VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NHƯ QUỲNH
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Khắc Bình.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
hoàn toàn trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
HỌC VIÊN
Nguyễn Như Quỳnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI .. 9
ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT .................................................................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của trẻ khuyết tật ............................................... 9
1.2. Lý luận về Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật ................................... 13
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật .......... 23
1.4. Cơ sở pháp lý về dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật .......................... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ
KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VIỆT – HÀN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................................. 31
2.1. Một số đặc điểm về địa bàn nghiên cứu ............................................................... 31
2.2. Thực trạng về trẻ khuyết tật tại Trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn ....... 36
2.3. Thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật tại
Trung tâm .................................................................................................................... 42
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết
tật tại Trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội ........................ 55
2.5. Đánh giá dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm
phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội .................................................... 56
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI
TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VIỆT – HÀN, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI ............................................................................................................................. 65
3.1. Một số định hướng trong phát triển các dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ
khuyết tật tại Trung tâm .............................................................................................. 65
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội đối
với trẻ khuyết tật tại Trung tâm ................................................................................... 68
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 77
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Chữ viết đủ
1
CTXH
Công tác xã hội
2
DVCTXH
Dịch vụ công tác xã hội
3
PHCN
Phục hồi chức năng
4
TKT
Trẻ khuyết tật
5
NKT
Người khuyết tật
6
GĐTKT
Gia đình trẻ khuyết tật
7
Sở LĐ-TB&XH
8
Nxb
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
Nhà xuất bản
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Số hiệu
Trang
2.1
Cơ sở hạ tầng của trung tâm
34
2.2
Thực trạng về số lượng, cơ cấu của TKT
36
2.3
Mức độ nhu cầu của TKT
40
2.4
DVCTXH đã cung cấp đối với TKT
42
2.5
Sự hài lòng về dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với TKT
44
2.6
Sự hài lòng về dịch vụ y tế, PHCN đối với TKT
45
2.7
Sự hài lòng về dịch vụ giáo dục đối với TKT
48
2.8
2.9
2.10
Sự hài lòng về dịch vụ hướng nghiệp – dạy nghề đối với
TKT
Sự hài lòng về dịch vụ văn hóa, văn nghệ, thể thao và giải
trí đối với TKT
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến thực trạng cung cấp
DVCTXH đối với TKT
50
52
56
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ
Số hiệu
Trang
2.1
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Trung tâm
35
2.1
Mức độ khuyết tật của trẻ
37
2.2
Sức khỏe, tinh thần của TKT
38
2.3
Hoàn cảnh sống của TKT
39
2.4
Mức độ nhu cầu của TKT
41
2.5
2.6
2.7
Mức độ hài lòng về dịch vụ hướng nghiệp – dạy
nghề đối với TKT
Mức độ hài lòng về dịch vụ văn hóa, văn nghệ, thể
thao và giải trí đối với TKT
Mức độ thực hiện các nguyên tắc đạo đức khi làm
việc với TKT của cán bộ Trung tâm
52
54
55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ trẻ em và sự phát triển của trẻ em luôn được coi là những ưu tiên
hàng đầu của đất nước. Việt Nam là một quốc gia đang hướng đến việc xây dựng
một xã hội hòa nhập, bình đẳng và chấp nhận sự khác biệt nên trẻ khuyết tật (TKT)
càng được quan tâm đặc biệt.
TKT bị nhiều thiệt thòi hơn so với các bạn cùng lứa tuổi do chính khuyết tật
mang lại, các em gặp rất nhiều khó khăn và phải trải nghiệm những trạng thái, cảm
xúc không mong muốn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động hay khi tham
gia vào các hoạt động xã hội. Nhưng cũng giống như những trẻ em khác, TKT vẫn
có thể học tập, phát huy tiềm năng để phát triển, giảm bớt gánh nặng cho gia đình
và xã hội nếu được quan tâm và hỗ trợ các dịch vụ phù hợp. Do đó việc chăm lo, hỗ
trợ cho TKT không chỉ có ý nghĩa nhân đạo, từ thiện mà còn là vấn đề mang tính
chất kinh tế, xã hội và pháp lý.
Trong những năm gần đây, sự nỗ lực của Chính phủ và các tổ chức xã hội đã
đáp ứng phần nào nhu cầu được chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng của TKT.
