Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đối chiếu thuật ngữ phụ sản trong tiếng anh và tiếng việt tt...

Tài liệu đối chiếu thuật ngữ phụ sản trong tiếng anh và tiếng việt tt

.PDF
27
208
97

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHÍ THỊ VIỆT HÀ ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ PHỤ SẢN TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu Mã số : 62 22 02 41 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI – 2017 Công trình được hoàn thành tại: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Người hướng dẫn khoa học 1: TS. Vũ Thị Sao Chi Người hướng dẫn khoa học 2: PGS.TS. Hà Quang Năng Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thiện Giáp Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Văn Khang Phản biện 3:PGS.TS. Lê Thị Lan Anh Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại Viện Hàn lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. Vào hồi…..giờ….ngày…..tháng……năm 2017 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Khoa học xã hội DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. “Các trường phái nghiên cứu TN trên thế giới và vấn đề nghiên cứu TN chuyên ngành phụ sản Anh- Việt”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 1/2017, Tr.95-102. 2. “Đặc điểm cấu tạo của TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 2 (46), 3-2017, Tr.93-97. MỞ ĐẦU 0.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 0.1.1. Y học đã có lịch sử phát triển lâu đời, phụ sản là một chuyên ngành sâu của y học, nhưng tài liệu và giáo trình tiếng Anh chuyên ngành dành cho sinh viên ngành y ở một số trường Đại học chưa nhiều. Thời gian học tiếng Anh chuyên ngành y nói chung, chuyên ngành phụ sản nói riêng, còn hạn hẹp. Trình độ tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên còn rất nhiều hạn chế. 0.1.2. Các tài liệu nghiên cứu, cẩm nang hướng dẫn sử dụng TN phụ sản (TNPS) chưa có nhiều, hơn nữa, các cuốn từ điển song ngữ dịch nghĩa và từ điển giải thích thuật ngữ y học nói chung, TNPS nói riêng còn nhiều điểm chưa nhất quán nên dẫn đến việc khó khăn khi sử dụng, đặc biệt là trong công tác giảng dạy và học tập. 0.1.3. Luận án của chúng tôi khảo sát, nghiên cứu đối chiếu những đặc điểm về cấu tạo hình thức và nội dung ngữ nghĩa của hệ thống TNPS tiếng Anh và tiếng Việt để từ đó tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng nhằm góp phần xây dựng lý thuyết chung về thuật ngữ học và xây dựng từ điển TNPS trong tiếng Việt. 0.2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 0.2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Luận án nghiên cứu nhằm mục đích chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hệ TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt trên các phương diện đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa và định danh. Từ đó, đề xuất phương hướng, giải pháp cụ thể để chuẩn hoá hệ thống TNPS tiếng Việt theo các tiêu chí của ngôn ngữ học. Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận án đề xuất giải pháp biên soạn giáo trình tiếng Anh phụ sản, xây dựng từ điển TNPS để phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập, dịch thuật và công tác khám chữ bệnh trong lĩnh vực phụ sản ở Việt Nam. 0.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Để đạt được các mục tiêu trên, luận án cần phải giải quyết những vấn đề sau đây: - Điểm lại tình hình nghiên cứu về thuật ngữ (TN) nói chung, TNPS nói riêng trên thế giới và ở Việt Nam nhằm đưa ra những nhiệm vụ cần tiếp tục được thực hiện nghiên cứu. - Hệ thống hoá quan điểm lí luận về TN, TNPS ở nước ngoài và ở Việt Nam, đặc biệt là nguyên tắc xây dựng hệ thống TN nói chung, hệ thống TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt nói riêng, qua đó xác lập cơ sở lí luận cho luận án. - Đối chiếu hệ thống TNPS tiếng Anh và tiếng Việt về phương diện cấu tạo, con đường hình thành và phương thức định danh TN. 1 Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất phương hướng thống nhất và chuẩn hoá TNPS tiếng Việt dưới góc nhìn ngôn ngữ học. 0.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 0.3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống TNPS tiếng Anh trong sự đối chiếu với hệ thống TNPS tiếng Việt. Chúng tôi quan niệm TNPS là những từ và cụm từ cố định biểu đạt các khái niệm, đối tượng được sử dụng trong y học chuyên ngành phụ sản. Chuyên ngành phụ sản bao gồm: sản khoa, phụ khoa, sơ sinh, hỗ trợ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình [111, tr.8]. Hệ thống TNPS bao gồm: 1) chủ thể và đối tượng tham gia hoạt động khám chữa bệnh phụ sản; 2) bộ phận cơ thể người liên quan đến phụ sản; 3) bệnh phụ sản; 4) hoạt động phòng và chữa bệnh phụ sản; 5) trang thiết bị phục vụ công tác khám chữa bệnh phụ sản; 6) khoa và môn học phụ sản. Tên riêng các tổ chức, cơ quan y tế, tên các nhân vật lịch sử có liên quan đến phụ sản, tên nhãn hiệu các loại thuốc là danh pháp không thuộc đối tượng nghiên cứu của luận án. 0.3.2. Phạm vi nghiên cứu Hệ thống TNPS bao gồm tất cả các TN trong lĩnh vực phụ sản và chúng có thể được phân chia thành các nhóm và tiểu nhóm. Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận án là các TNPS với 6 nhóm như đã nêu ở mục trên. Do giới hạn của luận án, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu đối chiếu TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt trên các phương diện: đặc điểm cấu tạo, phương thức tạo lập và đặc điểm định danh. Từ đó hướng tới việc chuẩn hoá hệ thống TNPS trong tiếng Việt. 0.4. TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 0.4.1. Tư liệu nghiên cứu Về hệ thống TNPS tiếng Anh, chúng tôi dựa vào 4 cuốn từ điển (Medical Terminology Systems, Midwives’ dictionary, Dorlands illustrated Medical dictionary và Medical terminology) và thu thập được 1100 TNPS. Về hệ thống TNPS tiếng Việt, chúng tôi cũng dựa vào 4 cuốn từ điển và tài liệu trên, đồng thời có đối chiếu với 4 quyển từ điển tiếng Việt (Từ điển TN phụ sản Pháp - Việt, Việt - Pháp; Từ điển phụ sản Anh - Pháp - Việt; Từ điển giải thích phụ sản Việt - Anh - Pháp và Bài giảng sản phụ khoa) và những giáo trình giảng dạy tiếng Anh. Số TNPS trong tiếng Việt được đưa ra đối chiếu là 1100. 0.4.2. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu Về hướng tiếp cận, các TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt được chúng tôi xem xét trên phương diện đồng đại (tiếng Anh và tiếng Việt hiện đại) và trong trạng thái tĩnh (cụ thể là các đơn vị TNPS trong từ điển tiếng Anh và tiếng Việt). 2 Về phương pháp nghiên cứu, để giải quyết các nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu như: phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích thành tố trực tiếp, thủ pháp thống kê, phương pháp so sánh - đối chiếu để xác định những điểm đồng nhất và khác biệt về phương diện cấu tạo, phương thức tạo lập và đặc điểm định danh của chúng. 0.5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu đối chiếu những đặc điểm của hệ TNPS tiếng Anh và tiếng Việt trên phương diện cấu tạo, phương thức tạo lập và đặc điểm định danh. Trên cơ sở đối chiếu hai hệ thống TN, luận án bước đầu nêu lên một số nhận xét về hiện trạng của TNPS tiếng Việt, từ đó đề xuất biện pháp chuẩn hoá TNPS trong tiếng Việt từ phương diện ngôn ngữ học. 0.6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 0.6.1. Ý nghĩa lí luận - Luận án làm rõ những điểm tương đồng và dị biệt về đặc điểm cấu tạo, phương thức tạo lập và đặc điểm định danh của TNPS trong hai ngôn ngữ Anh và Việt. Từ đó, đánh giá ưu điểm và nhược điểm của hệ thống TNPS tiếng Việt ở các phương diện trên để hướng tới việc chuẩn hoá chúng. - Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu lí thuyết TN học nói chung, nghiên cứu TNPS nói riêng. 0.6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy tiếng Anh cho ngành y học nói chung và tiếng Anh chuyên ngành phụ sản nói riêng cho sinh viên Việt Nam. - Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được sử dụng trong công tác biên, phiên dịch các tài liệu của ngành y học nói chung và chuyên ngành phụ sản nói riêng, cũng như được sử dụng trong công tác biên soạn từ điển đối dịch TNPS ở Việt Nam. 0.7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án có kết cấu gồm bốn chương, cụ thể như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lí luận Chương 3: Đối chiếu đặc điểm cấu tạo của TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt Chương 4: Đối chiếu phương thức tạo lập và đặc điểm định danh của TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 1.1.1.Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới Từ thế kỷ XVIII, các nghiên cứu về TN đã bắt đầu manh nha với nội dung chính là tạo lập, xây dựng và sơ khai xác định các nguyên tắc cho một số hệ TN đặc biệt. Một số tác giả được cho là người tiên phong trong công tác nghiên cứu TN như CarlvonLinné (1736); (Beckmann, 1780); A.L. Lavoisier, G.de Morveau, M.Berthellot và A.F.de Fourcoy (1789) và William Wehwell (1840). Mặc dù vậy, phải đến đầu thế kỷ XX, khoa học TN mới thực sự được hình thành, việc nghiên cứu TN mới có được định hướng khoa học và được công nhận là một hoạt động quan trọng về mặt xã hội. Từ những năm 1930, việc nghiên cứu TN đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt là những công trình nghiên cứu các học giả Liên xô cũ, Cộng hòa Séc và Áo. Cả ba trường phái này đều có chung một quan điểm đó là nghiên cứu TN dựa trên ngôn ngữ học, họ đều xem TN như là một phương diện diễn đạt và giao tiếp. Vì thế cả ba trường phái đã hình thành cơ sở lí thuyết về TN và những nguyên lí mang tính phương pháp chi phối những ứng dụng của nó. Những kết quả nghiên cứu của các trường phái này là một trong những động lực chính cho việc phát triển những hướng nghiên cứu TN sau này đó là: TN được nghiên cứu theo hướng dịch và kế hoạch hóa ngôn ngữ. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam Những năm 30 của thế kỷ XX công tác nghiên cứu phát triển TN khoa học ở Việt Nam chưa thực sự phát triển với sự xuất hiện của vài công trình nghiên cứu, trong đó đáng chú ý nhất là cuốn “Danh từ khoa học” của tác giả Hoàng Xuân Hãn. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 vấn đề TN khoa học dần thu hút được sự quan tâm nghiên cứu với các tác giả như Lê Văn Thới - người đã xây dựng bản nguyên tắc soạn thảo TN và đã được Ủy ban quốc gia soạn thảo danh từ chuyên môn thông qua, dùng làm tài liệu hướng dẫn chính thức cho công tác xây dựng TN ở miền Nam lúc đó, Nguyễn Hữu và Bùi Nghĩa Bích với cuốn từ điển Danh từ cơ thể học (1963) và cuốn Danh từ hóa học Pháp - Việt (1973), … Từ năm 1975 đến nay vấn đề xây dựng và chuẩn hóa TN khoa học ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu trường hợp về hệ TN của các chuyên ngành khác nhau như: y học, báo chí, du lịch, tài chính, kế toán, ngân hàng, quân sự, luật sở hữu trí tuệ, điện tử viễn thông,… Các công trình đi sâu nghiên cứu về TN trên các phương diện đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa và định danh. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về hệ TNPS tiếng Anh trong sự đối chiếu so 4 sánh với tiếng Việt. Những khoảng trống nghiên cứu này cho thấy vấn đề chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu trong luận án này là mới, cần thiết, có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TN PHỤ SẢN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 1.2.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ phụ sản trên thế giới Do sự ảnh hưởng của nền kinh tế những năm 1950 và 1960, sự phát triển của khoa học công nghệ, tiếng Anh chuyên ngành được phát triển từ thời gian đầu của những năm 1960 – và sử dụng tiếng Anh tăng nhanh như ngôn ngữ khoa học quốc tế. Chính vì sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, đặc biệt giai đoạn cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, lượng thông tin trao đổi ngày càng nhiều đã thực sự thúc đẩy mạnh mẽ công tác nghiên cứu TN trong tiếng Anh. Các nhà nghiên cứu từ vựng học, TN học, các dịch giả quan tâm đến hệ TN đã dành thời gian nghiên cứu nhằm xây dựng các bộ từ điển chuyên ngành phục vụ cho công việc học tập, nghiên cứu... Không chỉ ở nước Anh mà các nhà ngôn ngữ học trên thế giới cũng đã tham gia và triển khai các nghiên cứu về công tác TN... Swales (1985) khẳng định tiếng Anh khoa học và công nghệ trong thực tế sử dụng chính là minh họa cho sự phát triển của tiếng Anh chuyên ngành. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ phụ sản ở Việt Nam Từ năm 1976, do nhu cầu của xã hội, việc học tiếng Anh được đẩy mạnh, nhiều cán bộ ngành Y tế Việt Nam thực sự rất mong đợi có một cuốn từ điển TN Y học Anh - Việt để tra cứu khi học tập và nghiên cứu các tài liệu Y học bằng tiếng Anh. Năm 1988, tác giả Bùi Khánh Thuần sau nhiều năm làm việc trong lĩnh vực ngôn ngữ y học đã rút ra được một số kinh nghiệm quí báu và cho xuất bản cuốn “Từ điển Y học Anh - Việt”. Đây là cuốn từ điển Anh - Việt đầu tiên với số lượng hơn 40.000 TN của tất cả các lĩnh vực, gồm các ngành sâu như: tim mạch, nhi, phụ sản, v.v... trong y học. Trong cuốn từ điển này, một số TN đã được chỉnh sửa để phù hợp với sự phát triển của nền y học cũng như phụ sản. Cho đến nay cuốn từ điển này vẫn có giá trị sử dụng cao. Năm 1997, tác giả Nguyễn Khắc Liêu đã cho xuất bản cuốn “Từ điển sản phụ khoa” đã hỗ trợ rất nhiều về mặt chuyên khoa và rất hữu ích cho sinh viên và cán bộ công tác trong ngành phụ sản. Tác giả Nguyễn Đức Hinh đã có ý tưởng viết từ điển từ khi còn là bác sĩ nội trú bệnh viện dưới sự hướng dẫn, góp ý chỉ bảo của thầy Nguyễn Khắc Liêu, và tác giả đã xuất bản cuốn “Từ điển TNPS Pháp – Việt, Việt – Pháp” năm 2001; cuốn “Từ điển phụ sản Anh – Pháp – Việt” năm 2005 và cuốn “Từ điển giải thích phụ sản Việt – Anh – Pháp” năm 2012. Các cuốn từ điển trên đã thật sự góp phần xây dựng, chuẩn hóa và hiện đại hóa TNPS. 1.3. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Trong chương 1, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu TN nói chung, nghiên cứu TNPS nói riêng trên thế giới và ở Việt Nam. Qua quá trình khảo sát 5 tình hình nghiên cứu TN cũng cho chúng tôi thấy, riêng trong lĩnh vực phụ sản việc nghiên cứu TN chủ yếu tập trung vào biên soạn các cuốn từ điển, từ điển giải thích, từ điển đối chiếu, chưa có công trình nào thực hiện nghiên cứu một cách quy mô, có hệ thống về đặc điểm của TN thuộc chuyên ngành này. Đặc biệt là khía cạnh ngôn ngữ học. Đó chính là lí do mà chúng tôi triển khai nghiên cứu đề tài luận án này. Chương 2 CƠ SỞ LÍ LUẬN 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ THUẬT NGỮ VÀ THUẬT NGỮ PHỤ SẢN 2.1.1. Khái niệm thuật ngữ và thuật ngữ phụ sản 2.1.1.1. Khái niệm thuật ngữ TN được hiểu là những từ ngữ biểu đạt khái niệm đối tượng thuộc các ngành khoa học hoặc lĩnh vực chuyên môn khác nhau. 2.1.1.2. Khái niệm thuật ngữ phụ sản TNPS là những từ ngữ biểu đạt khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực phụ sản. Hệ thống TNPS bao gồm 6 nhóm chính, đó là: 1) chủ thể và đối tượng tham gia hoạt động khám chữa bệnh phụ sản, 2) bộ phận cơ thể người liên quan đến phụ sản, 3) bệnh phụ sản, 4) hoạt động phòng và chữa bệnh phụ sản, 5) trang thiết bị phục vụ công tác khám chữa bệnh phụ sản, 6) khoa và môn học phụ sản. 2.1.2. Tiêu chuẩn của thuật ngữ và thuật ngữ phụ sản Các tiêu chuẩn bắt buộc của TN là tính chính xác, tính hệ thống, tính ngắn gọn và tính quốc tế. 2.1.3. Phương thức đặt thuật ngữ Các nhà nghiên cứu thống nhất hai phương thức đặt TN là TN hóa từ ngữ thông thường và tiếp nhận TN nước ngoài. Việc tiếp nhận TN nước ngoài được thực hiện bằng các hình thức sao phỏng, phiên âm hoặc giữ nguyên dạng. 2.1.4. Đơn vị cấu tạo thuật ngữ và thuật ngữ phụ sản Trong luận án này, chúng tôi coi mỗi đơn vị cấu tạo TN biểu thị một khái niệm/ đối tượng hoàn chỉnh hay khái niệm/ đối tượng bộ phận thuộc một chuyên ngành khoa học hay chuyên môn và chúng tôi gọi mỗi đơn vị cấu tạo nên TN là một thuật tố và mỗi thuật tố là đơn vị cấu tạo trực tiếp cuối cùng của TN. Với chức năng như vậy, mỗi thuật tố cấu tạo nên TN phải có ý nghĩa từ vựng. 2.1.5. Thuật ngữ với lý thuyết định danh 2.1.5.1. Khái niệm định danh Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về định danh. Định danh là đặt tên gọi cho sự vật, hiện tượng... 