PHẦN 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ.
1.1 Đặt vấn đề.
Trong những năm vừa qua, nghành nuôi trồng thuỷ sản đã có những phát
triển vượt bậc và trở thành một trong những nghành kinh tế mũi nhọn của đất
nước. Nuôi trồng thuỷ sản không những mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho nền
kinh tế đất nước nhờ xuất khẩu mà còn là nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu
cho người dân, và giúp cho những hộ nuôi có nguồn thu nhập đáng kể giúp xoá
đói giảm nghèo và dần vươn lên làm giàu.
Xã Hương Phong là một xã có diện tích đầm phá lớn, nguồn nước dồi dào do
nằm ở hạ lưu của hai con sông là sông Hương và sông Bồ nên có thuận lợi rất
lớn cho việc phát triển khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Mặt khác một thuận lợi
rất lớn là chính quyền xã Hương Phong xác định khai thác và nuôi trồng thuỷ
sản là mũi nhọn phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, từng bước xoá đói giảm
nghèo nâng cao thu nhập cho người dân. Các kế hoạch triển khai dự án quy
hoạch nuôi trồng thuỷ sản đã được tỉnh và huyện phê duyệt để hoạt động khai
thác và nuôi trồng thuỷ sản ngày càng phát triển, nâng cao hiệu quả trong khai
thác và nuôi trồng thuỷ sản.
Nhằm tìm hiểu và đánh giá tình hình nuôi trồng thuỷ sản ở xã Hương Phong
được sự đồng ý của trường Đại Học Nông Lâm, khoa Thuỷ Sản và giáo viên
hướng dẫn tôi đã tiến hành thực hiện đề tài “Điều tra tình hình nuôi trồng
thuỷ sản tại xã Hương Phong – thị xã Hương Trà – tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu.
Thực hiện đề tài này nhằm giải quyết các mục tiêu sau:
-Hiểu về thực trạng NTTS ở xã.
-Hiểu các mô hình nuôi trồng thuỷ sản của xã.
-Giá trị kinh tế mà các mô hình mang lại.
-Những thuận lợi cũng như khó khăn và các giải pháp để giải quyết những
khó khăn đó.
-Tập làm quen với công tác nghiên cứu khoa hoc.
1
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tình hình nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn Thừa Thiên Huế và ở xã
Hương Phong.
2.1.1 Tình hình nuôi trồng thuỷ sản tại Thừa Thiên Huế.
Nuôi trồng thuỷ sản là một trong những thế mạnh của tỉnh Thừa Thiên
Huế. Với áp lực gia tăng dân số và nguồn lợi tự nhiên từ khai thác ngày càng
giảm. Vì vậy, nuôi trồng thuỷ sản được các cấp ban nghành của tỉnh xem như là
một phương thức sinh kế nhằm đảm bảo thu nhập, nâng cao an ninh lương thực
cho người dân và giảm thiểu ô nhiễm môi trường cho hệ đầm phá của tỉnh.
Trong những năm gần đây, nghề nuôi trồng thuỷ sản đã giải quyết công ăn việc
làm, tạo thu nhập cho khoảng 400.000 người dân sống xung quanh vùng đầm
phá [17]. Do vậy, nghề nuôi trồng thuỷ sản đã phát triển một cách nhanh chóng.
Năm 2012 được đánh giá là năm khá thành công đối với nghề nuôi trồng thuỷ
sản trên địa bàn tỉnh với 5.967,51 ha đạt 99,12% so với kế hoạch [1].
Tổng diện tích thả nuôi toàn tỉnh là 5.967,51 ha.
Trong đó: Diện tích nuôi lợ, mặn là 4.004,21 ha. Bao gồm:
Chuyên nuôi tôm sú: 602,70 ha.
Xen ghép + chắn sáo: 3.063,90 ha.
Chuyên cá: 1.548,5 ha.
Diện tích nuôi nước ngọt: 1.963,30 ha, bằng 91,42% so với kế hoạch
2.147,87 ha [1].
Bảng 2.1: Tình hình nuôi nước ngọt
Diện tích (ha)
STT
Địa phương
KH 2012
Chuyên
cá
1
2
3
4
5
6
7
8
Phong Điền
Quảng Điền
Hương Trà
Phú Vang
Phú Lộc
Huơng Thủy
Nam Đông
A Lưới
Tổng cộng
430
130
140
240
306.5
607
60
230
2143.5
400
106.9
140
122.5
270
295.1
54
160
1548.5
Cá
lúa
Cá
sen
21.9
120.6
24
241.6
0.05
6.9
408.1
6.95
Lồng
280
919
325
157
300
146
15
2142
Tổng
giống
(triệu)
Tổng
DT(ha)
12.056
2.145
3.668
5.471
4.7327
9.496
0.8315
3.2
41.6002
400
128.8
140
243.15
300.9
536.7
54
160
1963.6
(Nguồn: Báo cáo kết quả nuôi trồng thuỷ sản năm 2010 và
2
phương hướng nhiệm vụ năm 2013 tỉnh Thừa Thiên Huế).
Dựa vào bảng trên ta thấy, diện tích chuyên cá là 1.548,50 ha, diện tích cá lúa là
408,10 ha. Diện tích cá sen là 6,95 ha. Tổng số lồng thả là 2.042 lồng/2.031 lồng đạt
105,54% so với kế hoạch đề ra. Tổng số giống thả là 41.6002 triệu con [1].
Bảng 2.2. Diện tích nuôi nước lợ theo huyện.
DT Chuyên tôm
DT xen ghép
(ha)
(ha)
TổngDT
Stt Địa phương
thảnuôi
Tôm sú
(ha)
cao
triều
Tôm
Tôm sú
hạ triều
chân
trắng
1
Phong Điền
234,25
234,25
2
Quảng Điền
634,16
4,36
3
Hương Trà
299
4
Phú Vang
1.956,80
218,7
52
35
5
Phú Lộc
880
184,5
147,5
49
4004,21
403,2
199,5
Tổng cộng
DT
Nuôi chuyên
Nuôi
chắn cá (ha)
Ao
sáo
615,8
Lồng
nước
lợ
(cái)
14
299
1.095,1 555
558
1
562
499
322,61 2508,9 555
1200
15
2320
( Nguồn: Báo cáo kết quả nuôi trồng thuỷ sản năm 2012 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2013 tỉnh Thừa Thiên Huế ).