Tuy nhiên, việc cung cấp các dịch vụ công tác xã hội (DVCTXH) đối với TKT còn
nhiều hạn chế, điều đó đã tạo ra khoảng cách khá lớn giữa nhu cầu của TKT và
những đáp ứng của xã hội. Việc bảo đảm cho TKT tiếp cận các dịch vụ y tế, học văn
hoá, học nghề, vui chơi, giải trí, cung cấp thông tin còn gặp rất nhiều khó khăn và
trở ngại; các tiện ích công cộng, đường giao thông đi lại còn thiếu hợp lý để người
khuyết tật có thể sử dụng; thậm chí một số TKT ở ngay tại thành phố lớn còn chưa
được phát hiện cũng như tiếp cận các dịch vụ phù hợp.
Hà Nội là thủ đô, trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, ngoại giao, trung
tâm văn hóa lớn nhất của cả nước. Đặc biệt, sau khi mở rộng địa giới hành chính,
Hà Nội không chỉ tăng quy mô dân số và diện tích. Trong quá trình công nghiệp
hóa, số lượng TKT có xu hướng ngày càng gia tăng thì việc nâng cao chất lượng
cuộc sống cho người khuyết tật nói chung và việc cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu
của TKT nói riêng là mục tiêu quan trọng được thành phố đặc biệt quan tâm và có ý
nghĩa sâu sắc nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội của Thủ đô.
1
Trung tâm Phục hồi chức năng Việt – Hàn là một đơn vị sự nghiệp công lập
trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội với chức năng nuôi
dưỡng, chăm sóc, điều trị, phục hồi chức năng (PHCN) và hướng nghiệp dạy nghề
cho TKT trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trong thời gian qua, Trung tâm đã tiến
hành các DVCTXH đối với TKT theo chức năng, nhiệm vụ song thực tế hiệu quả của
hoạt động này chưa cao. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các hoạt động trợ giúp TKT
mang tính chuyên nghiệp, toàn diện, hiệu quả và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn là
lý do để tôi chọn đề tài: “Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn
Trung tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên
cứu luận văn thạc sỹ ngành công tác xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Nghiên cứu của Quốc tế
- Sự tồn tại của một bộ phận không nhỏ TKT là thực tế khách quan ở tất cả
các nước trên thế giới và ở mọi giai đoạn của lịch sử xã hội loài người. Vấn đề
chăm sóc, giáo dục cho TKT cũng đã được quan tâm trong các giai đoạn lịch sử đó.
Người đầu tiên lập ra một trường công để dạy các học sinh có khuyết tật là ông
Charles Michea, tức linh mục De`L Epee (1700-1789) ở nước Pháp. Năm 1760, ông
đã mở trường quốc gia dạy trẻ câm điếc. Năm 1784, theo gương linh mục De` L
Epee, ông Valentin Haiiy (1745-1822) bắt đầu dạy 12 trẻ em mù ở Paris và lập ra
Trường quốc gia dạy các thiếu niên mù. Cả hai trường này đều được thành lập phần
lớn là nhờ vào sự ủng hộ của nhà vua, được sự bảo trợ của giới quý tộc và nhận các
trường hợp trẻ điếc được giới tăng lữ chăm lo. Trái với các gia sư cũng làm công
việc này, các ông Epee và Haiiiy rất mong muốn chứng minh các phương pháp của
mình và trao đổi kinh nghiệm với người khác. Các ông đã viết sách báo giới thiệu
công việc của mình làm và đã gây được ảnh hưởng tốt đối với nhiều nhà giáo và gia
đình có TKT.
- Hozumi Araki (2011),“Nghiên cứu những nhu cầu của các gia đình có trẻ
khuyết tật tại các nước vùng Đông Á: Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam” trong
Báo cáo nghiên cứu Quốc tế về Phát triển chương trình giáo dục và chữa trị cho trẻ
khuyết tật phát triển. Trường Đại học Ritsumeican, Nhật Bản. Nghiên cứu với mục
2
đích xác định nhu cầu của trẻ khuyết tật phát triển và những khó khăn mà trẻ khuyết
tật phát triển và gia đình của trẻ gặp phải trong quá trình sống nhằm tìm ra giải pháp
hỗ trợ tốt nhất từ phía xã hội [25].