2.1.5.2. Quá trình định danh Quá trình định danh được thực hiện theo trình tự từ sự nhận biết sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan bằng các cơ quan cảm giác để tổng hợp các đặc trưng, thuộc tính phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng, sau đó quy loại sự vật 6 hiện tượng dựa vào các đặc trưng, thuộc tính đã tổng hợp và lựa chọn đặc trưng có ý nghĩa khu biệt sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác để đặt tên gọi. Như vậy, quá trình định danh một sự vật, tính chất hay quá trình gồm hai bước là quy loại khái niệm của đối tượng được định danh và chọn đặc trưng để định danh. Ví dụ, để gọi tên một loại bệnh có biểu hiện bề ngoài nổi thành khối/ cục người ta quy vào khái niệm đã có tên trong ngôn ngữ là “u”. Tiếp tục, dựa vào vị trí của khối u trên cơ thể, người ta phân biệt thành các loại u khác nhau, từ đó hình thành các tên gọi như: u buồng trứng, u tử cung, v.v... Hoặc dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm của khối u mà phân biệt các loại u, từ đó hình thành các tên gọi như: u buồng trứng lành tính, u buồng trứng ác tính, u tử cung lành tính, u tử cung ác tính, v.v... 2.1.5.3. Nguyên tắc định danh Trong quá trình nghiên cứu của đặc điểm định danh sự vật, V.G.Gak đã đưa ra các nguyên tắc định danh, đó chính là gắn quá trình gọi tên với hành vi phân loại. “Nếu như cần phải biểu thị một đối tượng “X” nào đó mà trong ngôn ngữ chưa có tên gọi, thì trên cơ sở các đặc trưng đã được tách ra trong đối tượng này, nó được quy vào khái niệm “A” hoặc “B” mà trong ngôn ngữ đã có cách biểu thị riêng cho chúng và nhận tên gọi tương ứng. Nhưng đồng thời cũng diễn ra sự “lắp ráp” bản thân các từ vào hiện thực: khi thì người ta bỏ đi một cái gì đó khỏi sự hiểu biết ban đầu của mình, khi thì, ngược lại, người ta lại bổ sung thêm một cái gì đó vào sự hiểu biết đầu tiên ấy” (Dẫn theo [98, tr.1]). 2.1.5.4. Đơn vị định danh Xét trên bình diện ngữ nghĩa, đơn vị định danh được chia thành đơn vị định danh gốc và đơn vị định danh phái sinh. Trong đó, “định danh gốc (định danh bậc một) được tạo ra bởi những đơn vị tối giản về mặt hình thái cấu trúc, mang nghĩa đen, được dùng làm cơ sở để tạo ra các đơn vị định danh khác” (Dẫn theo [44, tr.72]). Đơn vị định danh gốc có một thành tố cấu tạo với chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng, quá trình và tính chất cơ bản thuộc một chuyên ngành cụ thể. Ví dụ: thai, u,... là những đơn vị định danh gốc trong hệ TNPS tiếng Việt. Đơn vị định danh phái sinh (đơn vị định danh bậc hai) là những đơn vị định danh có hình thái cấu trúc phức tạp hơn đơn vị định danh bậc một, gồm có hai thành tố cấu tạo trở lên, trong đó có thành tố chính và (các) thành tố phụ với chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng, quá trình, tính chất của một chuyên ngành cụ thể. Ví dụ, các TN: thai to, thai suy, u nang, u tử cung, v.v... là những đơn vị định danh phái sinh. 2.1.6. Vấn đề chuẩn hoá thuật ngữ 2.1.6.1. Khái niệm chuẩn và chuẩn hoá thuật ngữ Dựa trên những quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu về công tác chuẩn hoá ngôn ngữ nói chung, chuẩn hoá TN nói riêng, trong phạm vi nghiên cứu của luận án này, chúng tôi xác định chuẩn hoá TNPS tiếng Việt là quá trình nghiên cứu chỉ ra những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục của TN, những nguyên nhân khiến TN chưa đạt chuẩn và đưa ra biện pháp làm cho những TN chưa đạt chuẩn có thể đạt chuẩn từ góc nhìn ngôn ngữ học. 7 2.1.6.2. Lí do chuẩn hoá TN nói chung và TNPS nói riêng Ngành y học nói chung và ngành phụ sản nói riêng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, giao lưu, hội thảo quốc tế ngày càng mở rộng. Những hoạt động trao đổi thông tin phụ sản trên phạm vi quốc tế đã không những làm ra tăng số lượng TN mà còn dẫn đến việc sử dụng các TN không thống nhất trong chuyên ngành này. Do vậy, cùng với việc xây dựng các TNPS mới góp phần phục vụ công tác nghiên cứu, trao đổi các hoạt động phụ sản trong nước cũng như quốc tế, công tác chuẩn hoá TNPS tiếng Việt cần thực sự được quan tâm nghiên cứu. Từ những quan niệm về chuẩn, chuẩn hoá, chuẩn hoá ngôn ngữ và chuẩn hoá TN có thể thấy, công tác chuẩn hoá TN được thực hiện nhằm mục đích hướng tới việc sử dụng đúng TN trong giao tiếp chuyên môn dưới hình thức nói hay viết. Ngoài ra, chuẩn hoá TN còn nhằm mục đích tiết kiệm ngôn ngữ, đảm tính tính ngắn gọn, chính xác và phù hợp trong hệ thống. 2.1.6.3. Lí thuyết điển mẫu với vấn đề chuẩn hoá TN Trong luận án này, chúng tôi vận dụng lí thuyết điển mẫu vào việc lựa chọn các TN đáp ứng các tiêu chuẩn phải có và cần có của TN mà chúng tôi đã xác định trong chương một để tạo cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc phân tích đặc điểm cấu tạo và định danh của hệ TN này. Cũng trong quá trình tuyển chọn TN như vậy, chúng tôi nhận diện được các TN nằm ở vị trí biên tức là các TN chưa đạt chuẩn theo yêu cầu (nằm xa điển mẫu) cần phải chuẩn hoá. 2.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA NGÔN NGỮ HỌC SO SÁNH ĐỐI CHIẾU Để công tác nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ được thực hiện có hiệu quả, cần xác lập được các nguyên tắc đối chiếu, các bước đối chiếu, phạm vi nghiên cứu và vận dụng các phương pháp, thủ pháp phù hợp với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 2.3. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Từ những tiêu chuẩn yêu cầu đối với TN nói chung, trong luận án này, chúng tôi xác định tính chính xác, tính hệ thống, tính ngắn gọn và tính quốc tế là các tiêu chuẩn bắt buộc đối với TNPS. Tính chất không bắt buộc nhưng nếu TNPS có được sẽ là tốt đó chính là tính dân tộc. Còn tính đại chúng là không cần thiết. Ngoài ra, một phần dung lượng nội dung của chương hai đã được dành cho việc trình bày một số vấn đề lí luận cơ bản về ngôn ngữ học so sánh đối chiếu, bao gồm: khái niệm ngôn ngữ học so sánh đối chiếu, xác định nguyên tắc đối chiếu, phạm vi và các bước đối chiếu ngôn ngữ. 8 Chương 3 ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO THUẬT NGỮ PHỤ SẢN TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 3.1. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO TNPS TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT XÉT TỪ SỐ LƯỢNG THUẬT TỐ 3.1.1. Đặc điểm cấu tạo TN tiếng Anh xét từ số lượng thuật tố Bảng 3.1. TNPS tiếng Anh xét theo số lượng thuật tố Số thuật tố trong Tiếng Anh TNPS Số TN Tỉ lệ % 1 thuật tố 524 47,64 2 thuật tố 382 34,73 3 thuật tố 74 6,73 4 thuật tố 11 1,0 5 thuật tố 0 0 Viết tắt 109 9,9 Tổng 1100 100 Từ bảng thống kê 3.1 ở trên, có thể nhận thấy, trong hệ thống TNPS tiếng Anh, các TN có một thuật tố chiếm tỉ lệ cao nhất: 524/ 1100 TN, chiếm 47,64%. Ví dụ: adnexal – “phần phụ tử cung”, anorchia – “không có tinh hoàn bẩm sinh”, v.v… TN gồm hai thuật tố có 382/ 1100, chiếm 34,73%, ví dụ: ante partum – “tiền sản”, artificial delivery – “cuộc đẻ có can thiệp”, v.v… Có 74 TN bao gồm ba thuật tố, chiếm 6,73%, ví dụ: fetal breathing movement – “hô hấp thai trong tử cung”, high risk delivery – “ca đẻ có nguy cơ cao”, v.v… TN có bốn thuật tố chiếm tỉ lệ ít nhất, chỉ có 11/1100 TN, tương đương 1,0%, ví dụ: harmonious growth retarded fetus – “thai suy dinh dưỡng đều”, v.v… Theo tư liệu mà chúng tôi khảo sát, trong hệ thống TNPS tiếng Anh, không có TN nào có độ dài từ 5 thuật tố trở lên. Số lượng TNPS tiếng Anh viết tắt là 109 TN, chiếm tỉ lệ 9,9%. 3.1.2. Đặc điểm cấu tạo TNPS tiếng Việt xét từ số lượng thuật tố Bảng 3.2. TNPS tiếng Việt xét theo số lượng thuật tố Số thuật tố TNPS Tiếng Việt Số TN Tỉ lệ % 1 thuật tố 47 4,28 2 thuật tố 470 42,72 3 thuật tố 435 39,54 4 thuật tố 122 11,09 5 thuật tố 26 2,37 Viết tắt 0 0 Tổng 1100 100 9 Từ bảng 3.2 cho thấy, TNPS tiếng Việt có độ dài tối đa là năm thuật tố. Trong đó, TN gồm hai thuật tố chiếm số lượng lớn nhất: 470/1100 TN, chiếm 42,72%, ví dụ: thai nghén, đa nang, hậu sản, v.v…; chiếm tỉ lệ cao thứ hai là TN gồm ba thuật tố với 435/1100 TN, tương ứng 39,54%, ví dụ: áp xe tuyến vú, v.v… Số TN có bốn thuật tố là 122/1100 TN, chiếm 11,09%, ví dụ: bệnh buồng trứng đa nang, bệnh loét cổ tử cung, v.v… Số TN có một thuật tố là 47/1100 TN, chiếm 4,28%, ví dụ: thai, rau, nang, v.v… Nhóm TN có số lượng thấp nhất là TN có năm thuật tố, chỉ có 26 đơn vị, chiếm tỉ lệ 2,37%, ví dụ: ghi tim thai bằng siêu âm, hiện tượng song thai một noãn, v.v… 3.1.3. Đánh giá điểm tương đồng và khác biệt của TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt xét từ số lượng thuật tố Về số lượng cấu tạo thuật tố, TNPS tiếng Anh xét theo thuật tố cấu tạo là bốn thuật tố. Trong đó, TN gồm một thuật tố chiếm tỉ lệ cao nhất chiếm 47,64%, chiếm tỉ lệ cao thứ hai là TN gồm hai thuật tố chiếm 34,73%. TN gồm ba thành tố chiếm 6,73%, còn TN gồm bốn thuật tố chỉ chiếm 1,0%, và viết tắt trong tiếng Anh chiếm 9,9%. Giống như đơn vị từ vựng nói chung, TN có tính định danh - tên gọi chính xác khái niệm, đối tượng thuộc lĩnh vực chuyên môn nhất định. Để đảm bảo gọi tên chính xác khái niệm và đối tượng, đòi hỏi TN cần có kết cấu ngắn gọn, chặt chẽ. Về số lượng thuật tố cấu tạo, TNPS tiếng Việt có độ dài tối đa là năm thuật tố. Điều đáng lưu ý, số lượng TN bao gồm hai thuật tố chiếm tỉ lệ lớn nhất 42,72 %, tiếp đến là số lượng thuật tố bao gồm bốn thuật tố với tỉ lệ là 11,09%, một thuật tố là 4,28%, bnăm thuật tố là 2,37%. 3.2. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO TNPS TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT XÉT TỪ PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO, QUAN HỆ NGỮ PHÁP VÀ TỪ LOẠI 3.2.1. Đặc điểm cấu tạo TNPS tiếng Anh xét từ phương thức cấu tạo, quan hệ ngữ pháp và từ loại Trong tiếng Anh có các phương thức cấu tạo từ đó là: phương thức thêm phụ tố, tạo từ phái sinh thêm phụ tố (affixation) hay còn gọi là phương thức phụ gia, phương thức tạo từ phái sinh không dùng phụ tố (derivation without affixation), phương thức viết tắt (abbreviation), phương thức chuyển loại (conversion) và phương thức ghép (compounding). Phương thức tạo từ trong tiếng Anh khá đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển về mặt từ vựng của ngôn ngữ này. Khảo sát hệ thống TNPS tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy các phương thức trên đây cũng là những phương thức cơ bản được sử dụng để cấu tạo TNPS. 3.2.1.1. TNPS tiếng Anh có một thuật tố a) TNPS là từ đơn Đây là những TN chỉ có một từ đồng thời cũng là hình vị chính tố, TN là từ đơn có thể là danh từ, tính từ hay động từ. Trong số 310 TN là từ đơn, có 10 tới 210 TN là danh từ, chiếm 19,18%, ví dụ: deliver – “ca đẻ”, conception – “thụ thai”, v.v…; có 92 TN là tính từ chiếm 8,36%, ví dụ: gravid – “có thai”, etoric – “thuộc tình dục, sinh lí”,v.v…; có 8 TN là động từ, chiếm 0,72%, ví dụ: abort – “sẩy thai”, deliver – “sinh đẻ”, v.v… b) TNPS là từ phái sinh Từ phái sinh là từ được cấu tạo bằng phương thức kết hợp với một căn tố (root) với phụ tố. Phụ tố có thể là tiền tố (prefix) hoặc hậu tố (suffix). Tuỳ thuộc vào nghĩa của căn tố và tiền tố hay hậu tố mà từ được tạo ra có nghĩa khác nhau. Trong tổng số 209 TN là từ phái sinh, có 73 TN được cấu tạo bằng phương thức phái sinh tiền tố, chiếm 6,63%. Ví dụ: anticonceptive “tránh thai”, antinatalist – “chống sinh sản”,v.v…Có 136 TN được cấu tạo bằng phương thức phái sinh hậu tố, chiếm 12,35%. c) TNPS là từ ghép Đây là phương thức phổ biến trong việc cấu tạo từ của bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Đối với TNPS, đây là phương thức cấu tạo TN bằng cách ghép hai từ đã có sẵn. Qua khảo sát tư liệu, chúng tôi chỉ thu thập được 4 TN có cấu tạo là từ ghép và là danh từ ghép, chiếm 0,45%. Ví dụ: after (sau) + birth (sinh)  afterbirth (nhau), new (mới) + born (sinh)  newborn (trẻ sơ sinh), mother (mẹ) + hood (mũ)  motherhood (được làm mẹ). 