Đến thời điểm này, tổng diện tích thả nuôi là 4.004,21 ha/4.320,10 ha đạt
92,69% so với kế hoạch, trong đó diện tích chuyên tôm sú là 602,7 ha, nuôi xen
ghép và chắn sáo là 3.063,9 ha; chuyên cá 15,00 ha, tôm chân trắng 233,61 ha.
Số lồng thả là 2.320 lồng/2.037 lồng đạt 113,89% so với kế hoạch [1].
Bảng 2.3. Tổng hợp giống thả các huyện và thành phố.
Giống thả
Tôm
STT
Huyện
1
Phong Điền
2
Quảng Điền
70,27
0,932
2,23
3
Hương Trà
11.86
0,203
0.667
4
Phú Vang
69.80
1,794
43,38
31,50
5
Phú Lộc
44,44
0.15
0.43
61,25
199,365
3,079
46,714
540,3
Tổng cộng
Tôm sú
(triệu)
Cua (triệu) Cá các loại
chân trắng
(triệu)
439,55
8,00
( Nguồn: Báo cáo kết quả nuôi trồng thuỷ sản năm 2012 và
3
phương hướng nhiệm vụ năm 2013 tỉnh Thừa Thiên Huế ).
Bảng 2.4. Sản lượng thu hoạch thuỷ sản toàn tỉnh.
Sản lượng thu nước lợ, mặn (tấn)
Tôm
STT
Huyện
sú,
tôm
rảo
Tôm
chân
trắng
1
Phong Điền
2
Quảng Điền 163.00 58.00
3
Hương Trà
83.10
4
Phú Vang
5
Hương
Cá các Cua, Nhuyễn
loại
ghẹ
thể
2543,4
Sản
lượng Tổng sản
nước
lượng
ngọt
804.75
3,348.15
104.50 54.20
460.70
840.40
84.80
31.50
290.00
489.40
745.00 130.00 915.00 235.0
570.00
2,595.00
1,330.50 1,330.50
Thuỷ
6
Phú Lộc
7
Nam Đông
60.50
60.50
8
A Lưới
310.00
310.00
Tổng cộng
380.00
205.00 20.00 225
1,371.1 2,731.4 1,308.9 340.7 225.0
1,020.00 1,850.00
4,846.45 10,823.95
( Nguồn: Báo cáo kết quả nuôi trồng thuỷ sản năm 2013 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2013 tỉnh Thừa Thiên Huế ).
Qua bảng trên ta thấy, tổng sản lượng thuỷ sản toàn tỉnh đạt 10,823.95 tấn
[1]. Trong đó:
Tôm sú, tôm rảo: 1,371.1 tấn.
Tôm chân trắng: 2,731.4 tấn.
Cá các loại: 1,309.3 tấn.
Cua, ghẹ: 340,7 tấn.
Nhuyễn thể: 225.0 tấn.
4
Sản lượng thuỷ sản nước ngọt: 4,536.45 tấn.
Bảng 2.5. Năng suất chuyên tôm trong ao nuôi.
TT
Địa phương
Năng suất bình quân
(tấn/ha/vụ)
Ghi chú
Năng suất bình quân tính cả
diện tích nuôi xen ghép
1
Huyện Phú Vang
1,10
2
Huyện Phú Lộc
0,48
3
Thị xã Hương Trà
0,50
4
Huyện Quãng Điền
0,38
5
Huyện Phong Điền
7,49
6
Doanh nghiệp
11,00
Năng suất bình quân tính cả
diện tích nuôi xen ghép
Năng suất bình quân tính cả
diện tích nuôi xen ghép
Năng suất bình quân tính cả
diện tích nuôi xen ghép
Bình quân năng suất của
tôm sú
Nuôi tôm chân trắng trên cát
( Nguồn: Báo cáo kết quả nuôi trồng thuỷ sản năm 2012 và phương hướng
nhiệm vụ năm 2013 tỉnh Thừa Thiên Huế).
Trong những năm gần đây, các mô hình nuôi xen ghép các đối tượng tôm,
cua, cá ngày càng được người dân áp dụng phổ biến, phát triển ở diện rộng. Các
mô hình này làm giảm sự ô nhiễm chất lượng môi trường nước, giảm thiểu được
rủi ro, mang lại hiệu quả kinh tế cho bà con nông dân.
Bảng 2.6 Cơ cấu diện tích theo các loại hình nuôi trồng thủy sản
Đơn vị tính: ha
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
Loại hình NTTS
Nuôi trên cát ven biển
Nuôi bán thâm canh vùng
cao triều ven đầm phá
NuôiQCCT vùng hạ triều
đầm phá
Nuôi sinh thái vùng hạ
triều đầm phá
Trồng rong câu tập trung
vùng hạ triều đầm phá
Nuôi nhuyễn thể
Nuôi nước ngọt
Nuôi cá lồng
Nuôi cá lồng nước lợ
Nuôi cá lồng nước ngọt
Hiện trạng năm Quy hoạch năm
Quy hoạch
2010
2015
năm 2020
DT đất,
DTQH
DTQH
DT
DT ao
DT ao
mặt
đất, mặt
đất, mặt ao
nuôi
nuôi
nước
nước
nước
nuôi
494
238
945
487
1.064
592
1.091
832
1.091
858
1.091
858
2.082
1.936
1.764
1.836
1.659
0
308
218
308
218
0
110
110
130
150
100
1.835
2.052
2.360
2.060
1.898
2.000
1.950
2.000
2.000
5
( Nguồn: Quy hoạch chi tiết vùng nuôi toàn tỉnh đến năm 2020 ).
Bảng 2.7. Cơ cấu diện tích nuôi trồng thủy sản theo địa phương cấp huyện.
Nuôi BTC
cao triều
ven đầm
phá (ha)
Nuôi QCCT Khoanh
Nuôi lồng
hạ triều đầm nuôi Trồng Nuôi
(cái)
phá (ha)
sinh
rong nước
thái,
câu ngọt
DT
DT nhuyễn (ha) (ha) nước
nước
DTQH DT ao nuôi DTQH ao DTQH ao thể (ha)
lợ
ngọt
nuôi
nuôi
mặn
Nuôi thâm canh
trên cát (ha)
Huyện,
thị xã
Phong Điền 899
494
16
15
357
410
815
Quảng Điền
31
25
538
506
210
Hương Trà
35
28
210
197
136
550
250
115
Phú Vang
116
68
720
561 738
627
308
100
319
350
Phú Lộc
50
30
305
244 334
314
150
10
344
1.100 210
Hương Thủy
667
180
Nam Đông
65
20
A Lưới
262
Tổng cộng:
1.065
592
1.091
858 1.836
1.659 458
110
2.360 2.000 2.000
( Nguồn: Cơ cấu diện tích nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2020 ).