2.2. Nghiên cứu của Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề TKT đã có nhiều nghiên cứu, văn bản của các bộ, ngành
và các cấp chính quyền. Trong luận văn này, chúng tôi liệt kê và đánh giá về một số
tài liệu đề cập đến lĩnh vực DVCTXH đối với TKT có liên quan mật thiết đến đề tài
của chúng tôi như sau:
- “Báo cáo Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam” của tác giả Eric
Rosenthal và Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo
yêu cầu UNICEP Việt Nam năm 2009. Báo cáo đã nêu rõ những quyền của trẻ em
khuyết tật Việt Nam đó là quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử chỉ vì
khuyết tật, quyền tiếp cận những khu vực công và dịch vụ công, quyền sống trong
cộng đồng, quyền được gia đình bảo vệ, quyền được dịch vụ và đủ tiêu chuẩn cuộc
sống, quyền được chăm sóc sức khỏe miễn phí và đặc biệt, quyền được giáo dục,
quyền về danh tính, khai sinh và năng lực pháp lý [18].
- Quỹ Dân số Liên hợp quốc - UNFPA (2009), “Người khuyết tật ở Việt
Nam”. Tài liệu này nhằm đưa ra một bức tranh kinh tế - xã hội sơ bộ về NKT ở Việt
Nam dựa trên phân tích số liệu mẫu 15% của Tổng điều tra dân số 2009 với mục
tiêu là: Thứ nhất, đưa ra một bức tranh chung về tỷ lệ NKT ở Việt Nam; Thứ hai,
đưa ra một số đặc trưng nhân khẩu và kinh tế - xã hội cơ bản của NKT và so sánh
với các đặc trưng của nhóm người không khuyết tật; Thứ ba, đưa ra các gợi ý chính
sách có liên quan đến NKT dựa trên các kết quả phân tích [44].
- Hà Thị Thư (2012), Giáo trình trung cấp nghề “Công tác xã hội với người
khuyết tật”. Tác giả đã tổng hợp khung kiến thức cơ bản có ý nghĩa thiết thực trong
công tác trợ giúp NKT hòa nhập cộng đồng, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc
sống như: những đặc điểm của người khuyết tật (NKT), vai trò và hướng tiếp cận,
kỹ năng, phương pháp tiếp cận trong CTXH với NKT cũng như các chính sách,
pháp luật và dịch vụ hỗ trợ NKT [40].
3
- Đỗ Thị Ngọc Phương, bài viết “Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn
đề đặt ra đối với việc phát triển các dịch vụ công tác xã hội trong công tác bảo vệ
trẻ em” nêu rõ sự cần thiết của việc phát triển dịch vụ đối với công tác bảo vệ trẻ
em. Thực tiễn hiện nay cho thấy một sự thiếu hụt nghiêm trọng các “dịch vụ mang
tính liên tục về bảo vệ trẻ em”. Mặc dù chúng ta đã có những mô hình mang tính
dịch vụ trong thực tế nhưng các dịch vụ chuyên biệt dành cho trẻ em có nguy cơ, trẻ
em bị bóc lột tình dục, trẻ em lao động, trẻ em lang thang…còn rất hạn chế. Bài
viết cũng nêu rõ kinh nghiệm một số nước về hoạt động cung cấp DVCTXH, thông
qua đó cũng chỉ ra được một cách rõ ràng những điểm yếu, thiếu, kém hiệu quả giúp
cho người quản lý thuận lợi trong việc rút kinh nghiệm về các hoa ̣t đô ̣ng BVCSTE
hiê ̣u quả hơn [38].
- Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam – NCCD (2010)
công bố báo cáo về “Hoạt động hỗ trợ Người khuyết tật Việt Nam”. Báo cáo đã
điểm lại những hoạt động trong lĩnh vực NKT như thực trạng NKT; hệ thống luật
pháp về NKT tại Việt Nam; tình hình thực hiện chính sách đối với NKT tại Việt
Nam về nâng cao nhận thức, chăm sóc sức khỏe, giáo dục cho trẻ em khuyết tật, dạy
nghề và việc làm, trợ giúp xã hội, giảm nghèo, tiếp cận giao thông, tiếp cận thông
tin, văn hóa…từ đó đúc rút những bài học kinh nghiệm từ thực tế hoạt động và định
hướng các hoạt động những năm tiếp theo. Báo cáo được xây dựng trên cơ sở tổng
hợp báo cáo của thành viên NCCD, các địa phương, ý kiến của NKT và kết quả
hoạt động Đề án “Hỗ trợ người tàn tật giai đoạn 2006 - 2010” [3].
- Trong cuốn sách “Công tác xã hội với người khuyết tật” của tác giả Nguyễn
Thị Kim Hoa chủ biên, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội phát hành cũng đề
cập đến những nội dung chính: tổng quan về NKT, trải nghiệm khuyết tật và các kỹ
năng thực hành CTXH [21].