3.2.1.2. TNPS tiếng Anh hai thuật tố TNPS tiếng Anh gồm hai thuật tố có tổng số 382 TN, trong đó có 365 TN là cụm danh từ, chiếm 33,18%, ví dụ: abdominal delivery – “sự đẻ mổ”, acute mastitis – “ bệnh viêm vú cấp tính”, v.v…Trong đó có 127 TN được cấu tạo bằng cách ghép danh từ và danh từ, chiếm 11,54%, ví dụ: abortion rate – “tỉ lệ phá thai”, amniotion cavity – “màng ối”, v.v…Có 216 TN được cấu tạo bằng cách ghép tính từ với danh từ, chiếm 19,63%, ví dụ: amniotic fluid – “nước ối”, anomalous uterus – “tử cung dị dạng”, v.v… Có 12 TN được cấu tạo bằng cách ghép phân từ quá khứ với danh từ, chiếm 1,09%, ví dụ: assisted reproduction – “hỗ trợ sinh sản”, delayed puberty – “dậy thì muộn”,v.v…Có 7 TN được cấu tạo bằng cách ghép phân từ hiện tại với danh từ, chiếm 0,36%, ví dụ: lying placenta – “rau bám”, washing sperm – “rửa tinh trùng”,v.v…Có 3 TN được cấu tạo bằng cách ghép số từ với danh từ, chiếm 0,27%, ví dụ: one fetus – “thai một”, two fetus - “hai thai”, v.v… Trong 382 TNPS được cấu tạo bằng hai thuật tố, có 17 TN là cụm động từ, trong đó có 6 TN cấu tạo bằng cách ghép động từ với danh từ, chiếm 0,54%, ví dụ: care fetus – “chăm sóc thai”, interrupt fetus – “thai chết lưu”,v.v…Có 11 TN được cấu tạo bằng cách ghép động từ với giới từ, chiếm 1,0%, ví dụ: bear down – “đỡ đẻ”, v.v… 3.2.1.3. TNPS tiếng Anh ba thuật tố Tổng số 74 TNPS cấu tạo gồm 3 TN đều là cụm danh từ, chiếm 6,73%. 3.2.1.4. TNPS tiếng Anh bốn thuật tố 11 Số lượng TNPS có cấu tạo bốn thuật tố rất ít, chỉ có 11/1100 TN, chiếm 1,0%. 3.2.2. Đặc điểm cấu tạo TNPS tiếng Việt xét từ phương thức cấu tạo, quan hệ ngữ pháp và từ loại 3.2.2.1. TNPS tiếng Việt một thuật tố TNPS tiếng Việt được cấu tạo từ một thuật tố là 47/1100 TN, chiếm 4,28% và chúng có thể là từ đơn, từ ghép đẳng lập hoặc từ ghép chính phụ. Trong số đó, có 16 TN là từ đơn, chiếm 1,45%. 3.2.2.2. TNPS tiếng Việt hai thuật tố Trong 1100 TNPS tiếng Việt có 470 TN có cấu tạo hai thuật tố, chiếm 42,72%. Tất cả TNPS có cấu tạo hai thuật tố đều là cụm từ chính phụ. Trong đó, có 363 TN là cụm danh từ, chiếm 33%, ví dụ: niêm mạc âm đạo, bác sĩ phụ khoa, ngôi thai, tuyến sữa, v.v... Có 80 TN là cụm động từ, chiếm 7,27%, ví dụ: phẫu thuật thai, chửa trứng, bế kinh, v.v... Có 27 TN là cụm tính từ, chiếm 2,45%, ví dụ: suy thai, nhược thai, thiểu ối, v.v... 3.2.2.3. TNPS tiếng Việt có ba thuật tố có 440/1100 TNPS tiếng Việt được cấu tạo từ ba thuật tố, chiếm 40%. Tất cả các TN này đều là cụm chính phụ. Trong đó, có có 326 TN là cụm danh từ, chiếm 29,63%, ví dụ: bệnh lí tuyến sinh dục, bệnh lí tuyến vú, v.v… Có 82 TN là cụm động từ, chiếm 7,45%, ví dụ: siêu âm sản khoa, cắt tuyến sinh dục, v.v… Có 32 TN là cụm tính từ, chiếm 2,9%, ví dụ: suy thai cấp, hẹp cổ tử cung, v.v… 3.2.2.4. TNPS tiếng Việt có bốn thuật tố TNPS bao gồm bốn thuật tố là các cụm chính phụ có 122 TN, chiếm 11,09%, có thể là cụm danh từ, động từ hoặc tính từ. Trong đó TNPS là cụm danh từ có 83 TN, chiếm 7,54%, ví dụ: hội chứng doạ vỡ tử cung, bệnh buồng trứng đa nang, v.v… Có 26 TN là cụm động từ, chiếm 2,36%, ví dụ: truyền máu trong tử cung, bơm hút thai chân không, v.v… Có 13 TN là cụm tính từ, chiếm 1,18%, ví dụ: liệt mặt trẻ sơ sinh, vàng da trẻ sơ sinh, v.v… 3.2.2.5. TNPS tiếng Việt có năm thuật tố có 26 TNPS tiếng Việt được cấu tạo từ năm thuật tố, chiếm 2,37%, tất cả các TN này đều là cụm từ chính phụ. Trong đó, có 15 TN là cụm danh từ, chiếm 1,36%, ví dụ: hiện tượng song thai một noãn, đường tiếp nối cổ tử cung, v.v…Có 8 TN là cụm động từ, chiếm 0,72%, ví dụ: chảy máu tiêu hoá trẻ sơ sinh, viêm mắt mủ trẻ sơ sinh, v.v… Có 3 TN là cụm tính từ, chiếm 0,27%, ví dụ: quái thai đôi chung đầu/ quái thai đôi một đầu , suy dinh dưỡng thai không đều 3.2.3. Đánh giá điểm tương đồng và khác biệt giữa TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt xét từ phương thức cấu tạo, quan hệ ngữ pháp và từ loại Kết quả khảo sát và phân tích số liệu cho thấy, TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt được tạo ra bằng nhiều phương thức, tuy nhiên phương thức phái 12 sinh và phương thức viết tắt thì chỉ có ở TNPS tiếng Anh. Phần lớn số lượng TNPS trong tiếng Anh cũng như trong tiếng Việt được tạo ra bằng phương thức ghép từ. Đây là một phương thức cấu tạo từ phổ biến và có khả năng sinh sản từ lớn nhất trong các ngôn ngữ. Kết quả phân tích số liệu khảo sát cho thấy, cả trong tiếng Anh và tiếng Việt, hệ thống TNPS đều khá phong phú về từ loại và trong đó TNPS là danh từ/ cụm danh từ đều chiếm số lượng lớn nhất (hơn 70%). Điều này hoàn toàn phù hợp bời vì một trong những chức năng quan trọng nhất của danh từ trong mọi ngôn ngữ là chức năng định danh. TNPS là động từ/ cụm động từ hoặc tính từ/ cụm tính từ chiếm số lượng không đáng kể. 3.3. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO TNPS TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT XÉT TỪ NGUỒN GỐC CỦA ĐƠN VỊ CẤU TẠO 3.3.1. Đặc điểm cấu tạo TNPS tiếng Anh xét từ nguồn gốc của đơn vị cấu tạo Qua khảo sát số liệu chúng tôi thấy có hiện tượng mượn các gốc từ từ tiếng La tinh và tiếng Hy lạp trong hệ TNPS tiếng Anh 3.3.2. Đặc điểm cấu tạo TNPS tiếng Việt xét từ nguồn gốc của đơn vị cấu tạo a) TNPS tiếng Việt một thuật tố nguồn gốc cấu tạo của các TNPS tiếng Việt gồm một thuật tố có tổng số 47 TN, chiếm 4,28%. Trong đó, sử dụng yếu tố thuần Việt có 16 TN, chiếm 1,45%, ví dụ: chửa, vú, thiếu, đẻ,v.v...; sử dụng yếu tố Hán Việt có 26 TN, chiếm 2,37%, ví dụ: tuyến, sản, bào tử, sinh, v.v...; sử dụng yếu tố Ấn Âu có 5 TN, chiếm 0,46%, ví dụ: albumin, down, karman, v.v... b) TNPS tiếng Việt hai thuật tố nguồn gốc cấu tạo của các TNPS tiếng Việt gồm hai thuật tố có tổng số 470 TN, chiếm 42,72%. Trong đó, sử dụng yếu tố Thuần Việt là 178 TN, chiếm 26,27 %, ví dụ: bong/ rau, cắt /buồng trứng,v.v...; có 287 TN sử dụng yếu tố Hán Việt, chiếm 26,09 %, ví dụ: liệt /dương, bẩm /sinh, v.v...; có 5 TN sử dụng yếu tố Ấn Âu, chiếm 0,45 %, ví dụ: acid amin, triple test, v.v... c) TNPS tiếng Việt ba thuật tố nguồn gốc cấu tạo của các TNPS tiếng Việt gồm ba thuật tố có tổng số 435 TN, chiếm 39,54%. Trong đó, sử dụng yếu tố Thuần Việt là 112 TN, chiếm 10,18%, ví dụ:chă m sóc/ sau /mổ, chọc/ dò/ buồng trứng, v.v...; có 316 TN sử dụng yếu tố Hán Việt, chiếm 28,72%, ví dụ: công tác/ hộ/ sinh, v.v...; có 7 TN sử dụng yếu tố hỗn hợp, chiếm 0,63%, ví dụ: đo/ bằng/ X quang, thủ thuật/ bằng/ Kovas, v.v... d) TNPS tiếng Việt bốn thuật tố nguồn gốc cấu tạo của các TNPS tiếng Việt gồm bốn thuật tố có tổng số 122 TN, chiếm 11,09%. Trong đó, sử dụng yếu tố thuần Việt là 28 TN, chiếm 2,54%. %, ví dụ: ứ/ nước/ vòi / trứng, rụng/ tóc/ sau/ đẻ v.v...; có 92 TN sử 13 dụng yếu tố Hán Việt, chiếm 8,36%, ví dụ: bác sĩ/ tư vấn/ phụ/ khoa, v.v...; có 2 TN sử dụng yếu tố hỗn hợp, chiếm 0,18 %, ví dụ: đình/ sản/ kiểu/Irving, v.v... e) TNPS tiếng Việt năm thuật tố nguồn gốc cấu tạo của các TNPS tiếng Việt gồm năm thuật tố có tổng số 26 TN, chiếm 2,37%. Trong đó, sử dụng yếu tố thuần Việt là 9 TN, chiếm 0.81%, ví dụ: chọc/ dò /màng ối /qua/ bụng, v.v...; có 17 TN sử dụng yếu tố Hán Việt, chiếm 1,54%, ví dụ: hiện tượng/ song/ thai/ song/ noãn, nhiễm/ khuẩn/ huyết/ hậu/ sản,v.v... 3.3.3. Đối chiếu đặc điểm cấu tạo TNPS tiếng Anh và tiếng Việt xét từ nguồn gốc của đơn vị cấu tạo Qua nguồn tài liệu khảo sát của chúng tôi cho thấy, đối với TNPS tiếng Anh, việc sử dụng các gốc từ có nguồn gốc La tinh và Hy lạp lại khá phổ biến, còn TNPS tiếng Việt có nguồn gốc cấu tạo từ nhiều nguồn khác nhau như yếu tố thuần Việt, yếu tố Hán – Việt và yếu tố Ấn – Âu, yếu tố thuần Việt kết hợp với yếu tố Hán – Việt, yếu tố thuần Việt kết hợp với yếu tố Ấn – Âu hoặc Hán – Việt kết hợp với Ấn – Âu. Trong đó, TNPS tiếng Việt có nguồn gốc Hán – Việt chiếm thỉ lệ cao nhất, tiếp đến là TN có nguồn gốc thuần Việt, chiếm tỉ lệ thấp nhất là TN có nguồn gốc Ấn – Âu. Lý do có sự khác biệt này là do sự khác biệt về đặc điểm địa lí, hoàn cảnh lịch sử, văn hoá giữa các nước khác của hai dân tộc. 3.4. CÁC MÔ HÌNH CẤU TẠO TNPS TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT Khả năng kết hợp giữa các đơn vị cấu tạo (thuật tố) để tạo ra các TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt được chúng tôi khái quát bằng các mô hình cấu tạo. Trong luận án này, chúng tôi chỉ trình bày các mô hình cấu tạo phổ biến nhất của TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt. Bởi vì, chúng tôi cho rằng đây chính là những mô hình có khả năng sản sinh TN nhiều nhất và sẽ hữu ích cho công tác xây dựng và chuẩn hoá TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt. 3.4.1. Các mô hình cấu tạo TNPS tiếng Anh và tiếng Việt Bảng 3.21. Mô hình cấu tạo TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt TT Mô hình Tiếng Anh Tiếng Việt Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ % lượng % lượng 1 TNPS có 1 thuật 524 47,63 47 4,28 tố 2 TNPS là từ viết 109 9,9 0 0 tắt 3 TNPS có 2 thuật tố trở lên Mô hình 1 364 33,09 Mô hình 2 18 1,6 Mô hình 3 68 6,18 14 Mô hình 4 6 0,55 Mô hình 5 6 0,55 Mô hình 6 5 0,45 Mô hình 7 462 42 Mô hình 8 8 0,72 Mô hình 9 219 19,9 Mô hình 10 216 19,63 Mô hình 11 63 5,7 Mô hình 12 59 5,36 Mô hình 13 14 1,27 Mô hình 14 12 1,09 Tổng (1) + (2) + (3) 1100 100 1100 100 3.4.2. Đánh giá điểm tương đồng và khác biệt giữa mô hình cấu tạo TNPS tiếng Anh và tiếng Việt Về mô hình cấu tạo, trong tiếng Anh, theo quy tắc ngữ pháp của tiếng Anh, trong mô hình cấu tạo của từ ghép hay cụm từ ghép, thuật tố chính thường đứng sau và thuật tố phụ thường đứng trước, có chức năng bổ sung ý nghĩa cho thành tố chính bằng cách thể hiện rõ tính chất, đặc trưng cơ bản của thuật tố chính. Mô hình cấu tạo TNPS tiếng Anh đã thể hiện rất rõ đặc điểm này. Trong tiếng Việt, mô hình cấu tạo của từ thì không giống như vậy, mô hình cấu tạo từ ghép chính phụ hay cụm từ ghép chính phụ, thuật tố chính thường đứng trước và thuật tố phụ đứng sau. Trong các mô hình TNPS đã trình bày ở trên, mô hình cấu tạo TN gồm hai hoặc ba thuật tố theo nguyên tắc thuật tố chính đứng sau, phụ đứng trước chiếm tỉ lệ cao nhất nên có khả năng sản sinh TN nhiều nhất ở trong cả hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt. 3.5. SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TNPS TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT TRÊN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN Hệ TN trong tiếng Việt nói chung được hình thành bởi các tiểu hệ, đó là TN của nhiều chuyên ngành khác nhau trong đó có TNPS, thuộc lĩnh vực y học. Qua khảo cứu tài liệu chúng tôi thấy, cho đến thời điểm hiện tại đã có một số công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo TN khoa học tiếng Việt thuộc các chuyên ngành khác nhau như: xây dựng, báo chí, du lịch,... 3.5.1. Số lượng thuật tố cấu tạo chúng ta có thể thấy, xét về phương diện số lượng thuật tố cấu tạo, trong cả 5 chuyên ngành số lượng TN gồm 2 và 3 thuật tố chiếm tỉ lệ cao nhất. Số lượng TN thuộc 5 chuyên ngành được cấu thành từ 5 thuật tố trở lên chiếm tỉ lệ rất nhỏ trên tổng số TN được khảo sát. Trong 5 chuyên ngành được khảo sát, TNPS và du lịch có cấu tạo ngắn gọn nhất với số lượng tối đa trong một TN là 5 thuật tố. 15 3.5.2. Mô hình cấu tạo mô hình cấu tạo TN gồm 2 và 3 thuật tố chiếm đa phần trong số các mô hình còn lại và là những mô hình có khả năng sản sinh nhiều TN nhất. Những TN được cấu tạo theo mô hình này đảm bảo tính ngắn gọn và trong mô hình cấu tạo thuộc trường hợp này giữa các thuật tố cấu tạo bao giờ cũng có một thuật tố chính đứng trước, thuật tố phụ đứng sau nên sẽ đảm bảo tính hệ thống cho cả hệ TN. Mô hình cấu tạo TN gồm 5 thuật tố trở lên chiếm tỉ lệ thấp. 3.5.3. Đặc điểm từ loại điểm chung xét trên phương diện đặc điểm từ loại của TN thuộc 5 chuyên ngành khác nhau là số lượng TN là danh từ và cụm danh từ chiếm tỉ lệ cao nhất. Số lượng TN là động từ và tính từ chiếm tỉ lệ thấp trên tổng số TN được khảo sát. Đặc biệt, đối với TN luật sở hữu trí tuệ và TN du lịch không có tính từ, cụm tính từ cũng không có TN nào là cụm tính từ ngoại trừ TNPS. 3.6. MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ CHUẨN HOÁ TNPS TIẾNG VIỆT TRÊN PHƯƠNG DIỆN CẤU TẠO Áp dụng lí thuyết điển mẫu để chuẩn hoá những TNPS xa điển mẫu, tức là những TN không thoả mãn đầy đủ cả ba tiêu chuẩn cần và đủ của TNPS là chính xác, ngắn gọn và tính quốc tế. Những TN mang tính chất miêu tả, dài dòng cần phải được rút gọn. Ví dụ: bác sĩ điều trị sản khoa rút gọn thành bác sĩ sản; ca đẻ non tháng rút gọn thành đẻ non; tăng tiết sữa rút gọn thành cường sữa; đau sản khoa rút gọn thành đau đẻ; dụng cụ đo tử cung rút gọn thành tử cung kế; kinh nguyệt bình thường nên rút thành kinh nguyệt đều; hội chứng ba nhiễm sắc thể X rút gọn thành thể tam nhiễm X; lựa chọn giới tính trước khi sinh rút gọn thành sinh con theo ý muốn, v.v... Để đảm bảo tính ngắn gọn, định danh của TNPS, nên bỏ các kết từ và các từ không cần thiết như: có, các, và, là, những, của, trong, v.v...Ví dụ: bệnh loét trong tử cung có thể rút thành loét tử cung; chửa song thai có thể rút gọn thành thai đôi; có thai lần thứ ba có thể rút gọn thành thai lần ba; ngừng tiết sữa có thể rút gọn thành cai sữa; thụ tinh trong ống nghiệm có thể rút gọn thành thụ tinh ống nghiệm; tử cung hai cổ có thể rút thành tử cung đôi, v.v... Mỗi TNPS, phổ biến nhất là 1-3 thuật tố và nhiều nhất là 4 thuật tố, trong đó mỗi thuật tố đứng sau thuật tố chỉ khái niệm loại diễn đạt một đặc trưng cụ thể của khái niệm loại. Ví dụ: đo nước ối (ba thuật tố: đo/ nước/ ối tương đương với ba thuộc tính) hay ung thư niêm mạc tử cung (ba thuật tố: ung thư/ niêm mạc/ tử cung tương đương với ba đặc trưng). Những TN có cấu tạo dài dòng, từ 5 thuật tố trở lên đều cần rà soát và có phương án điều chỉnh hợp lí. 3.7. TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 16 Chương ba luận án đã phân tích đặc điểm cấu tạo của hệ TNPS trong tiếng Anh và tiếng Việt trong sự đối chiếu với các TN tương đương của chúng trong tiếng Việt, có thể rút ra mấy nhận xét cụ thể sau đây: Xét về số lượng các thuật tố cấu tạo, TN tiếng Anh có cấu tạo ngắn gọn và chặt chẽ, mang tính định danh hơn so với TNPS tiếng Việt. TNPS tiếng Việt có cấu trúc lỏng lẻo hơn mang tính chất miêu tả hơn. Số lượng TNPS tiếng Anh được tạo ra từ một thuật tố chiếm 47,63%, còn tiếng Việt chỉ chiếm 4,28%. TNPS tiếng Anh được tạo ra hai thuật tố chiếm 34,72%, số TN ba và bốn thuật tố chiếm tỉ lệ nhỏ chỉ với 7,73%, TNPS tiếng Anh không có TN được tạo ra năm thuật tố. Số TNPS tiếng Việt có hai và ba thuật tố chiếm tỉ lệ cao nhất là 80,62% (hai thuật tố chiếm 42,72%, ba thuật tố chiếm 39,54%), tiếp đó là TNPS tiếng Việt được tạo ra bốn và năm thuật tố chiếm 13,46% (bốn thuật tố chiếm1,09 và năm thuật tố chiếm 2,37%) Xét về đặc điểm từ loại, các TNPS tiếng Anh và tiếng Việt có một điểm tương đồng là hầu hết các TN đều được cấu tạo tuân theo lý thuyết cấu tạo từ quy định trong mỗi ngôn ngữ. Điểm tương đồng nữa là đối với cả hai hệ TNPS tiếng Anh và tiếng Việt có số lượng TNPS là danh từ hoặc cụm danh từ chiếm tỉ lệ cao nhất. TNPS là tính từ hoặc cụm tính từ chiếm tỉ lệ thấp nhất. Xét về nguồn gốc các thành tố cấu tạo, TNPS tiếng Anh, ngoài việc sử dụng yếu tố có sẵn trong ngôn ngữ Anh cũng có sự vay mượn từ các ngôn ngữ khác chủ yếu là ngôn ngữ Pháp, La tinh, Hy lạp còn TNPS tiếng Việt thì được tạo bởi các yếu tố thuần Việt, Hán – Việt, Ấn Âu, chủ yếu là yếu tố Hán – Việt. Như vậy có thể thấy, trong cả hai hệ TNPS tiếng Anh và tiếng Việt đều có hiện tượng vay mượn nhưng nguồn gốc vay mượn không giống nhau. Chính điều kiện địa lí cũng như hoàn cảnh lịch sử khác nhau là một trong những nguyên nhân tạo nên sự khác biệt về nguồn gốc vay mượn này. Xét về phương thức cấu tạo, các TNPS tiếng Anh có dạng từ đơn hoặc tạo thành bằng các phương thức phái sinh (hay phụ gia), ghép hoặc viết tắt. TNPS tiếng Việt có dạng từ đơn chiếm hoặc từ ghép hay cụm từ định danh. Thuật ngữ phụ sản tiếng Việt không có dạng viết tắt. Xét về mô hình cấu tạo TN, trong tiếng Anh, theo qui tắc ngữ pháp của ngôn ngữ này, thành phần phụ làm định ngữ luôn đứng trước, còn danh từ chính được định ngữ đứng sau, nên thuật tố đứng sau bao giờ cũng là thuật tố có ý nghĩa khái quát nhất, chỉ khái niệm loại, được các thuật tố đứng trước cụ thể hoá dần về đặc điểm, tính chất, thuộc tính của khái niệm ấy. Còn trong tiếng Việt, TNPS chủ yếu có cấu tạo là từ ghép chính phụ hoặc cụm từ cố định chính phụ, do vậy thuật tố thứ nhất là thuật tố khái quát nhất chỉ khái niệm loại, các thuật tố tiếp theo cụ thể hoá dần về đặc điểm, tính chất, thuộc tính của khái niệm loại ấy. Trên cơ sở phân tích đặc điểm cấu tạo TNPS trong hai ngôn ngữ, trong chương này, chúng tôi cũng đã đưa ra một số kiến nghị về chuẩn hóa TNPS 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan