phân tích tổng hợp 7 - Phương pháp thống kê - Phương pháp điều tra xã hội học. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn Những kết quả mà luận văn đạt được có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy hoặc tài liệu giúp các nhà quản lý, hoạch định chính sách phục vụ công tác chỉ đạo, xây dựng đời sống văn hóa ở trong nhà trường. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đời sống văn hóa của sinh viên nói chung và đời sống văn hóa của sinh viên Trường Đại học Mỏ Địa chất nói riêng - Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hóa cho sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất giai đoạn hiện nay. - Trên cơ sở khái quát thực trạng đời sống văn hóa sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất, bước đầu đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất giai đoạn hiện nay. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. 8 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ KHÁI QUÁT VỀ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 1.1.1. Khái niệm văn hóa Khái niệm văn hóa theo các nhà nghiên cứu văn hóa ở Phương Tây có nguồn gốc từ tiếng La tinh culture nghĩa gốc chỉ sự trồng trọt, canh tác nông nghiệp. Sau được hiểu thành trau dồi, bồi dưỡng giáo dục con người (trồng người). Trong thời kỳ cận hiện đại, văn hóa được sử dụng phổ biến để chỉ trình độ học vấn, tri thức. Ở phương Đông, văn hóa được hiểu như một khái niệm chỉ các phong tục tập quán, lễ hội, nhân cách, sáng tác nghệ thuật… Trong quan niệm Mác-xít, văn hóa là những biến đổi của bản thân con người với tư cách là sự hình thành lịch sử hiện thực của con người; văn hóa xuất hiện từ lao động, hiện ra như một nhiệm vụ thực tiễn biến đổi các quan hệ qua lại giữa con người với thế giới và giữa con người với nhau. Văn hóa theo quan điểm Mác-xít được biểu hiện như một qua trình biến con người thành chủ thể của sự vận động lịch sử và trở thành một cá nhân toàn vẹn. Con người không phải tự nhiên mà có văn hóa, văn hóa có được nhờ quá trình tu dưỡng, tự kỷ luật với bản thân , chế ngự các bản năng tự nhiên, vốn có của con người. Giáo sư Klaus P.Hansen, Cộng hòa Liên bang Đức cho rằng: Văn hóa có nghĩa là sự thay đổi tự nhiên bên ngoài và bên trong một cách toàn diện bởi lao động… Văn hóa không chỉ có nghĩa là sự thay đổi của cái bên ngoài, cảnh quan tự nhiên nhờ con người mà nó trở thành cảnh quan văn hóa - mà còn đồng thời thay đổi cái tự nhiên bên trong, như là cái tự nhiên trong bản thân con người. Văn hóa có nghĩa là sự thuần hóa, sự chế ngự các niềm say đắm hay nói một cách hiện đại hơn, là kỷ luật hóa bản năng, ham muốn và tính vị kỷ của con người. 9 Vào thế kỷ XIX, từ văn hóa được những nhà nhân học phương Tây sử dụng như một thuật ngữ khoa học. Họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển này tạo thành văn minh. Edward B.Taylor là đại diện của họ. Nhà nghiên cứu văn hóa người Anh này đã đưa ra một định nghĩa văn hóa gây chú ý rằng: “Trong ý nghĩa nhân học xa nhất, văn hóa là sự tổng hòa của tri thức, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và tất cả mọi thói quen và khả năng còn lại, mà con người với tư cách là thành viên của xã hội đã chiếm lĩnh được” [42]. Hiện nay, UNESCO đang nhìn nhận văn hóa với một ý nghĩa rộng hơn, coi văn hóa như một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia, xã hội. Năm 1988, khi phát động thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor đã đưa ra một định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của cá nhân và cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [27]. Hồ Chí Minh, trong quan niệm về văn hóa của mình đã khẳng định: Văn hóa là toàn bộ những gì do con người sáng tạo ra, ở đâu có con người, quan hệ giữa con người với con người thì ở đó có văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của nhiều bộ phận, nhiều yếu tố cấu thành, bao gồm: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học và các loại hình nghệ thuật; văn hóa còn là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó; văn hóa còn là sự tổng hợp của các phương thức, cách thức sản xuất vật chất, sáng tạo ra vật chất và các phương thức, cách thức sản xuất, sáng tạo tinh thần [40]. Cũng