- Cuốn “Giáo trình cao đẳng nghề công tác xã hội với trẻ em và gia đình” của
Vũ Thị Kim Dung và Nguyễn Hiệp Thương đồng chủ biên, nhà xuất bản Lao động
– Xã hội phát hành đề cập những định hướng, chỉ đạo hoạt động thực tiễn CTXH,
cung cấp hệ thống lý thuyết, kiến thức và kỹ năng làm việc nhằm trang bị cơ sở nền
4
tảng về lý luận và phương pháp, phương tiện, kỹ năng thực hành cho nhân viên
CTXH trong lĩnh vực hoạt động CTXH với trẻ em và gia đình [11];
- Tài liệu “Công tác xã hội với những cá nhân có nhu cầu đặc biệt” của khóa
đào tạo CTXH cho các nhà quản lý cấp cao (CSWA), thuộc Dự án đào tạo CTXH
tại Việt Nam do các tổ chức MOLISA - ULSA - CFSI- ASI - AP – UNICEF 2012
phối hợp tổ chức do nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 2014. Cuốn tài
liệu này có đề cập chung đến các vấn đề CTXH với các cá nhân có nhu cầu đặc biệt
như: trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người khuyết tật, người có HIV, người cao tuổi,
người mại dâm, người nghiện ma túy, người nghèo CTXH với chăm sóc sức khỏe
tâm thần [16];
- Luận văn “Công tác xã hội với gia đình trẻ khuyết tật từ thực tiễn Trung
tâm phục hồi chức năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội” của tác giả Hồ Quỳnh Ngọc
đã đề cập đến thực trạng, nhu cầu của gia đình, sự tham gia của gia đình vào các
giai đoạn quản lý ca tại trung tâm tuy nhiên tác giả vẫn chưa đi vào vấn đề nhu cầu
và các dịch vụ cung cấp cho chính đối tượng TKT tại trung tâm [36].
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đều nghiên cứu về TKT và DVCTXH.
Tuy nhiên các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức nêu lên quyền của TKT, đánh giá
thực thực trạng DVCTXH nói chung, cơ sở lý luận và thực hành công tác xã hội đối
với người khuyết tật, về các chính sách của nhà nước đối với người khuyết tật, chưa
có đề tài nào nghiên cứu sâu về các DVCTXH cho TKT. Vấn đề DVCTXH đối với
TKT từ thực tiễn Trung tâm PHCN Việt - Hàn, thành phố Hà Nội chưa có nghiên
cứu nào đề cập đến. Vậy nên nghiên cứu ứng dụng về CTXH nhằm nâng cao hiệu
quả dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của TKT Trung tâm PHCN Việt – Hàn là hoàn toàn
không bị trùng lặp và rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về
DVCTXH đối với TKT, chỉ ra thực trạng DVCTXH đối với TKT tại Trung tâm
PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội hiện nay. Từ đó đề xuất một số khuyến nghị,
5
giải pháp nâng cao chất lượng DVCTXH đối với TKT tại Trung tâm PHCN Việt –
Hàn, thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn thực hiện các nhiệm
vụ chủ yếu sau:
Một là: nghiên cứu cơ sở lý luận về DVCTXH đối với TKT.
Hai là: tìm hiểu, đánh giá thực trạng DVCTXH đối với TKT tại Trung tâm
PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp
DVCTXH đối với TKT tại đây.
Ba là: đưa ra được một số định hướng và các giải pháp cơ bản để nâng cao chất
lượng DVCTXH đối với TKT tại Trung tâm PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loại hình DVCTXH đối với TKT tại
Trung tâm PHCN Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn: nghiên cứu được tiến hành tại Trung tâm PHCN Việt – Hàn, thành
phố Hà Nội.
- Thời gian: từ tháng 6 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017.
- Phạm vi đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu các DVCTXH
đối với TKT đó là: dịch vụ can thiệp sớm, dịch vụ chăm sóc - nuôi dưỡng; dịch vụ
giáo dục; dịch vụ hướng nghiệp - dạy nghề; dịch vụ y tế PHCN; dịch vụ hỗ trợ tâm
lý - xã hội; dịch vụ trợ giúp pháp lý và dịch vụ văn hóa, văn nghệ, thể thao, giải trí
cho TKT.
4.3. Khách thể nghiên cứu
- 105 gia đình TKT tại Trung tâm PHCN Việt – Hàn.
- 42 cán bộ, nhân viên đang cung cấp DVCTXH đối với TKT tại trung tâm.
6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong đó, phương pháp luận duy vật biện chứng để xem xét các dịch vụ công tác xã
hội đối với trẻ khuyết tật trong mối quan hệ với các yếu tố môi trường và hệ thống
xung quanh, đặt vấn đề trong một tổng thể. Đặc biệt nghiên cứu, thu thập, xử lý,
khái quát hóa những thông tin, những nghiên cứu thuộc các vấn đề liên quan đến đề
tài từ đó phân tích, tổng hợp nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu:
“Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm phục hồi chức
năng Việt – Hàn, thành phố Hà Nội”.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng của DVCTXH hỗ trợ cho TKT tại Trung tâm PHCN
Việt - Hàn, thành phố Hà Nội đã đáp ứng với nhu cầu thực tế hay chưa? Nhu cầu
của TKT gồm những gì? Những yếu tố tác động đến việc cung cấp DVCTXH tại
trung tâm, nghiên cứu sử dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp phân tích tài liệu: phân tích những văn bản quy định pháp luật,
báo cáo, những công trình nghiên cứu có liên quan tới vấn đề giáo dục hòa nhập,
phục hồi chức năng, can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật và các tài liệu có liên quan đến
CTXH đặc biệt đối với TKT để thu thập và phân tích, đánh giá về các tài liệu liên
quan đến các nội dung của đề tài nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn sâu: tác giả xây dựng mẫu phiếu phỏng vấn sâu dành
cho Ban giám đốc Trung tâm nhằm thu thập các thông tin từ người cung cấp dịch vụ
và những người hỗ trợ trẻ về khả năng đáp ứng cũng như tính hiệu quả của các dịch
vụ, hoạt động trợ giúp cho TKT. Đồng thời cũng nhằm kiểm tra lại mức độ tin cậy
của các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu thu thập qua điều tra, quan sát.
Phương pháp quan sát: quan sát qua các hoạt động thường ngày. Song song
với quá trình điều tra bằng bảng hỏi, các thông tin thu thập được trong quá trình quan
sát sẽ làm cơ sở bổ sung cho các thông tin liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tác giả xây dựng bộ câu hỏi điều tra
thực trạng với các dạng câu hỏi đóng và câu hỏi mở để điều tra đối với 42 cán bộ
Trung tâm và 105 gia đình có con đang PHCN tại Trung tâm nhằm khảo sát về thực
7
trạng DVCTXH đối với TKT tại Trung tâm hiện nay, cũng như là những nhu cầu
của TKT cần được Trung tâm đáp ứng.
Phương pháp đàm thoại: Thông qua các cuộc trò chuyện trực tiếp với trẻ, gia
đình và cán bộ nhân viên Trung tâm để khai thác thông tin, xử lý và phân tích các
thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
Phương pháp thống kê toán học (xử lý số liệu): dùng các phương pháp toán
thống kê để tính toán, xử lý số liệu thu được.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm rõ thêm những vấn đề lý luận trong
DVCTXH đối với TKT, chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng cũng như làm rõ thêm các cơ
sở pháp lý trong cung cấp DVCTXH đối với TKT, góp phần tích cực vào công tác
trợ giúp trẻ em có nhu cầu đặc biệt.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đề xuất một số định hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao
hiệu quả DVCTXH đối với TKT tại Trung tâm. Kết quả nghiên cứu có thể là nguồn
tài liệu tham khảo cho tổ chức và cá nhân nghiên cứu về DVCTXH đối với TKT
hay các vấn đề liên quan.
Dưới góc độ tiếp cận của các lý thuyết, phương pháp công tác xã hội, nghiên
cứu góp phần thay đổi nhận thức của cán bộ nhân viên đang cung cấp các
DVCTXH tại các cơ sở BTXH, các trung tâm, cơ quan quản lý. Nghiên cứu giúp họ
nhận thức đúng về hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp, ý thức được vai trò
của mình trong các hoạt động đó. Đó là nhân tố quyết định chất lượng các
DVCTXH đối với TKT.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về DVCTXH đối với TKT.
Chương 2: Thực trạng DVCTXH đối với TKT từ thực tiễn Trung tâm PHCN
Việt – Hàn, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng DVCTXH đối với TKT tại Trung tâm.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI TRẺ KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của trẻ khuyết tật
1.1.1. Khái niệm trẻ khuyết tật
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “TKT là những trẻ có thiếu hụt cấu trúc
cơ thể hoặc suy giảm các chức năng dẫn đến những hạn chế nhất định trong hoạt
động của cá nhân và gặp khó khăn, trở ngại (do môi trường sống đem lại) trong
việc tham gia đầy đủ và có hiệu quả mọi hoạt động trong xã hội - cộng đồng” [13].
Theo Tổ chức Unicef: “TKT là những trẻ từ 0 – 18 tuổi, không kể những
nguyên nhân của khuyết tật, thiếu một hoặc hơn các bộ phận hoặc các chức năng cơ
thể khiến giảm khả năng hành động và gây khó khăn trong công việc, cuộc sống và
học tập” [18].
Theo quan điểm giáo dục: TKT là nhóm trẻ bị khiếm khuyết một hay nhiều
bộ phận cơ thể, giác quan (thể chất) hoặc chức năng (tinh thần), biểu hiện dưới
nhiều dạng khác nhau, làm suy giảm khả năng lao động khiến cho trẻ gặp nhiều khó
khăn trong lao động, sinh hoạt, học tập, vui chơi [22].
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng khái niệm TKT như sau: TKT là
những trẻ từ 0 – 18 tuổi, bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị
suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho sinh hoạt, học tập, vui
chơi và lao động gặp khó khăn.
1.1.2. Phân loại khuyết tật
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã phân loại khuyết tật thành 08 dạng khuyết
tật như: (1) khó khăn về vận động; (2) khó khăn về nhìn; (3) khó khăn về nghe –
nói; (4) khó khăn về học; (5) hành vi xa lạ, khác thường; (6) động kinh; (7) mất cảm
giác; (8) đa tật [22].
Theo cách phân loại theo Hội đồng giáo dục Hoa kỳ (Luật IDEA năm 1997),
khuyết tật được phân thành 13 dạng khuyết tật bao gồm: (1) tự kỷ, (2) điếc mù, (3)
điếc, (4) rối loạn cảm xúc, (5) khiếm thính, (6) chậm phát triển trí tuệ, (7) đa tật, (8)
9
khuyết tật thể chất, (9) khuyết tật sức khoẻ, (10) khó khăn về học, (11) khuyết tật
ngôn ngữ, (12) tổn thương não, (13) khiếm thị [13].
Ở Việt Nam, theo Luật Người khuyết tật năm 2010, khuyết tật được phân
thành 06 dạng khuyết tật như sau: (1) Khuyết tật vận động, (2) Khuyết tật nghe, nói,
(3) Khuyết tật nhìn, (4) Khuyết tật thần kinh, tâm thầ n, (5) Khuyết tật trí tuệ, (6)
Khuyết tật khác [40].
1.1.3. Mức độ khuyết tật
Theo điều 3 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ, về
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật, có 3
mức độ khuyết tật:
Một là, khuyết tật đặc biệt nặng: những trẻ do khuyết tật dẫn đến mất hoàn
toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi
lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá
nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.
Hai là, khuyết tật nặng: bao gồm những trẻ do khuyết tật dẫn đến mất một
phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được
một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ
nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.
Ba là, khuyết tật nhẹ: gồm những TKT không thuộc các trường hợp được
quy định tại hai mức độ trên [10].
1.1.4. Đặc điểm tâm, sinh lý của trẻ khuyết tật
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội bao giờ cũng tồn tại một bộ
phận những người khuyết tật. Theo tổ chức Y tế thế giới, số người khuyết tật chiếm
khoảng 10% dân số, trong đó có 1/3 là trẻ em. Ở Việt Nam, theo thống kê chưa đầy
đủ, có khoảng gần 1 triệu trẻ thuộc các dạng khuyết tật khác nhau. Như vậy, sự tồn
tại của TKT là một thực tế khách quan [20].
Có thể nhận thấy mỗi TKT là một bức tranh điển hình hết sức đa dạng,
phong phú về sự phát triển nhận thức, tình cảm, hành vi trong nhân cách. Chúng có
khả năng, nhu cầu và sở thích riêng, có cách thể hiện riêng.
10
Về khả năng phát triển: theo quan điểm của Tật học hiện đại thì TKT không
phải ít phát triển hơn sơ với trẻ bình thường mà chúng phát triển theo một chiều
hướng khác. Với những hình thức, tốc độ và mức độ khác nhau, tất cả mọi TKT đều
có khả năng nhận thức. Bên cạnh đó, khuyết tật thường có cơ chế bù trừ (đặc biệt là
ở hoạt động của các giác quan), trừ khuyết tật nặng và rất nặng [20].
Về tâm lý: do những khiếm khuyết về chức năng và cơ thể, TKT thường có
tâm lý xấu hổ, mặc cảm, tự ti, dễ bị tổn thương, dễ bị kích động, hay tự ái và khó
kiểm soát phản ứng. Một số trẻ có ý chí, nghị lực cao, đặc biệt là trẻ bị khuyết tật
vận động. Một số trẻ có trẻ có tâm lý thái quá, ỉ nại khi được chăm sóc nuông chiều,
có trẻ có cảm giác bị bỏ rơi khi sống trong các gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
Về ngôn ngữ giao tiếp: TKT gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp và khó thích
ứng với môi trường xung quanh nhưng rất cởi mở, dễ gần và thích được giao tiếp,
được vui chơi. Khi được tham gia vào các hoạt động trong môi trường hòa nhập tại
cộng đồng, xã hội, nhà trường và gia đình thì TKT mới có cơ hội được bộc lộ, thể
hiện một cách đầy đủ và rõ nét nhất khả năng và nhu cầu của mình. Đồng thời, đó
cũng là cách giảm thiểu được những ảnh hưởng bất lợi của khuyết tật đối với các
chức năng hoạt động cơ thể khác và không làm xuất hiện "khuyết tật thứ hai” ở trẻ.
Nói chung, TKT cũng có những nhu cầu cơ bản và khả năng nhất định tuy ở
những mức độ khác nhau so với trẻ em bình thường. Tuy nhiên với TKT cần những
lưu ý, nhu cầu đặc biệt riêng và những nhu cầu đặc biệt này liên quan đến những
hạn chế trong phát triển của mỗi trẻ và những dạng khuyết tật mà trẻ không may
mắc phải. Việc hiểu rõ đặc điểm tâm lý và bản sắc của TKT là rất quan trọng để
cung cấp các DVCTXH phù hợp trong việc hỗ trợ, trợ giúp giải quyết các vấn đề
của trẻ, giúp trẻ thích ứng và tự tin hòa nhập xã hội.
1.1.5. Đặc điểm nhu cầu của trẻ khuyết tật
TKT cũng có tất cả những nhu cầu như trẻ bình thường (Bậc thang nhu cầu
của Maslow) nhưng do ảnh hưởng của khuyết tật, đặc điểm về thể chất và tâm lý
nên TKT có những nhu cầu đặc trưng sau đây [13]:
- Nhu cầu về sinh lý, thể chất: hầu hết những TKT do bởi ảnh hưởng của
khuyết tật nên rất cần được giúp đỡ về vật chất để tồn tại và sinh sống, đặc biệt
11
những TKT vận động, bại não hay TKT ở mức độ đặc biệt nặng cần cả những sự
giúp đỡ đặc biệt khi ăn uống và các hoạt động sinh hoạt bình thường.
- Nhu cầu đảm bảo an toàn của TKT về mặt tinh thần đang là một thách thức
rất lớn. Hầu hết các em đều phải trải qua những trạng thái tâm lý lo lắng, bất an
trong cuộc sống bởi có nhiều vấn đề gây ra sự không an toàn của họ. TKT có nhu
cầu đảm bảo an toàn về vật chất trong cuộc sống như nơi học tập, làm việc, sinh
hoạt và đặc biệt khi tham gia giao thông công cộng, như TKT vận động ngồi xe lăn
khi đường cần có đường dành riêng cho xe lăn, trẻ khiếm thị qua đường cần có đèn
và chuông báo hiệu xin đường...
- Nhu cầu xã hội, tình cảm: TKT do sự tự ti, mặc cảm; do sự kỳ thị của mọi
người xung quanh nên có nhu cầu rất mạnh mẽ là nhận được sự yêu thương, gắn bó
chia sẻ và nhìn nhận một cách tích cực của mọi người, được mọi người công nhận một
cách bình đẳng như những trẻ em khác trong xã hội.
- Nhu cầu tự trọng và được người khác tôn trọng: nhiều TKT có lòng tự
trọng cao, thậm chí một số trẻ còn ở mức độ thái quá. Tuy nhiên, một số người cũng
không nhận ra giá trị và khả năng của chính mình nên không đánh giá đúng vai trò
của mình đối với các mối quan hệ trong xã hội. Vì vậy mong muốn của họ là làm
thế nào để hiểu vai trò, vị trí của họ trong gia đình cộng đồng và xã hội.
- Nhu cầu phát triển: để phát triển cá nhân và vươn lên khẳng định mình thì
TKT cần được hưởng các dịch vụ xã hội bình đẳng và công bằng như mọi người
khác, đó là được tham gia vào tất cả các hoạt động trong đời sống hàng ngày, được
làm việc, sinh hoạt vui chơi, giải trí như mọi người khác và theo khả năng của chính
cá nhân mình.
Việc đáp ứng các nhu cầu này cho TKT thường gặp những khó khăn nhất
định, một số nhu cầu bậc cao của các em ít có cơ hội được đáp ứng như học văn
hóa, học nghề, tìm kiếm việc làm, tiếp cận dịch vụ xã hội. Chính vì vậy, đối với
TKT thì ngoài sự cố gắng của bản thân, các em rất cần sự hỗ trợ phù hợp từ phía gia
đình và cộng đồng để các em có thêm cơ hội được đáp ứng các nhu cầu.
12
1.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật
1.2.1. Một số khái niệm:
1.2.1.1. Dịch vụ, dịch vụ xã hội
Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con
người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể hữu hình như
hàng hoá nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội [15].
Dịch vụ xã hội là các hoạt động cụ thể được xây dựng trên cơ sở chính sách
xã hội được triển khai nhằm đáp ứng nhu cầu cá nhân, gia đình và cộng đồng, nhằm
giải quyết những vấn đề xã hội. Các dịch vụ xã hội là các hoạt động của nhân viên
xã hội và những nhà chuyên nghiệp khác nhằm nâng cao sức khỏe và chất lượng
sống của con người và giúp đỡ con người không phụ thuộc; củng cố các mối quan
hệ gia đình; khôi phục chức năng xã hội đối với cá nhân, gia đình, nhóm và cộng
đồng (Whitaker anh Federico, 1990) [15].
Theo tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Tuấn (2012) cho rằng: dịch vụ xã hội là
dịch vụ đáp ứng nhu cầu của cộng đồng cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò
đảm bảo phúc lợi xã hội, đề cao giá trị pháp lý, nhân văn, vì con người; là hoạt động
mang bản chất kinh tế - xã hội, do nhà nước, thị trường hoặc xã hội dân sự cung
ứng, tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay tư của từng loại hình dịch
vụ, bao gồm các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, văn hóa thông tin, thể dục - thể thao và các trợ giúp xã hội khác [21].
Như vậy dịch vụ xã hội là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các cá
nhân, nhóm người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội. Với
nhóm yếu thế, DVXH là các hoạt động có chủ đích của con người nhằm phòng
ngừa - hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ bản và thúc
đẩy khả năng hoà nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu thế.
1.2.1.2. Khái niệm Công tác xã hội
Theo IFSW và IASSW (2011): Công tác xã hội được xem như một là nghề
nghiệp tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và
thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực
nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về
13
hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con
người với với môi trường sống [15, tr.7].
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2010): CTXH được xem là một nghề, một
hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng
cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy
môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình
và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh
xã hội [34].
Như vậy, từ các quan niệm trên có thể khẳng định: CTXH là một nghề, một
hoạt động chuyên nghiệp, một khoa học thực hiện nhiệm vụ chức năng xã hội giao
phó và được xã hội thừa nhận. Các chính sách, chương trình và dịch vụ CTXH được
triển khai bởi bộ máy tổ chức theo một ngành dọc và liên ngành. Bên cạnh đó,
CTXH được thực hiện trên một nền tảng hệ giá trị, nguyên tắc, yêu cầu nghề nghiệp
theo quy định của pháp luật. Đồng thời, CTXH còn là một ngành khoa học, bao
gồm hệ thống kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực hành được đào tạo ở nhiều trình
độ khác nhau.
1.2.1.3. Khái niệm dịch vụ công tác xã hội
Dịch vụ công tác xã hội có thể được coi là một loại hình dịch vụ xã hội được
cung cấp bởi các nhân viên công tác xã hội [33].
Vậy DVCTXH là một hoạt động chuyên nghiệp của Công tác xã hội gồm
hoạt động của các nhân viên công tác xã hội hoặc những nhà hoạt động xã hội nhằm
hỗ trợ, kết nối các cho các đối tượng yếu thế trong xã hội được tiếp cận các dịch vụ
xã hội phù hợp để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của các đối tượng này với mục tiêu
khắc phục rủi ro, giúp cho con người phát triển mà không bị phụ thuộc, góp phần
đảm bảo an sinh xã hội [35].
1.2.1.4. Khái niệm Dịch vụ công tác xã hội với trẻ khuyết tật:
Dịch vụ công tác xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế chính là việc cung
cấp các hoạt động mang tính chất phòng ngừa – khắc phục rủi ro và hòa nhập cộng
đồng cho các nhóm đối tượng yếu thế dựa trên các nhu cầu cơ bản của họ nhằm
đảm bảo các giá trị và chuẩn mực xã hội [43].
14
- Xem thêm -