Với những thành quả đạt được cũng như những tồn tại và hạn chế còn đang
gặp phải, năm 2012 được đánh giá là năm có nhiều cơ hội và thách thức. Trong
đó, thách thức lớn nhất là điều kiện khắc nghiệt và môi trường bị ô nhiễm. Vì
vậy, nuôi xen ghép là một trong những mô hình được khuyến khích.
2.1.2 Tình hình nuôi trồng thuỷ sản tại xã Hương Phong.
2.1.2.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên ở xã Hương Phong.
Đặc điểm địa lý:
Xã Hương Phong là một xã nằm phía Tây Bắc thị xã Hương Trà tỉnh Thừa
Thiên Huế, cách thành phố Huế 12km với hình tam giác thế chân kiềng.
Phía Bắc giáp xã Hải Dương.
Phía Đông giáp thị trấn Thuận An.
Phía Nam giáp xã Hương Vinh.
Phía Tây giáp xã quảng Thành huyện Quảng Điền.
Tổng diện tích tự nhiên là 1569 ha, xã nằm vị trí đặc biệt, hai mặt giáp
6
sông, một mặt giáp phá Tam Giang nên rất thuận lợi cho việc phát triển nghề
nuôi trồng thuỷ sản.
( Bản đồ hành chính xã Hương Phong)
Địa hình và đất đai.
So với các xã khác thì xã Hương Phong có địa hình thấp trũng, độ cao so
với mặt biển từ 1- 1,5 m, thôn Thanh Phước có địa hình cao nhất. Toàn xã có 6
thôn, phân bố thành 9 cụm dân cư với 2.306 hộ, 11543 khẩu, tỉ lệ sinh con thứ 3
trở lên chiếm 22,1 % tăng 2,1 % so với kế hoạch. Tỷ lệ phát triển dân số tự
nhiên là 1,04% giảm 0,02 % so với năm 2011. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm
2012 là 9,42 %, hộ cận nghèo là 6,82 % [2].
Hoạt động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, khai thác và nuôi trồng thuỷ
sản ngoài ra còn một số nghành phụ khác.
Xã Hương Phong có diện tích đất tương đối lớn mang đặc điểm ven biển
nên địa hình chia diện tích đất thành vùng ven phá với diện tích chiếm 1/3 đất
nông nghiệp, vùng này nhiễm mặn và thiếu nước ngọt vào mùa hè và mùa mưa
hay nghập úng.Ngoài ra, ở xã còn có một nguồn lợi tự nhiên khác chưa được
đầu tư và khai thác đó là rừng ngập mặn Rú Chá. Đây là nguồn lợi quý giá cho
việc phát triển kinh tế xã hội và chuyển đổi sinh kế cho người dân.
7
Bảng 2.8 Diện tích đất đai trên địa bàn xã Hương Phong
Loại đất
TT
Tổng diện tích
Diện tích (ha)
1.569,0
I
Đất nông nghiệp
556,2
1
Đất ruộng loại 1
108,8
2
Đất ruộng loại 2
383,4
3
Đất chuyên mạ và vườn tạp
74,0
II
Diện tích mặt nươc nuôi trồng thuỷ sản
193,0
1
Diện tích quảng canh
26,0
2
Diện tích chuyên tôm
0,6
3
Diện tích nuôi xen ghép
166,4
III
Đất chưa sử dụng
547,6
1
Đất rừng tự nhiên
5
2
Đất có mặt nước chưa sử dụng
453,9
3
Đất đồng bằng chưa sử dụng
55,7
IV
Đất chuyên dùng
272,2
1
Đất thổ cư
32,6
2
Đất phục vụ các nhu cầu khác: giao thông,
thuỷ lợi, quốc phòng…
239,6
Nguồn nước.
Xã Hương Phong có một vị trí rất đặc biệt: bao quanh xã là sông ngòi và
đầm phá. Phía tây của xã tiếp giáp với sông Bồ, phía Đông tiếp giáp với sông
Hương. Đây là hai con sông rất quan trọng trong việc cung cấp nước cho sản
xuất nông nghiệp, nước sinh hoạt cho người dân địa phương nói riêng cũng như
địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung. Tuy nhiên, do hệ thống thuỷ lợi chưa
được hoàn chỉnh và đồng bộ nên chưa thể khai thác hết tiềm năng về nguồn lợi
nước ngọt này.
8
Mặt khác phía Bắc tiếp giáp với đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, đây là
nguồn nước lợ phục vụ cho hoạt động nuôi trồng thuỷ sản.Trước đây, nguồn
nước sinh hoạt của người dân ở xã Hương Phong chủ yếu lấy từ hai con sông
chính là sông Hương và sông Bồ nhưng hiện nay nước sinh hoạt được cung cấp
từ hệ thống nước máy của thành phố.
Khí hậu thời tiết.
Xã Hương Phong chịu sự chi phối chung của khí hậu nội chí tuyến nhiệt
đới gió mùa có ảnh hưởng của khí hậu đại dương. Vì vậy, những đặc trưng chủ
yếu của khí hậu thời tiết là: Nhiệt độ cao đều quanh năm (250-39,80C), lượng
mưa biến đổi theo mùa khá rõ ràng (mùa mưa và mùa khô) và chịu nhiều ảnh
hưởng của gió bão. Xã nằm trong vùng có điều kiện khí hậu thuận lợi để phát
triển nền nông nghiệp mang tính sản xuất hàng hoá cao, đặc biệt là phát triển các
loại cây trồng nhiệt đới, các loại cây đòi hỏi lượng nước lớn.
Nhiệt độ.
Nhiệt độ trung bình năm là 250C
Nhiệt độ cao nhất vào các tháng 5, 6, 7, 8.
Nhiệt độ cao tuyệt đối năm là 40,1.
Nhiệt độ thấp nhất là vào tháng 12 và tháng 1, 2 năm sau. Nhiệt độ thấp
tuyệt đối là 10,20C.
Mưa.
Xã Hương Phong có lượng mưa tương đối lớn so với cả nước. Lượng mưa
trung bình năm khoảng 1.469,9 mm. Tuy nhiên, lượng mưa phân bố đều trong
năm. Lượng mưa cao nhất vào tháng 9 với 510,4 mm, lượng mưa thấp nhất là
vào tháng 6 với 133,3 mm. Lượng mưa trong năm tập trung vào tháng 8, 9, 10
và trong thời gian này lượng mưa chiếm đến 70-75 % lượng mưa cả năm. Đồng
thời, hàng năm vào thời gian này lũ lụt thường xuyên xảy ra gây nên hiện tượng
ngập úng, sạt lở đất dọc theo bờ sông làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của
bà con nông dân và hoạt động nuôi trồng thuỷ sản.
Độ ẩm.
Độ ẩm tương đối trung bình năm là 85-86 %.
Độ ẩm cao nhất trong năm là vào tháng 1 với 92 %.
Độ ẩm thấp nhất trong năm là vào tháng 7 với 76 %
9
Gió bão.
Xã Hương Phong chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính:
-Gió mùa Tây Nam: Bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 8, tốc độ gió bình quân từ
2-3 m/s có khi lên tới 7-8 m/s. Mùa này gió thường khô nóng, bốc hơi mạnh gây
nên khô hạn kéo dài.
-Gió mùa Đông Bắc. Bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau [9, 2-5], tốc độ
gió từ 4-6 m/s. Gió kèm theo mưa làm cho khí hậu lạnh, ẩm, dễ gây lũ lụt, ngập
úng ở nhiều nơi.
- Bão thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 10. Trong các trường hợp chịu
ảnh hưởng trực tiếp của bão, lốc, giông và gió mùa Đông Bắc. Tốc độ gió lớn có
thể đạt từ 15-20 m/s trong gió mùa Đông Bắc và 30-40 m/s trong lốc bão.
2.1.2.2 Tình hình nuôi trồng thuỷ sản tại địa bàn xã Hương Phong.
Với điều kiện tự nhiên là một xã nằm ở vị trí trung tâm của đầm phá
Tam Giang- Cầu Hai, đồng thời là xã vùng hợp lưu của sông Hương và sông Bồ
cùng với cửa biển Thuận An, tạo ra hệ sinh thái mặn lợ đặc biệt, thuận lợi cho sự
sinh trưởng và phát triển của các loài thuỷ sản có giá trị. Do đó, chính quyền địa
phương xác định nuôi trồng thuỷ sản là một trong những nghành kinh tế mũi
nhọn, trọng điểm và lâu dài của địa phương. Vì vậy, trong nhiều năm qua, cùng
với đảng bộ và chính quyền địa phương các cấp các nghành liên quan đã tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc về nuôi trồng thuỷ sản của xã nhằm tăng thu nhập,
giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho bà con nông dân. Tuy nhiên, trong
những năm qua nghề nuôi thuỷ sản gặp nhiều khó khăn như: tính rủi ro lớn, hiệu
quả sản xuất không ổn định, mâu thuẫn giữa phát triển và vấn đề ô nhiễm môi
trường, dịch bệnh, thiếu quy hoạch [11]…
Với diện tích nuôi nước ngọt là 14750 m2, nước lợ, mặn toàn xã trong kế
hoạch là 195,5 ha, diện tích nuôi thực hiện được là 191,5 ha giảm 4 ha do điều
kiện đê đập không ổn định nên không thể thả nuôi. Số hộ tham gia nuôi trồng
trong xã là 160 hộ, số hộ đánh bắt khai thác tự nhiên sông đầm bằng các nghề
lưới, sáo, rớ… là 164 hộ [2].
Nhờ đi đúng hướng và có nhiều cách làm hay nên trong năm 2012 nghề
nuôi trồng thuỷ sản ở xã Hương Phong đạt được những kết quả như:
Thả nuôi:
Tôm sú: 8 triệu P15
Cua nuôi: 7 vạn con
10
Cá các loại: 85 vạn con
Cá lồng: 10 lồng với 0,8 vạn con (cá hồng, cá mú, cá chẽm).
Sản lượng thu hoạch: Tôm sú 45 tấn, kế hoạch 40 tấn đạt 112,5%
Cua 33 tấn, kế hoạch 30 tấn đạt 110%
Cá các loại 45 tấn, kế hoạch 50 tấn đạt 90%
Đánh bắt tự nhiên 334 tấn, kế hoạch 360 tấn đạt 92,85 [2].
Các đối tượng nuôi bao gồm: tôm sú, cua, cá rô phi, ếch, cá kình, cá dìa,
cá tho… Tuỳ vào đối tượng mà thả vào các thời điểm khác nhau.
Bảng 2.9 Lịch thời vụ nuôi trồng thuỷ sản.
Đối tượng
nuôi
Thời gian thả giống và thu hoạch ( theo âm lịch )
1
Tôm sú
Cá dìa
xx
2
3
4
xx
xx
xx
xx
xx
Cá kình
6
7
8
x
xx
xx
xx
xx
xx
xx
x
x
xx
xx
xx
xx
x
x
xx
x
x
x
Cua biển
xx
xx
xx
xx
Rong câu
xx
xx
xx
xx
Loài khác
x
x
x
x
5
9
10
11
12
xx
x
x
xx
xx
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Bảng 2.10. Diện tích và sản lượng qua các năm của xã Hương Phong.
Xã
Diện tích
ĐVT 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Ha
Sản lượng Tấn
124
121
163
215
215
215
215
193
193
63
72
110
90
110
92
94
225
457
595
674
418
511
427
437
1165 2.367
Năng suất Kg/h 520
(Nguồn: Quy hoạch chi tiết vùng nuôi trồng thuỷ sản xã
Hương Phong thị xã Hương Trà đến năm 2015).
Qua bảng trên ta thấy, sản lượng thuỷ sản các năm từ 2006 – 2010 giảm đi
đáng kể, từ 110 tấn năm 2006 giảm xuống còn 94 tấn trong năm 2010 [11].
11
Nguyên nhân của sự sụt giảm sản lượng là do tình hình dịch bệnh xảy ra nghiêm
trọng. Trong những năm gần đây, nhờ áp dụng các mô hình nuôi ghép, khoa học
kỹ thuật nên tình hình dịch bệnh xảy ra ít hơn mặc dù diện tích bị thu hẹp nhưng
sản lượng tăng lên đáng kể.
2.2 Các nghiên cứu về mô hình nuôi xen ghép các đối tượng trong cùng một ao.
Mô hình nuôi ghép hỗn hợp các đối tượng khác nhau trong cùng một ao
đã được nghiên cứu và đưa vào thực hiện từ lâu ở nhiều nước trên thế giới đặc
biệt là nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt. Điển hình đi đầu trong lĩnh vực này là
nước Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu và nuôi trồng thuỷ sản đã biết kết hợp
nuôi nhiều loài cá khác nhau trong cùng một ao và phát triển nguyên lý chọn đối
tượng cho việc nuôi xen ghép như sau:
-Không có mâu thuẫn đối kháng về môi trường sống.
- Không có mâu thuẫn đối kháng về tập tính dinh dưỡng.
Trên cơ sở đó, người ta đã đưa 4-5 đối tượng khác nhau như cá rô phi, cá
trắm cỏ, cá trôi, cá mè hoa…..vào trong cùng một ao [8,3].
Kết quả của mô hình này là tận dụng các nguồn nước khác nhau làm tăng
hiệu quả sử dụng khối nước. Quan trọng hơn là sự tương hỗ giữa các đối tượng
nuôi trong dinh dưỡng, tận dụng tối đa lượng thức ăn đưa vào. Cụ thể như: Cá
trắm cỏ ăn một lượng cỏ rất lớn, nếu nuôi riêng đối tượng này sẽ thải ra ngoài
môi trường một lượng phân lớn và gây ô nhiễm môi trường nước trong ao nuôi.
Khi nuôi ghép thì phân thải của cá trắm cỏ sẽ là nguồn thức ăn của cá mè, cá rô
phi,… Bên cạnh đó, phân thải có tác dụng như bón phân chuồng , khi phân giải
nó sẽ tạo ra các muối dinh dưỡng kích thích hệ thực vật phù du phát triển và đây
là nguồn thức ăn cho các đối tượng khác. Cá chép có tập tính ăn là đào bới nền
đáygiúp cho việc khoáng hoá chất dinh dưỡng đồng thời làm giảm khí độc ra
thoát ngoài môi trường. Ở nước ta hiện nay, hình thức này đã và đang được áp
dụng ở hầu hết các tỉnh trong toàn quốc và cho kết quả cao [8, 3-8].
Nuôi trồng thuỷ sản nước lợ mặn có lịch sử phát triển muộn hơn so với
nghề cá nước ngọt. Tuy nhiên, do giá trị mà nó mang lại của các đối tượng nuôi
nên người sản xuất tập trung nuôi theo hướng chuyên canh làm cho môi trường
nước trong ao bị suy thoái nghiêm trọng tạo điều kiện cho dịch bệnh phát triển,
đặc biệt xảy ra đối với tôm nuôi.
Trước tình hình như vậy, nhiều nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu
theo nhiều hướng khác nhau. Cụ thể: Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học
12
khác nhau để cải thiện chất lượng môi trường nước. Hiện nay trên thị trường có
rất nhiều chế phẩm sinh học khác nhau được người nuôi sử dụng của các hãng
thức ăn và thuốc sản xuất như: Chế phẩm BZT, EM, SUPER VS…Ngoài ra,
nhiều cơ sở sản xuất lớn đã xây dựng hệ thống ao hồ tuần hoàn có ao xử lý
thông minh qua các hình thức lọc sinh học để hạn chế sự tích tụ của các chất cặn
bã, sử dụng khí ozon để khử các chất khí độc hại. Một hướng nghiên cứu khác
nhằm làm cải thiện chất lượng môi trường là nuôi nhiều đối tượng trong cùng
một ao. Từ đó làm tăng tính bền vững của hệ thống nuôi trồng thuỷ sản. Trên cơ
sở của các hoạt động thực tế của việc nuôi xen ghép một số đối tượng điển hình
đã được các nhà khoa học tổng hợp và trình bày trong các tài liệu như:
Nuôi cá măng (Chanos chanos), cá đối (Mugil cephalus), tôm sú (Pennaeus
monodon) và rong câu trong cùng một ao ở Đài Loan [8, 4].
Nuôi hỗn hợp các loài động vật và thực vật thuỷ sinh trong cùng một ao.
Sử dụng các hình thức nuôi dàn cho các đối tượng rong biển, vẹm xanh ở
vùng biển nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước.
Nuôi hỗn hợp nhiều đối tượng khác nhau trong cùng một ao nuôi tôm để tăng
tính ổn định và bền vững cho người nuôi ở các trại tôm ở Mexico.
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu trên đều cho rằng việc nuôi hỗn hợp các
đối tượng với nhau trong cùng một ao làm giảm mức độ rủi ro đồng thời nâng
cao chất lượng môi trường nước và chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn.
Chính vì vậy mà hình thức nuôi hỗn hợp, nuôi xen ghép này ngày càng được áp
dụng rộng rãi trên toàn thế giới ở các nước có nghề nuôi trồng thuỷ sản.
Ở Việt Nam trước áp lực của dịch bệnh bùng phát trong việc nuôi tôm làm
cho người sản xuất thua lỗ nghiêm trọng trong nhiều năm. Nghề nuôi trồng thuỷ
sản đã có sự thay đổi và điều chỉnh đáng kể từ việc nuôi tôm với mật độ cao, chủ
yếu sử dụng thức ăn công nghiệp sang nuôi tôm với mật độ thấp và tận dụng
nguồn thức ăn tự nhiên. Nhiều đối tượng nuôi mới được sản xuất và đưa vào
nuôi kết hợp với tôm tạo điều kiện cho sản xuất ổn định hơn. Trên cơ sở của nhu
cầu thực tế, nhiều nghiên cứu khác nhau đã được thực hiện ở các vùng khác
nhau. Cụ thể là:
Các nhóm nghiên cứu của Thái Ngọc Chiến (2002), Hoàng Thuỷ (2004),
Nguyễn Xuân Thu (2003) đã có nhiều nghiên cứu về nuôi hỗn hợp cá-rong biểnđộng vật thân mềm trong cùng một ao nuôi. Kết quả là các đối tượng cho tốc độ
tăng trưởng nhanh làm tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích.
13
Hà Lê Thị Lộc (2002) đã thử nghiệm nuôi vẹm xanh thương phẩm (Pera
viridis Linnaeus, 1785) tại vùng đầm Lăng Cô. Kết quả là vẹm xanh phát triển
tốt trên các giá thể khác nhau và chất lượng môi trường nước tại khu vực nuôi
vẹm xanh tốt hơn các khu vực khác.
Nguyễn Khắc Lâm (2002) đã thử nghiệm nuôi sò huyết (Anadara granosa)
theo hai hình thức: nuôi trong ao đất và nuôi bãi triều tại đầm Nại- Ninh Thuận.
Kết quả là tốc độ tăng trưởng của sò huyết tại vùng bãi triều có tốc độ tăng
trưởng nhanh hơn so với nuôi trong ao đất. Năng suất sò huyết vùng bãi triều là
3,5 tấn/ha, trong khi nuôi trong ao đất chỉ đạt 1,3 tấn/ha. Tuy nhiên khi nuôi
trong ao thì nước trong ao có độ trong cao hơn do sò huyết lọc các chất bẩn làm
giảm độ tích tụ các chất hữu cơ trong ao nuôi.
Nguyễn Ngọc Phước (2007) đã nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế
và môi trường của nuôi xen ghép tôm và cá đối” đã cho kết quả là chỉ số NH3
trong ao nuôi xen ghép thấp hơn so với ao nuôi đơn(p<0,05). Đồng thời tỉ lệ
tăng trọng của tôm sú trong mô hình nuôi xen ghép là khá cao so với mô hình
nuôi đơn (p<0,05) [10].
Nguyễn Thị Xuân Thu, Trương Thị Liên, Thái Ngọc Chiến, Nguyễn Đức
Đám, Trương Quang Tiến (2005) đã tổ chức nghiên cứu xây dựng mô hình nuôi
trồng thuỷ sản bền vững tại các vùng đầm phá ven biển miền trung. Trong thí
nghiệm này nhóm tác giả đã thiết kế mô hình nuôi ốc hương và cá trong đăng
chắn đồng thời cắm cọc xung quanh để làm giá thể cho vẹm xanh- hầu đeo bám.
Kết quả cho thấy hầu hết các đối tượng nuôi đều phát triển tốt, các yếu tố về
chất lượng nước ở đây tốt hơn so với ở bên ngoài [12].
Nguyễn Thị Xuân Thu và CTV (2003) đã “Nghiên cứu hải sâm kết hợp với
ao nuôi tôm sú nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước”. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng, tốc độ tăng trưởng của tôm sú trong ao nuôi kết hợp với hải sâm
không có sự sai khác (p>0,05) nhưng các chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi
trường ở các ao nuôi kết hợp là thấp hơn [13].
Lê Thị Bích Thuỷ đã: “ Nghiên cứu cá dìa kết hợp với rong câu chỉ vàng
với tôm sú” trong ao nuôi tôm bị nhiễm hữu cơ. Kết quả cho thấy môi trường
ao nuôi được cải thiện, các yếu tố môi trường đều nằm trong giới hạn cho
phép [14].
Nguyễn Phi Nam, Nguyễn Văn Huy, Võ Đức Nghĩa, Nguyễn Đức Thành
(2007) đã nghiên cứu : “Tác động của nuôi ghép một số loài thuỷ sản trong ao
nuôi tôm sú đến chất lượng nước tại đầm Sam Chuồng thuộc thị trấn Thuận An14
huyện Phú Vang-tỉnh Thừa Thiên Huế” đã đưa ra kết luận. Biến động các yếu tố
môi trường sinh thái trong ao thí nghiệm nằm trong phạm vi cho phép và không
ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Các đối tượng có tốc độ tăng trưởng khá
nhanh trong các ao nuôi thí nghiệm điều này chứng tỏ chúng có thể nuôi xen
ghép trong cùng một ao. Sinh khối rong câu không tăng do đã được cá dìa và cá
kình sử dụng làm thức ăn. Các chỉ số liên quan đến chất lượng nước đều có xu
hướng tăng theo thời gian nuôi [8, 3-8].
Nguyễn Xuân Hồng (2009) đã nghiên cứu: “ Đánh giá hiệu quả kinh tế và
ảnh hưởng của môi trường của mô hình nuôi ghép tôm sú, cá đối, cá dìa, cua và
rong câu trong ao đất” đã có kết luận như sau: Mô hình nuôi xen ghép đem lại
hiệu quả cao hơn các mô hình nuôi đơn, chúng không làm thay đổi các yếu tố
môi trường trong ao nuôi như nhiệt độ, độ mặn, độ kiềm [15].
Tôn Thất Chất, Lê Tất Uyên Châu, Hoàng Nghĩa Mạnh, Nguyễn Thị Thuý
Hằng (2008) đã nghiên cứu : “Đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi xen
ghép tôm sú, tôm rằn, cá rô phi và cá dìa ở xã Hương Phong đã có các kết luận
sau : Các yếu tố môi trường đều nằm trong phạm vi thích hợp với các đối tượng
nuôi. Tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống của các đối tượng nuôi trong mô hình gần
như tương đương với các mô hình nuôi trong ao đơn [16].
2.3 Các nghiên cứu về môi trường ở vùng đầm phá.
2.3.1 Tổng quan các chương trình nghiên cứu về đầm phá Thừa Thiên Huế.
Khu hệ đầm phá Thừa Thiên Huế đóng vai trò quan trọng đối với đời sống
của bà con sống trong vùng. Vì vậy, sự biến đổi chất lượng nước ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động sản xuất và nguồn thu nhập của người dân ở đây. Vì vậy,
quản lý chất lượng nước rất đáng để quan tâm. Nhiều chương trình nghiên cứu
cấp quốc gia, quốc tế đã đầu tư hướng nghiên cứu như : Nghiên cứu cấp nhà
nước do Bộ Khoa Học- Công Nghệ và Môi Trường, Trung Tâm Khoa Học Tự
Nhiên và Công Nghệ Quốc Gia và cục Thuỷ Lợi thực hiên vào tháng 11 năm
1994. Chương trình hội thảo quốc gia về đầm phá do Bộ Khoa Học và Công
Nghệ kết hợp với UBND tỉnh (tháng 12 năm 2005). Trong các cuộc hội thảo này
nhiều nhà khoa học đã báo cáo về sự biến đổi của chất lượng môi trường nước
của đầm phá với các góc độ khác nhau và hầu hết đều cho rằng : đầm phá Tam
Giang – Cầu Hai đang trong tình trạng suy thoái.
Bên cạnh những nghiên cứu cấp nhà nước, nhiều chương trình dự án của
quốc tế cũng đã và đang đầu tư nghiên cứu đầm phá. Cụ thể như : Dự án trung
tâm nghiên cứu và phát triển của Canada (IDRC) đã đầu tư nghiên cứu tài
15
nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng. Dự án Nord Pas de Calais (NDP) do
Pháp tài trợ (1998-2003) nghiên cứu phát triển bền vững vùng đầm phá. Dự án
tổng hợp vùng ven bờ (ICZR) do Hà Lan tài trợ và dự án IMOLA do FAO tài
trợ đã cho những kết quả đáng quan tâm. Kết quả nghiên cứu của các dự án này
cho thấy việc thiếu quản lý một số cơ chế thích hợp nên hình thành việc phát
triển quá mức của các phương tiện khai thác, đánh bắt và sự phát triển tràn lan
các mô hình nuôi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến dòng chảy và tạo sự tích tụ
một lượng lớn trầm tích và các chất hữu cơ, vô cơ. Mặt khác, sự phát triển quá
mức của các hoạt động nuôi trồng trong đầm phá nên chất lượng môi trường
nước đã có những suy thoái trầm trọng gây nên tình trạng suy thoái, phát sinh và
bùng nổ dịch bệnh [8, 3-8].
2.3.2 Các kết quả nghiên cứu về chất lượng nước vùng đầm phá Thừa
Thiên Huế.
Theo hướng nghiên cứu ảnh hưởng của phát triển các hoạt động sản xuất
trong khu vực đã có nhiều nghiên cứu chuyên sâu của các tác giả như: Nguyễn
Văn Hợp (2005) “Kiểm soát chất lượng nước vùng đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai: lo lắng và giải pháp kiểm soát”. Trong nghiên cứu này tác giả đã theo dõi
biến động chất lượng môi trường ở các điểm khác nhau của khu vực hệ đầm phá
từ năm 1998 đến năm 2004. Kết quả theo dõi đã cho thấy đa số các thông số
chất lượng nước (CLN) vùng đầm phá, như nhiệt độ, pH, chất rắn lơ lửng, Oxy
hoà tan (DO), nhu cầu oxy hoá học (COD), nhu cầu oxy sinh học (BOD), NH 3N,…đều thoả mản yêu cầu tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5943-1995 đối với vực
nước ven bờ và các mục đích khác. Tuy nhiên, khi so sánh theo dõi các kết quả
của sự biến động, các chỉ số đánh giá về chất lượng nước đã gây cho nhóm
nghiên cứu nhiều lo lắng. Nhìn chung các hàm lượng của các thông số đánh giá
chất lượng nước có xu hướng tăng dần theo thời gian [7].
Kết quả nghiên cứu về biến động COD cho thấy hàm lượng của yếu tố này
có xu hướng tăng dần từ năm 1998 đến năm 2004 [7], và cao hơn vào năm 2006
[5]. Sự biến động này có thay đổi theo mùa và dao động từ 2 – 35mg/l, COD
thường cao hơn vào mùa khô (>30mg/l). Trong luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
nghành hoá phân tích của Trần Văn Hải (2006) cũng chỉ ra hàm lượng COD ở
vùng đầm phá tại những nơi nuôi tôm thì cao hơn so với vùng không nuôi tôm,
và những năm nuôi tôm nhiều thì hàm lượng COD cao hơn so với những năm
nuôi ít.
16
Kết quả theo dõi hàm lượng BOD5 cũng cho kết quả tương tự. BOD5 trung
bình của vùng bên ngoài đầm phá Tam Giang – Thuỷ Tú giao động trong
khoảng 1 mg/l (thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn cho phép). Tuy nhiên, trong
các ao nuôi thì hàm lượng BOD5 lớn hơn nhiều 3,5 – 5,5 mg/l [5], [7]. Trong
đánh giá chất lượng nước và trầm tích đầm phá Tam Giang – Cầu Hai của
Nguyễn Văn Hợp và cộng sự (2008) đã cho thấy BOD 5 có xu hướng tăng lên
trong những vùng nuôi trồng thuỷ sản phát triển nhanh như vùng Sam Chuồn –
An Truyền [6], điều này cho thấy khi việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản nói
chung và nuôi tôm nói riêng sẽ làm tăng khả năng ô nhiễm hữu cơ vùng đầm
phá. Sự ô nhiễm chất hữu cơ sẽ dẫn tới làm giảm lượng DO trong nước, đặc biệt
là vào mùa khô và do đó tác động xấu đến chất lượng nước cấp cho nuôi trồng
thuỷ sản nói riêng và bảo tồn sinh thái vùng đầm phá nói chung.
Hàm lượng các muối dinh dưỡng (N và P) cũng đã được các nhà nghiên cứu
quan tâm. Muối dinh dưỡng trong thuỷ vực được hình thành do việc bón phân,
sự phân giải các vật chất hữu cơ (thức ăn dư thừa, chất thải của thuỷ sinh vật…)
trong điều kiện yếm khí. Khi hàm lượng các muối dinh dưỡng tăng lên quá
cao sẽ gây nên tình trạng phú dưỡng. Và nếu đã bị phú dưỡng thì nguồn nước
đượ coi như đã “chết” và hệ sinh thái của thuỷ vực bị huỷ hoại. Chính vì lý
do đó, việc theo dõi biến động các muối dinh dưỡng (N và P) là việc hết sức
cần thiết. Các nghiên cứu của Nguyễn Văn Hợp (2005) và Trần Văn Hải
(2006) cho thấy nồng độ N-NO3 tăng dần từ năm 1998 đến năm 2004, và đến
mùa khô năm 2006 nồng độ muối này lại giảm. Vào mùa mưa, do sự rửa trôi
của các chất thải ven bờ vào đầm phá nên hàm lượng muối N-NO3 tăng lên
(dao động trong khoảng 0,02 – 0,4 mg/l). Điều này cũng đúng với nồng độ
PO4-P. Nồng độ PO4-P trong nước đầm phá dao động từ 0,01 – 0,25 mg/l và
có xu hướng tăng lên từ năm 1998 đến năm 2004. Nồng độ NO 3 và PO4 giảm
xuống trong năm 2006. Theo các nhà nghiên cứu, sở dĩ có hiện tượng này là
do việc nuôi tôm trong giai đoạn này thường xuyên bị bệnh nên việc đầu tư
nuôi có hạn chế hơn. So sánh với các tiêu chuẩn chất lượng nước của Canada
thì nồng độ NO3-N và PO4-P trong đầm phá nhiều khi vượt quá mức độ cho
phép. Điều này cho thấy nguy cơ phú dưỡng ở đầm phá là rất cao. Bên cạnh
những nghiên cứu của Trần Văn Hải và Nguyễn Văn Hợp, nhiều nghiên cứu
về chất lượng nước vùng đầm phá đã được thực hiện.
17
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Mô hình nuôi xen ghép tôm, cua, và cá.
- Các mô hình nuôi cá nước ngọt, nuôi thuỷ đặc sản.
- Thông tin về người nuôi, con giống, diện tích hồ ao, thức ăn, chăm sóc
quản lý…
+) Địa điểm nghiên cứu : Xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
+) Thời gian nghiên cứu :đề tài được thực hiện từ tháng 1 năm 2013 đến
tháng 5 năm 2013.
3.2. Nội dung nghiên cứu.
- Điều tra về vị trí địa lý, khí hậu ở xã Hương Phong.
- Điều tra về tình hình nuôi trồng thuỷ sản ở địa bàn xã Hương Phong.
- Điều tra về diện tích, năng suất, nguồn cung cấp con giống, nguồn nước
thức ăn, các yếu tố môi trường, tình hình dịch bệnh và thị trường tiêu thụ sản
phẩm của nghành nuôi trồng thuỷ sản ở xã..
- Điều tra về những thuận lợi cũng như khó khăn của nghề nuôi trồng thuỷ
sản ở xã Hương Phong.
3.3. Phương pháp nghiên cứu.
3.3.1 Số liệu thứ cấp.
Nguồn thông tin được thu thập từ các tài liệu lưu trữ, báo cáo của các cơ
quan chuyên nghành và các cấp chính quyền như Uỷ ban nhân dân (UBND) xã,
phòng nông nghiệp, chi cục nuôi trồng thuỷ sản, trung tâm khuyến ngư.
Các báo cáo khoa học và các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả công bố
trên các sách báo, tạp chí chuyên nghành Thuỷ sản, Nông nghiệp nông thôn…,
trên mạng Internet được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo.
3.3.2 Số liệu sơ cấp.
18
Để có số liệu sơ cấp tôi tiến hành phỏng vấn các hộ dân được lựa chọn
ngẫu nhiên trên địa bàn nghiên cứu để tìm hiểu về tình hình nuôi. Đồng thời
kết hợp trao đổi và thảo luận các vấn đề liên quan đến nội dung và mục đích
nghiên cứu cũng như quan sát tình hình và kết quả nuôi trồng thuỷ sản tại địa
bàn nghiên cứu.
Phỏng vấn không cấu trúc. Là phương pháp sử dụng nhiều nhất trong nuôi
trồng thuỷ sản.
Ưu điểm: Cho phép nghiên cứu viên linh hoạt thay đổi cấu trúc phỏng vấn
tuỳ theo ngữ cảnh và đặc điểm của đối tượng mà mình phỏng vấn. Loại hình này
rất hữu ích trong trường hợp phỏng vấn không chính thức.
Nhược điểm: Không có mẫu chuẩn bị sẵn nên một cuộc phỏng vấn là một
cuộc trò chuyện không lặp lại vì vậy rất khó để tổng hợp và phân tích.
Phỏng vấn bán cấu trúc. Là phương pháp dựa vào bảng hỏi mà nghiên cứu
viên đã chuẩn bị sẵn.
Ưu điểm: Sử dụng bảng hỏi để hỏi sẽ tiết kiệm được thời gian phỏng vấn,
danh mục các câu hỏi sẽ giúp thu thập những thông tin cần thiết nhưng vẫn cho
phép sự linh hoạt cần thiết để thảo luận những vấn đề mới cần phát sinh. Dễ
dàng hệ thống và phân tích số liệu.
Nhược điểm: Cần có thời gian để thăm dò trước chủ đề mà mình cần quan
tâm để xác định chủ đề nói chuyện và thiết lập bảng hỏi.
19
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Kết quả điều tra tình hình nuôi trồng thuỷ sản tại xã Hương Phong.
4.1.1 Tình hình nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt.
Xã Hương Phong có tiềm năng lớn về diện tích mặt nước và nguồn thức ăn
tự nhiên phong phú nên rất thuận lợi cho việc phát triển nuôi cá nước ngọt.
Những năm trước nghề ương nuôi giống cá trắm cỏ (từ cá hương lên cá giống)
rất phát triển, có nhiều hộ dân tham gia và mang lại thu nhập đáng kể cho người
dân. Nhưng vài năm trở lại đây do nhu cầu về giống cá trắm cỏ rất ít nên hầu hết
người dân không còn tha thiết với đối tượng này. Hiện nay tại xã chỉ còn khoảng
29 hộ nuôi cá nước ngọt và hầu hết đã chuyển từ nuôi cá trắm cỏ sang nuôi
thương phẩm cá rô phi, cá rô đầu vuông và thả xen ghép một số loại cá khác như
trắm, mè, trê…
Tổng diện tích ao nuôi nước ngọt tại xã là 14750 m2, trong đó các ao có diện
tích dao động từ 100m2 đến 500m2 [2]. Vị trí của các ao nằm gần sông nên rất
thuận lợi cho việc lấy nước ra vào. Nguồn thức ăn được sử dụng để nuôi cá là cá
loại phụ phẩm nông nghiệp và các loại rau xanh, thực vật thuỷ sinh như: cám
gạo, rau muống, rong chồn và bèo tấm… Những loại thức ăn này phong phú, dễ
kiếm ở địa phương và có giá thành rẻ nên rất thuận lợi cho các hộ nuôi.
Bảng 4.1 Diện tích một số ao nuôi nước ngọt ở xã.
Tên các hộ
STT
Diện tích ao (m2)
1
Hồ Năm
500
2
Ngô Nghịch
500
3
Phan Văn Trung
500
4
Phan Huyên
400
5
Trần Xuân Tống
300
6
Trần Tẩy
150
7
Hồ Tấn Cảm
150
8
Phan Khôi
150
9
Phan Văn Đính
100
20
- Xem thêm -