có thể tiếp cận từ góc đô văn hóa học với quan niệm: Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và cộng đồng) 10 trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc; mà văn hóa còn là môi trường - môi trường trong đó con người vừa với tư cách là sản phẩm và chủ thể của mọi sáng tạo. Do đó, quan niệm về văn hóa phải trên cơ sở quan niệm ở cả hai phương diện: một là, văn hóa gắn với sự thể hiện, phát huy, giải phóng “năng lực bản chất người” trong tất cả mọi dạng hoạt động và quan hệ của con người, văn hóa xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hai là, văn hóa bao gồm thế giới các giá trị được kết tinh trong những sản phẩm của hoạt động của con người. Đây là phương diện hết sức cơ bản và quan trọng, quy định đặc điểm về nội dung và quy luật phát triển có tính đặc thù của văn hóa và đời sống văn hóa. Văn hóa là tổng hòa các giá trị mà con người sáng tạo ra trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội của mình, có quan hệ bản chất với khái niệm giá trị, ngôn ngữ, biểu tượng, phong tục, tập quán, chuẩn mực, cũng như tư tưởng, đạo đức, lối sống… của một chủ thể (cộng đồng, dân tộc). Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã nêu rõ: Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng ngàn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh trên thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc [18]. Như vậy, có thể hiểu, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống và không ngừng vươn tới cái Chân - Thiện - Mỹ từ đó hình thành nên những sắc thái riêng của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng. 11 1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa, sinh viên và đời sống văn hóa sinh viên 1.1.2.1. Đời sống văn hóa Có thể nói rằng, thuật ngữ “đời sống văn hóa” hiện nay đang được sử dụng rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng để đưa ra một định nghĩa thực sự về “đời sống văn hóa” là gì thì cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh. Dưới nhiều góc nhìn khác nhau, các cách tiếp cận khác nhau mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số quan niệm khác nhau về “đời sống văn hóa”. Nói đến đời sống văn hóa là nói đến một lĩnh vực trong đời sống của con người. Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, đời sống được định nghĩa là “hoạt động của con người về một lĩnh vực nào đó nói chung” [63]. Theo Từ điển bách khoa mở, thì ngoài nghĩa nói trên, đời sống còn được hiểu là phương tiện để sống, lối sống, lối sống của cá nhân hay tập thể (đời sống xa hoa, đời sống cần kiệm…). Đời sống của con người bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng có liên quan mật thiết với nhau, chẳng hạn như: đời sống kinh tế, đời sống chính trị, đời sống xã hội, đời sống văn hóa… Theo GS. Hoàng Vinh: Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người và các dạng hoạt động văn hóa của nó). Xét về một phương diện khác, đời sống văn hóa bao gồm các hình thức văn hóa hiện thực và cả các hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh [61]. PGS.TS. Nguyễn Hữu Thức có đưa ra một định nghĩa khác: Đời sống văn hóa được hiểu một cách khái quát là hiện thực sinh động các hoạt động của con người trong môi trường sống để duy trì đồng thời tái tạo sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không ngừng tác 12 động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng sống của chính con người [43]. Tiếp cận theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lĩnh vực văn hóa có thể được hiểu như sau: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau; chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng” (Báo Cứu quốc, số ra ngày 8/10/1945). Bởi vì Người cho rằng phải xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng thì mới có nền tảng, có điều kiện để xây dựng và phát triển văn hóa. Người cho rằng: Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta [40]. Qua quan niệm này, có thể thấy rằng, người coi đời sống văn hóa là đời sống tinh thần. Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Đảng cộng sản Việt Nam cũng cho rằng: văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [18]. Điều này cũng được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: “Xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [21]. Cũng có những nhà nghiên cứu về văn hóa cho rằng đời sống văn hóa thuộc đời sống tinh thần mà đời sống tinh thần được coi là một lĩnh vực hoạt động của đời sống con người và giữa các lĩnh vực hoạt động của đời sống con người có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau. Cá nhân tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng đời sống văn hóa thuộc đời sống tinh thần hay nói cách khác đời sống văn hóa là “một vệ tinh” 13 của đời sống tinh thần. Từ quan điểm trên, có thể đưa ra khái niệm đời sống văn hóa như sau: đời sống văn hóa là hiện thực sống động các hoạt động của con người với sự hỗ trợ của các thiết chế văn hóa và sản phẩm văn hóa nhằm sáng tạo, hưởng thụ và lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa kết tinh trong những sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. 1.1.2.2. Khái niệm sinh viên Thuật ngữ sinh viên được bắt nguồn từ một từ gốc latinh students với nghĩa là người học tập, làm việc, tìm hiểu, khai thác tri thức [55]. Theo từ điển Oxford (1995) thuật ngữ Student được giải thích như sau: - Một người thường ở độ tuổi trên 16 đang theo học ở một trường Đại học hoặc cao đẳng. - Một thiếu niên nam hoặc nữ ở Trường phổ thông [56]. Từ điển Việt Nam (2001) định nghĩa là: “người học ở bậc đại học” [57]. Theo Quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì “người đang học trong hệ Đại học và Cao đẳng thì gọi là sinh viên” [10]. Nhìn chung, khái niệm sinh viên nên hiểu theo nghĩa chung nhất: Là tất cả những người đã tốt nghiệp Trung học phổ thông và tương đương đang theo học tại các trường Đại học và Cao đẳng thuộc mọi loại hình đào tạo. Có thể nói, sinh viên là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời, là lứa tuổi đang phát triển và trưởng thành về mọi mặt: thể chất và tinh thần, nhu cầu tình cảm và lý trí, về khả năng và năng lực, tư duy năng động và tính sáng tạo hướng tới sự phát triển hài hòa hoàn thiện nhân cách. Đó là lứa tuổi đang nhập cuộc và khẳng định mình trong xã hội, nhạy cảm với cái mới và họ sẵn sàng tiếp nhận những cái mới theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. 1.1.2.3. Khái niệm về đời sống văn hóa sinh viên Trước hết phải khẳng định rằng sinh viên là một đối tượng đặc thù khác với các nhóm xã hội khác như tộc người, công nhân hay nông dân.... từ 14 lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lý, trình độ học vấn và môi trường sống. Cụ thể với tộc người, để nghiên cứu đời sống văn hóa của một tộc người nào đó thì điều đầu tiên ta thấy đó là về phổ tuổi rất rộng, tiếp nữa là về đặc điểm tâm sinh lý cũng vô cùng đa dạng (từ trẻ nhỏ tới người già), về trình độ văn hóa cũng không đồng đều, chưa kể đời sống văn hóa của tộc người còn chịu sự chi phối của các phong tục, tập quán các vùng miền nơi địa bàn cư trú. Ở công nhân hay nông dân cũng vậy họ cũng là những nhóm người mang những đặc trưng về nghiệp riêng. Sở dĩ nói sinh viên là đối tượng đặc thù bởi lẽ họ là những người đã tương đối hoàn thiện về mọi mặt từ thể chất cho tới tâm sinh lý, về trình độ học vấn cũng đồng đều hơn và quan trọng hơn cả đặc trưng hơn cả là họ cùng học tập và sinh hoạt trong một môi trường đặc thù đó là các trường đại học và cao đẳng. Do vậy đời sống văn hóa của sinh viên cũng có những đặc trưng riêng. Qua các khái niệm về đời sống văn hóa, khái niệm về sinh viên được trình bày ở trên có thể đi đến khái niệm về đời sống văn hóa sinh viên như sau: Đời sống văn hóa sinh viên là toàn bộ những hoạt động của sinh viên với sự hỗ trợ của các thiết chế văn hóa nhằm sáng tạo, hưởng thụ và lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa kết tinh trong những sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể, làm thỏa mãn những nhu cầu của sinh viên và nâng cao chất lượng sống của sinh viên trong khuôn khổ nhà trường. 1.1.3. Các yếu tố cấu thành nên đời sống văn hóa sinh viên Nói về các yếu tố cấu thành nên đời sống văn hóa hiện nay cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể như: Trong một nghiên cứu của mình, nhóm tác giả Trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh cho rằng đời sống văn hoá Là tổng thể những yếu tố văn hoá vật thể, phi vật thể và nhân cách văn hoá bao quanh con người, gây ra sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân trên phạm vi không gian nào đó, trực tiếp hình thành lối sống và nếp sống con người ở đó [46]. 15 Thể thống nhất này gồm 4 loại yếu tố: những yếu tố văn hoá vật thể và phi vật thể hiện diện ở mỗi cộng đồng; những yếu tố cảnh quan văn hoá (tự nhiên và nhân tạo); những yếu tố văn hoá cá nhân (học vấn, sở thích, sinh hoạt và xử lý thời gian, nếp sống...); những yếu tố văn hoá của các vi môi trường trong những cộng đồng (gia đình, tập thể nhỏ về lao động, học tập...) Quan điểm này cho thấy sự thiếu chặt chẽ về mặt hệ thống khi tách cảnh quan văn hoá ra khỏi văn hoá vật thể và phi vật thể, tách văn hoá vật thể và phi vật thể ra khỏi văn hoá cá nhân và cộng đồng. Có thể thấy rằng, đời sống văn hoá không phải là số cộng của các sản phẩm văn hoá, các năng lực văn hoá của con người cũng như số cộng của các yếu tố văn hoá trong những nhóm người riêng lẻ. Đời sống văn hoá phải là tổng thể những hoạt động sống của con người cùng với các giá trị văn hoá vận động trong sự tương tác giữa quá khứ và hiện đại, giữa con người và môi trường, giữa cá nhân và cộng đồng. Theo PGS Lương Văn Kế cho rằng, các yếu tố cấu thành của đời sống văn hóa gồm lễ hội truyền thống; đời sống tôn giáo; nghề thủ công mỹ nghệ; bảo tàng và danh thắng; báo chí, phát thanh và truyền hình; sân khấu và điện ảnh; nghệ thuật tạo hình và kiến trúc [35, tr.128]. Quan điểm trên của PGS Lương Văn Kế cho thấy các yếu tố cấu thành nên đời sống văn hóa nghiêng về những yếu tố văn hóa vật thể. Trong Giáo trình "Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng" hệ cử nhân chính trị, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, cấu trúc của đời sống văn hoá được xác định bao gồm: con người văn hoá, hoạt động văn hoá và sản phẩm văn hoá [26]. Có thể nói quan điểm trên đây đúng nhưng áp nó vào những yếu tố cấu thành nên đời sống văn hóa sinh viên thì chưa phù hợp bởi thiếu các yếu tố như hệ thống các thiết chế hỗ trợ cho các hoạt động văn hóa cũng như để tạo ra các sản phẩm văn hóa. Ở một phương diện khác, có thể xác định cấu trúc của đời sống văn hoá từ góc độ diện mạo của các hoạt động văn hoá. Nếu tiếp cận từ phương diện 16 này, chúng ta thấy đời sống văn hoá bao gồm: con người văn hoá, các sản phẩm văn hoá của cá nhân và cộng đồng, các thiết chế văn hoá, các hoạt động văn hoá, các giá trị văn hoá. Có thể thấy trong quan niệm này khá đầy đủ các yếu tố cấu thành nên đời sống văn hóa của một cộng đồng người. Tuy nhiên đối với đời sống văn hóa sinh viên thì quan niệm trên lại tương đối rộng. Bởi lẽ các hoạt động văn hóa nói chung vô cùng phong phú, nhưng đối với sinh viên nhiệm vụ chính là học tập và rèn luyện nên các hoạt động văn hóa chắc chắn là sẽ có những giới hạn nhất định. Dựa trên cách tiếp cận về những yếu tố cấu thành nên đời sống văn hóa của các nhà nghiên cứu đi trước và dựa trên tính đặc thù của của đối tượng đang nghiên cứu là sinh viên, khi nói đến những yếu tố cấu thành nên đời sống văn hóa của đối tượng này, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến những vấn đề sau đây: Những yếu tố trong đời sống văn hóa sinh viên như: chủ thể hoạt động văn hóa - Sinh viên; các thiết chế văn hóa và sản phẩm văn hóa phục vụ những hoạt động văn hóa của sinh viên; các hoạt động văn hóa của sinh viên thể hiện cụ thể qua các hoạt động học tập, văn hóa văn nghệ, thể thao, hoạt động xã hội, hoạt động tiêu dùng các sản phẩm văn hóa, các quan hệ xã hội. Theo chúng tôi cho rằng đây là những yếu tố cơ bản và quyết định trong đời sống văn hóa của sinh viên 1.1.3.1. Chủ thể hoạt động văn hóa Con người, với tư cách là chủ thể của mọi hoạt động xã hội, là yếu tố khởi đầu trong cấu trúc của đời sống văn hoá. Như vậy, trong đời sống văn hóa của sinh viên thì chủ thể đầu tiên cấu thành nên đời sống văn hóa ấy chính là sinh viên. Tuy nhiên, như đã nói, sinh viên là đối tượng đặc thù bản thân họ đang được đào tạo, được giáo dục trong một thiết chế xã hội đó là trường học cho nên khi xét tới chủ thể văn hóa sinh viên cũng cần phải quan
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan