Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Di tích lịch sử và lễ hội Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở huyện Vĩnh Bảo, Hả...

Tài liệu Di tích lịch sử và lễ hội Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng

.PDF
104
630
149

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI II KHOA: LỊCH SỬ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ LỄ HỘI ĐỀN TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM Ở HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐỖ THỊ TRANG LỚP: K35 CỬ NHÂN LỊCH SỬ GV HƯỚNG DẪN: NGUYỄN VĂN NAM HÀ NỘI: 2013 1 LỜI CẢM ƠN Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch sử, trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã dạy dỗ, chỉ bảo và truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường cũng như trong quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp này. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Văn Nam đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện khoá luận tốt nghiệp này. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người thân đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Trong quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp, do thời gian có hạn và bước đầu làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học nên không thể tránh khỏi những thiếu xót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo, cô giáo và các bạn sinh viên. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người thực hiện Đỗ Thị Trang 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận này là do sự cố gắng, nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu của bản thân với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Nguyễn Văn Nam. Công trình này không trùng lặp với các kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Người thực hiện Đỗ Thị Trang 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................6 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .....................................................................................7 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................8 4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................9 5. Đóng góp của khóa luận.........................................................................................9 6. Bố cục của khóa luận .......................................................................................... 10 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THÂN THẾ SỰ NGHIỆP TRẠNG TRÌNH ....... NGUYỄN BỈNH KHIÊM ............................................................................ 11 1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI, VĂN HÓA HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG ..................................................................... 11 1.2. THÂN THẾ SỰ NGHIỆP CỦA TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM ...................................................................................... 15 1.3. TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM TRONG TÂM THỨC CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM ..................................................................................... 25 Chương 2: DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ LỄ HỘI ĐỀN TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM Ở VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG ............................. 26 2.1. DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM ....... 26 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ngôi đền ........................................... 31 2.1.2. Khu di tích đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm .............................. 34 2.1.2.1. Nhà thờ chính .................................................................................. 34 2.1.2.2. Bạch Vân Am .................................................................................. 35 2.1.2.3. Nhà thờ song thân phụ mẫu của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm .. 39 2.1.2.4. Phần mộ cụ Nguyễn Văn Định ........................................................ 40 2.1.2.5. Tháp bút Kình Thiên........................................................................ 41 2.1.2.6. Chùa Song Mai ................................................................................ 41 2.1.2.7. Quán Trung Tân .............................................................................. 44 4 2.1.2.8. Nhà trưng bày hiện vật..................................................................... 46 2.1.2.9. Các hạng mục công trình khác trong khu di tích .............................. 47 2.2. LỄ HỘI ĐỀN TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM .......................... 48 2.2.1. Công tác chuẩn bị ............................................................................... 48 2.2.2. Lễ hội ................................................................................................. 49 2.2.2.1. Phần lễ ............................................................................................. 49 2.2.2.2. Phần hội........................................................................................... 51 2.2.3. Công tác duy trì, bảo tồn di tích và lễ hội đền Nguyễn Bỉnh Khiêm ... 53 2.2.3.1. Công tác quản lý bảo tồn, tôn tạo di tích .......................................... 53 2.2.3.2. Hoạt động tâm linh ở khu vực Đền .................................................. 54 2.2.3.3. Công tác quản lý các hoạt động tâm linh ở Đền ............................... 56 Chương 3: VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ LỄ HỘI ĐỀN TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM Ở VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG .. 59 3.1. ĐẶC ĐIỂM ...................................................................................................... 59 3.1.1. Đây là khu di tích và lễ hội có từ lâu đời, “ăn sâu tiềm thức” của nhân dân ....................................................................................................... 59 3.1.2. Đây là khu di tích và lễ hội lớn nhất về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ...... 60 3.1.3. Đây là khu di tích và lễ hội có nhiều nét độc đáo riêng ....................... 61 3.2. VAI TRÒ .......................................................................................................... 64 3.2.1. Thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân ....................................... 64 3.2.2. Giá trị giáo dục truyền thống .............................................................. 66 3.2.3. Cố kết cộng đồng ................................................................................ 67 3.2.4. Giá trị kinh tế, xã hội .......................................................................... 68 KẾT LUẬN.................................................................................................. 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . .................................................................71 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Có thể nói di tích lịch sử cùng với lễ hội truyền thống luôn là một đề tài phong phú, bởi đây là những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng quý báu được ông cha ta gìn giữ và để lại cho con cháu đến tận ngày nay. Trải qua những năm tháng hào hùng của lịch sử nước nhà, cho đến nay tất cả những di tích lịch sử cùng với lễ hội truyền thống của Việt Nam vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống và có sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Vĩnh Bảo, Hải Phòng là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, một vùng quê nổi tiếng với những khu di tích, những lễ hội truyền thống gắn liền với từng giai đoạn phát triển lịch sử của dân tộc như: chùa Mét, miếu Bến, chùa Đồng Quan, miếu Cựu Điện, miếu Ba Vua... Trong đó, đặc biệt phải kể đến khu di tích đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng với lễ hội kỷ niệm ngày mất danh nhân - một con người vĩ đại, không chỉ là niềm tự hào của nhân dân Vĩnh Bảo mà còn là niềm hào của toàn thể dân tộc Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có khoảng hơn 800 lễ hội truyền thống cùng với số lượng di tích quốc gia vô cùng lớn nhưng di tích đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng với lễ hội tại đây đã để lại cho nhân dân Vĩnh Bảo cũng như những người tới đây nhiều cảm xúc, ý nghĩa và hoài niệm riêng. Nghiên cứu sâu hơn về khu di tích và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm góp phần vào việc tìm hiểu về danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, quá trình hình thành và phát triển của ngôi đền cùng với các di tích liên quan tới ông. Ngoài ra, bên cạnh việc tìm hiểu về những giá trị còn được lưu giữ lại ở khu di tích và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về nhiều mặt văn hóa, tư tưởng, giáo dục, kinh tế còn góp phần để đưa ra những chính sách bảo tồn, tôn tạo di tích cùng lễ hội sao cho phù hợp với thực tiễn. 6 Với những lý do trên, đề tài Di tích lịch sử và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một hiện tượng hiếm thấy được nhắc đến với tư cách một nhà thơ, thà tư tưởng lớn, một người thầy danh tiếng và một nhà văn hóa. Ông sống trọn thế kỷ XVI, được đánh giá là “trong bóng rợp của cây đại thụ này còn che trùm nhiều năm tháng mãi về sau”. Đến nay vẫn còn một vài ý kiến chưa thống nhất về tư tưởng triết học, về nhân sinh quan và cả vài khía cạnh trong thơ ông. Song hầu như khá thống nhất khi nhận định đánh giá về vị trí, vai trò của ông trong nền văn học nước nhà. Trong tâm thức nhân dân ông luôn được nhắc đến với lòng ngưỡng mộ về sự nghiệp lẫn cuộc đời trong tư tưởng cùng thơ ca, về tài năng và nhân cách. Do đó mà Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn là một đề tài được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các tác phẩm viết về ông chủ yếu nghiên cứu về cuộc đời, sấm ký, giai thoại, thơ văn: Tác giả Phạm Đan Quế với Giai thoại và sấm ký Trạng Trình, tác giả Nguyễn Nghiệp với tác phẩm Trạng Trình sấm và ký. Trong hai tác phẩm này, tác giả cũng đã phác họa cơ bản về tiểu sử, giai thoại, đặc biệt là sấm ký Trạng Trình. Ngoài ra, trong tác phẩm còn nêu những nhận định của một số nhà nghiên cứu, đây là hai trong những tác phẩm hay để tham khảo về Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong cuốn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (kỷ yếu Hội nghị khoa học nhân 400 năm ngày mất của danh nhân) cũng là một tác phẩm có nhiều đánh giá về phẩm chất cũng như tài năng Nguyễn Bỉnh Khiêm khi tìm hiểu về ông. Tác giả đã dựa trên sự nghiên cứu lâu dài, thu thập nhiều tài liệu để có được cái nhìn đúng nhất về cuộc đời, thơ văn, sấm ký của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 7 Bên cạnh đó còn rất nhiều những tác phẩm khác như: Sấm Trạng Trình của tác giả Phạm Minh Thảo, Văn hóa trên quê hương Trạng của Phòng Văn hóa thông tin Vĩnh Bảo, Giai thoại Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm của Lương Cao Rính sưu tầm, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và di tích do Uỷ ban Nhân dân xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo soạn thảo... Trong tất cả những tác phẩm trên chỉ có cuốn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và di tích do Ủy ban Nhân dân xã Lý Học soạn thảo là đề cập nhiều đến di tích lịch sử và những di tích liên quan đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Song chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống, lô gic về quần thể di tích và lễ hội đền Trạng, một trong những khu di tích lịch sử và lễ hội lớn nhất Hải Phòng. Tuy nhiên với nhiều tài liệu nghiên về Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là những tư liệu quý giá để tác giả có thể kế thừa và hoàn thiện được khóa luận của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Mục đích Khóa luận tìm hiểu về di tích lịch sử và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ: Thứ nhất: Khái quát về thân thế sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Thứ hai: Tìm hiểu về di tích lịch sử, lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Qua đó, nắm được những điểm mạnh và thực trạng còn tồn tại để đưa ra một số giải pháp bảo tồn và phát triển di tích cũng như lễ hội tại đây. Thứ ba: Phân tích vai trò, đặc điểm của khu di tích và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm 8 Đối tượng Di tích lịch sử và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Phạm vi nghiên cứu: Thời gian - Tập trung nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của di tích đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từ năm 1585 đến 2012. - Tìm hiểu về lễ hội đền Trạng từ 1927 đến 2012. Không gian Khu di tích, lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Ngoài ra tác giả còn có sự tìm hiểu về những đi tích liên quan đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại các địa phương khác ở Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Thái Bình, Nam Bộ 4. Phương pháp nghiên cứu Công trình nghiên cứu dựa trên cơ sở thế gới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về nghiên cứu Lịch sử. Khi nghiên cứu đề tài, người viết sử dụng kết hợp giữa phương pháp lịch sử, phương pháp logic là phương pháp chủ đạo. Bên cạnh đó, khóa luận còn sử dụng phương pháp: miêu tả, tường thuật, sưu tầm, thu thập, xử lí tư liệu, thống kê, phân tích, so sánh để xác minh sự kiện, nội dung lịch sử. 5. Đóng góp của khóa luận Về mặt lý luận: Đề tài góp phần vào việc tìm hiểu về danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quá trình hình thành và phát triển của ngôi đền cùng với các di tích liên quan tới ông. Bên cạnh đó, công trình cũng nghiên cứu những giá trị truyền thống còn được lưu giữ lại trong lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. 9 Về mặt thực tiễn: Khóa luận có đóng góp về mặt tư liệu cho những ai quan tâm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng với những di tích và lễ hội đền liên quan đến ông. Qua đó có thể thấy được giá trị về mặt văn hóa, tư tưởng, giáo dục, kinh tế để vạch ra những chính sách bảo tồn, tôn tạo di tích cùng lễ hội sao cho hợp lý. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận gồm ba chương: Chương 1: Khái quát về thân thế sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Chương 2: Di tích lịch sử và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng Chương 3: Vai trò, đặc điểm di tích lịch sử và lễ hội đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng. 10 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ THÂN THẾ SỰ NGHIỆP TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM 1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI, VĂN HÓA HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG Điều kiện tự nhiên: Huyện Vĩnh Bảo nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam thành phố Hải Phòng, có diện tích đất tự nhiên trên 180 km2, dân số trên 19 vạn (16.1). Huyện nằm trên vùng hạ lưu sông Thái Bình, bao bọc quanh là sông Luộc, sông Hóa. Phía Đông Bắc giáp huyện Tiên Lãng (Hải Phòng). Phía Tây bắc giáp huyện Ninh Giang, Tứ Kỳ (tỉnh Hải Dương). Phía Đông Nam, Tây Nam giáp huyện Quỳnh Phụ, Thái Thuỵ (tỉnh Thái Bình). Vĩnh Bảo có quốc lộ 10 và quốc lộ 37 đi qua là điểm nối giữa Quảng Ninh, Hải Phòng và các tỉnh phía Nam. Chính trị: Huyện có 1 thị trấn và 29 xã (Tam Đa, Nhân Hòa, Hưng Nhân, Giang Biên, Dũng Tiến, Việt Tiến, Vĩnh An, Vĩnh Long, Thắng Thủy, Trung Lập, Hiệp Hòa, An Hòa, Hùng Tiến, Tân Liên, Tân Hưng, Vinh Quang, Đồng Minh, Thanh Lương, Cộng Hiền, Tiền Phong, Vĩnh Phong, Cao Minh, Tam Cường, Liên Am, Cổ Am, Lý Học, Hòa Bình, Vĩnh Tiến, Trấn Dương). Kinh tế - Văn hóa – Xã hội: Vĩnh Bảo là địa phương giàu truyền thống lịch sử cách mạng, văn hoá, truyền thống hiếu học, là quê hương của Danh nhân văn hoá Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lịch sử hình thành vùng quê Vĩnh Bảo gắn với giai đoạn phát triển châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình. Mảnh đất này từ ngàn xưa đã có nghề trồng lúa nước. Quá trình hình thành đất đai, sự xuất hiện của cộng đồng làng 11 xã và cung cách làm ăn đã tạo nên một Vĩnh Bảo có nền văn hóa đậm nét xứ Đông – vùng văn hóa Bắc Bộ. Do vậy, Vĩnh Bảo không chỉ là huyện trọng điểm lúa của Hải Phòng, mà còn là một vùng quê giầu truyền thống văn hóa. Nơi đây, một thời Việt cổ đã từng ghi những dấu ấn vàng son về đạo đức, về võ công, về sự nghiệp kinh bang tế thế. Từ một nghìn năm trăm năm trước (504) đã có Nguyên soái Cao Đức Lang (người làng Hu Trì – Vinh Quang) từng được biết đến với “Đinh tiền, Lê hậu nhất nhân” gắn liền với sự nghiệp của Lý Bí dựng nước Vạn Xuân. Rồi đến thế kỷ XIII, có đô đốc Quận công Hoa Duy Thành (Đồng Minh) đã từng nổi danh trong việc hộ giá vua Trần đánh giặc, tham chiến trên Bạch Đằng giang, bắt sống tướng giặc Ô Mã Nhi. Được vua Trần sắc phong: “Hùng kiệt dũng quả, Hổ quốc an dân, Đương cảnh thành hoàng, Ngưng Hưu Trung Đẳng thần” Sử sách thời xưa đã từng ghi rằng: Vĩnh Bảo có nhiều người đỗ đại khoa, có một trạng nguyên, một bảng nhãn, một hoàng giáp, một phó bảng và 11 đồng tiến sĩ [12, tr.8]. Tiêu biểu nhất là danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), một nhà trí thức rực rỡ một thời và tiêu biểu cho nhiều tầng lớp trí thức Việt Nam. Đó là Tô Phú Vượng (Bảo Hà – Đồng Minh) một nghệ nhân, người trong tù dùng ngón tay khắc nên đàn voi từ những hạt gạo, được vua Lê phong là Hoàng Tín đại phu Kỳ tái hầu... “Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện”, thành ngữ này giới thiệu một địa danh tiêu biểu cho “đất học”, “đất quan” ở hai vùng xứ Đông và xứ Nam. Cổ Am là vùng quê tiêu biểu cho Vĩnh Bảo giàu truyền thống văn hóa và hiếu học. Ngày xưa, là tiến sĩ Trần Công Hân (khoa Ất Sửu – 1775), ngày nay có tới 40 người có học vị tiến sĩ, trong đó có nhiều nhà khoa học, văn nghệ sĩ có tên tuổi [12, tr.8]. Kinh tế của Vĩnh Bảo chủ yếu nông nghiệp và thủ công nghiệp đặc biêt có nhiều nghề thủ công truyền thống khá nổi tiếng như: dệt vải, dệt thảm, chiếu 12 cói, mây tre đan, tạc tượng, sơn mài, điều khắc gỗ, thêu mỹ nghệ, thuốc lào...đó đều là những nghề truyền thống rất có tiềm năng cần được đầu tư phát triển. Với một bề dày lịch sử cũng như sự phong phú về văn hóa Vĩnh Bảo được lưu giữ như “bảo tàng sống” ở các nghành nghề truyền thống, lễ hội dân gian ở các làng xã. Có thể kể đến nghề dệt vải Cổ Am nổi tiếng ở Kinh kỳ từ thế kỷ XV, nghề sơn mài, điêu khắc, tạc tượng ở Đồng Minh, “Bàn tay ta khắc gỗ nên vàng” của các nghệ nhân làng nghề Bảo Hà với lối tả thực sinh động, tạo nên dòng tượng độc đáo, đậm yếu tố dân gian. Tượng ở đây có hồn, chiêm ngưỡng dòng tượng này ta thấy được cả mạch máu đang chảy, tiếng cười sảng khoái mãn nguyện sau mỗi việc làm, cả tiếng thở dài trước nhân tình thế thái. Pho tượng Nguyễn Công Huệ, tượng Linh Lang Đại Vương, hàng chục pho tượng Phật đang thờ ở miếu Bảo Hà, chùa Miễu (Đồng Minh) là những kiệt tác do con cháu Kỳ tài hầu Tô Phú Vượng nối nhau chế tác. Đặc sắc hơn cả là từ vỏ dừa, xơ mướp, hoa quả trong vườn, qua “bàn tay vàng” của các nghệ nhân Nhân Mục (Nhân Hòa) trở thành các con giống, những mâm ngũ quả, những rồng, phượng, chim muông... nhiều màu sắc, nhiều dáng cầu kỳ tinh xảo, dựng lại những huyền thoại dân gian của làng. Những bàn tay tàu hoa ấy còn tạo nên cả ngôi cổ tự mà chỉ bằng những dóng mía xếp, quả cà, quả ớt...Hơn 20 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng và hệ thống đình, đền, chùa, miếu hiện có ở hầu khắp các làng xã Vĩnh Bảo được bảo tồn đến ngày nay không những là bằng chứng về sự tham gia của những chủ nhân đất Vĩnh Bảo từ thời Hùng Vương; là nguồn tư liệu lịch sử, mà còn là những công trình kiến trúc độc đáo của cha ông, là kết tinh tài hoa, khiếu thẩm mỹ của người Vĩnh Bảo, vốn quý của kho tàng văn hóa một vùng. Đó là đình An Quý (cột đá, thềm đá), đình Quán Khái (Vĩnh Phong), đình Nhân Mục, miếu Cựu Điện (Nhân Hòa)...Chùa trăm cột (Vĩnh Tiến) có quy mô bề thế mà thanh thoát, uyển chuyển do mái đao cong vút “cửa tùng, khung 13 khách” các bộ vì kèo, đầu rư...đặc biệt là cửa võng, hoành phi tinh xảo. Đồ tế khí tế tự, bát hương, chân đèn, ngũ sự, bát bửu có niên đại từ thế kỷ XI đến XVII cuả đình Mục. Hay ngọn núi nhân tạo lớn nhất Hải Phòng ở miếu Cựu Điện (Nhân Hòa) có đủ suối khe, có thiền am, có đài điếu ngư...tạo nên cảnh sơn thủy hữu tình là những bảo vật, những công trình kiến trúc nghệ thuật dân tộc độc đáo. Lễ hội dân gian ở Vĩnh Bảo chứa đựng nhiều giá trị văn hóa vật chất và tinh thần gắn liền với những di tích lịch sử, văn hóa, những kỳ tích của các danh nhân, danh tướng và những tập tục sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian của địa phương. Đó là hội thi pháo đất ở các xã thuộc tổng Đông (Tân Liên, Việt Tiến, Vĩnh An) và tổng Bắc (Thắng Thủy, An Hòa...) mà tương truyền có từ thời Hai Bà Trưng, là thú chơi độc đáo của cư dân lúa nước, mang sắc thái dân gian, thể hiện sự gắn bó với đất đai và tràn đầy tinh thần thượng võ. Vĩnh Bảo còn rất nổi tiếng với nghệ thuật múa rối nước ở Nhân Hòa, múa rối cạn Đồng Minh. Mỗi một nơi có những nét độc đáo riêng của mình. Rối nước Nhân Hòa với những tích trò đa dạng, gần gũi với đời thường. Đáng quý là cảnh chế tác các loại pháo hoa, có loại pháo phụt lên tỏa sáng từ dưới mặt nước, có loại pháo đầy màu sắc trên không trung tạo ra không khí náo nhiệt, huyền ảo, kỳ vĩ của buổi diễn. Phường rối cạn Bảo Hà – Đồng Minh lại có nghệ thuật độc đáo khác. Nghệ nhân ở vùng này cũng tự chế tác các con giống, họ đều khiển con rối khác hẳn với các phường rối khác ở Việt Nam. Đỉnh cao tài năng là ở: Con rối tự mặc áo, cởi áo, phi ngựa. Trò diễn cũng vậy, những sinh hoạt đời thường, những vở Thạch Sanh, Trương Viên, những đoạn trích chèo cổ đều được phường dàn dựng biểu diễn bởi bàn tay thông minh, tài nghệ. Nghệ thuật làm con rối và làn điệu chèo, các lời thoại mộc mạc cũng đủ quyến rũ du khách trong và ngoài nước khi tới thưởng thức. 14 Văn hóa ẩm thực Vĩnh Bảo cũng có những nét riêng. Trước hết là các loại bánh: bánh trôi, bánh hú, bánh khoai, bánh đúc...được chế biến từ nông sản: gạo, ngô, khoai, đỗ, sắn, lạc, vừng... Nhân dân Vĩnh Bảo luôn cố gắng giữ gìn và phát huy truyền thống của vùng quê văn hóa, Vĩnh bảo đã sưu tầm và xây dựng được phòng truyền thống, đầu tư mở mang, nâng cấp khuôn viên một số di tích lịch sử, văn hóa, đầu tư khai thác và phát huy tiềm năng văn hóa dân gian các làng xã. Với bề dày lịch sử và phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội cùng với sự quan tâm của các cấp ủy chính quyền, sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân và với truyền thống của quê hương Danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, mảnh đất hứa hẹn những bước đi vững chắc trong thế kỷ XXI. 1.2. THÂN THẾ SỰ NGHIỆP CỦA TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), năm Hồng Đức thứ 21 đời vua Lê Thánh Tông. Thủa nhỏ ông có tên là Nguyễn Văn Đạt. Ông sinh ra và lớn lên tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Cha của Nguyễn Bỉnh Khiêm tên là Nguyễn Văn Định được phong tước Thái Bảo nghiêm quận công, đạo hiệu là Cù Xuyên tiên sinh. Cụ văn Định học rộng tài cao, có đức tốt đã có lần sung chức Thái học sinh đời Lê. Mẹ Trạng là Nhữ Thị Thục – Từ thục phu nhân, là con quan Thượng thư Bộ Hộ Nhữ Văn Lan ở làng Am Tử Hạ (Tiên Lãng). Bà là một người phụ nữ có tính cách mạnh mẽ, khác thường, nổi tiếng là người tinh thông Hán học và giỏi thuật số. Bà kén chồng, khi ngoài 30 tuổi, thấy Văn Định có tướng sinh quý tử mới lấy. Nguyễn Văn Đạt từ nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng, lại được bố mẹ hết lòng dạy dỗ, rèn cặp nên năng khiếu thông minh ngày càng bộc lộ. Một tuổi 15 đã nói sõi, năm tuổi đã thuộc nhiều thơ ca quốc âm do mẹ truyền khẩu. Sau này Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thừa nhận ông chịu nhiều ảnh hưởng của giáo dục gia đình: “Tôi lúc nhỏ được dạy dỗ của gia đình, trưởng thành thi đỗ ra làm quan, cuộc đời ưa ẩn dật” (Bạch Vân Am thi tập) Năm 1497, khi lên 7 tuổi Nguyễn Văn Đạt phải sống với cha, vì mẹ đã bỏ về quê ngoại vì bất đồng với cha trong việc dạy dỗ con cái. Nguyễn Văn Đạt theo học thầy Dương Đức Nhan – Người Hà Dương (Cộng Hiền). Năm 18 tuổi (1509), Nguyễn Văn Đạt vào Thanh Hóa theo học Đình nguyên Bảng Nhãn Lương Đắc Bằng, một người nổi tiếng tinh thông Lý học đã đem sở học Dịch lý truyền dạy cho các học trò yêu của mình. Sau đó, nhân việc về quê dự tang cha, Nguyễn Văn Đạt ở quê nhà mở trường dạy học. Học trò các nơi theo học rất đông, nhiều người tận Sơn Tây, Kinh Bắc, Thăng Long...về thụ giáo. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê xưng hoàng đế, đổi niên hiệu là Minh Đức, lấy Cổ Trai (Kiến Thụy) làm Dương Kinh lập ra nhà Mạc. Lúc này Nguyễn Văn Đạt đã ngoài 30 tuổi và nhà Mạc đã tổ chức hai kỳ thi 1529 – 1532, ông vẫn không ra ứng thi. Tới năm 1535, mùa xuân Kỷ Mùi niên hiệu Nguyễn Hòa thứ 3 đời Mạc Đăng Doanh, Nguyễn Văn Đạt đổi tên thành Nguyễn Bỉnh Khiêm dự thi Hội ở Văn miếu Mao Điền (Trấn lỵ Hải Dương) ông đỗ đầu (Hội Nguyên). Tiếp đó vào thi Đình để xếp hạng cao thấp ông lại đỗ đầu ba giáp Tiến sĩ đạt danh hiệu Tiến sĩ cập đệ nhất danh (Trạng Nguyên). Sau đó vua Mạc bổ nhiệm chức Đông các hiệu thư, rồi Tả thị lang Bộ Hình, rồi đông các Đại học sĩ, Tả thị lang bộ lại. Song chẳng được bao lâu Mạc Đăng Doanh chết (1540), con là Mạc Phúc Hải lên thay, nội bộ triều đình bất ổn, các phe đảng hình thành, gian thần thao túng chính sự. Tháng 8 năm Nhâm Dần 1542, sau khi dâng sớ xin 16 chém 18 lộng thần, không được vua Mạc chấp thuận, ông treo ấn từ quan về quê mở trường dạy học. Về quê, ông dựng quán Trung Tân, lập Am Bạch Vân làm trường dạy học, sáng tác thơ ca, tập hợp các thi gia sáng tác, xướng họa. Kể từ khi ông từ quan đến khi ông qua đời ở tuổi 95 là 43 năm. Trong 43 năm đó, “Tiên sinh không tham dự quốc chính, nhưng nhà Mạc vẫn kính như bậc thầy. Mỗi khi có việc trọng đại của vua Mạc thường sai quan về hỏi hoặc mời lên kinh đô nói chuyện” (Phả ký Vũ Khâm Lân). Cũng trong thời gian đó, ông đã nhiều lần theo vua Mạc dẹp loạn. Do đó, ông được vua Mạc ban cho chức tước từ hàm thị Lang đến tước Trình tuyền hầu rồi đến Thái phó, Trình Quốc công. Đối với quê hương, ông đã tham gia nhiều việc của đời thường như: dựng quán, xây chùa, trồng cây, dạy trẻ, cho câu đối, viết văn bia...gắn bó sâu sắc với quê hương. Năm Ất Dậu (1585), Trạng Trình ốm nặng. Vua Mạc cử sứ giả và quan ngự y về hỏi thăm và chạy chữa bệnh. Biết mình không qua khỏi, ông vẫn bày kế sách bảo toàn nhà Mạc: “Cao Bằng tuy thiếu khả duyên số thế” (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng cũng ở được mấy đời). Sau khi thất bại 1592, nhà Mạc đã kéo quân lên Cao Bằng, tồn lại được hơn 70 năm nữa. Ngày 28-11 cũng năm Ất Dậu, Trạng Trình mất, vua Mạc cử phụ chính triều đình Ứng vương Mạc Đôn Nhượng và văn võ bá quan về viếng tang. Lễ tang được cử hành trọng thể, bạn bè và môn sinh khắp nơi kéo về dự tang. Tại đây Trương Thời Cử thay mặt môn sinh đọc bài văn điếu tiên sinh, một bài văn tế rất cảm động mà Đinh Thời Trung đã soạn. Tháng Giêng năm Bính Tuất (1586) sau đó, vua Mạc ban cấp cho làng Trung Am, ba ngàn quan tiền để lập đền thờ ông, có gắn biển chính nhà vua đề chữ: Mạc Triều Trạng Nguyên tể tướng từ, (Đền thờ quan tể tướng, Trạng nguyên triều Mạc), một danh hiệu truy tặng, đồng thời nhà vua ban cho địa phương một trăm mẫu ruộng thờ. 17 Vợ con ông cũng được truy tặng chức tước, ba người vợ và bảy người con trai cũng được thứ tự phong hàm. Con trưởng lấy hiệu là Hàn Giang cư sĩ, được tập ấm phong hàm Trung Trinh đại phu, sau làm quan đến chức Phó hiến. Con thứ hai là Tuy Am tiên sinh được phong hàm Triều liệt đại phu, tước Quảng nghĩa hầu; con thứ tư hiệu Thuần Phu hàm Hoằng Nghi đại phu, tước Quảng đô hầu; con thứ năm là Thuần Đức, tước Bá thư hầu... Học trò và sĩ phu đương thời tôn xưng ông là Tuyết Giang phu tử, một vinh dự đặc biệt cao quý và chỉ có vài nhà Nho đức nghiệp cao ở nước ta đạt được như Chu Phu Tử (Chu An – Đời Trần) và La Sơn Phu Tử (Nguyễn Thiếp – đời Tây Sơn). Trong Bạch Vân Am cư sĩ Phả ký, Ôn đình hầu Vũ Khâm Lân có viết: “Tiên sinh thiên tử sáng suốt, ôm cái học thánh hiền, giá như gặp thời mà thực hiện được cái đạo của mình, thì cũng có thể khiến cho sự bình trị củng cố cho nền văn hiến vẻ vang, làm cho tệ rối loạn bớt đi, mà phần lễ nghĩa tăng lên. Cái đức của ông đáng dùng cho vương đạo, thì lại rơi vào thời bá đạo, nên tài năng của ông không được dùng. Tiếc thay” và ông kết luận: “Trên trăm năm về trước, dưới trăm năm về sau, không ai hơn được tiên sinh”. Về sự nghiệp thơ văn, ông là người có nhiều cống hiến cao nhất đối với nền văn học nước ta thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông sinh thời được đánh giá là đồ sộ. Song, do thời gian lùi xa hàng nửa thiên niên kỷ nên bị thất lạc nhiều, phần còn lại đến nay sưu tầm và tập hợp lại là: Bạch Vân am thi tập (chữ Hán), Bạch Vân quốc ngữ thi (chữ Nôm), Trình Quốc công Bạch Vân ký và Trình Quốc công sấm ký... Nội dung thơ của ông: Lòng lo đời, thương người, thể hiện ra ở thơ ca. Văn chương ông tự nhiên, viết ra không cần gọt dũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời. Chính vì đạt được những đặc sắc chủ chốt đó của thơ, ông đã trở thành một tác giả lớn của thế kỷ XVI, ngang tầm với Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV. Thơ văn ông là khát vọng hòa bình, là nỗi lo lắng về tương lai đất nước, là nỗi hoài nghi trật tự phong kiến. Dù là một ông quan đầy uy vọng, ông vẫn 18 khảng khái tố cáo sự tha hóa của cái trật tự, cái thể chế mà trong đó các tập đoàn phong kiến thoán đoạt lẫn nhau, khắp nơi diễn ra cảnh “núi xương, sông máu”, các tiêu chuẩn đạo đức xuống cấp: Ở triều đình thì tranh giành nhau cái danh, Ở chợ búa thì giành nhau cái lợi, Khoe nhà sang thì xe mát quán ấm Khoe nhà giàu thì nhà múa, lầu hát Thấy người chết đói dọc đường thì không dám bỏ một đồng tiền ra cứu giúp... (Bia ký Quán Trung Tân) [15, tr.16] Ông đại diện cho nhân dân, lên án chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến làm cho đất nước chìm đắm trong máu lửa, ông ao ước hòa bình, tan cơn binh lửa: Bao giờ được thấy lại cảnh thịnh trị như đời Đường Ngu Trời đất như xưa một vẻ thái hòa (Ngụ Hứng) Vốn là người tinh thông kinh dịch, nhìn sự biến đổi của cuộc đời với con mắt của nhà triết học, ông lý giải sự vần xoay của cuộc đời là chuyển biến tuần hoàn, nên ông cảnh báo bọn thống trị hãy coi trừng đừng càn rỡ quá: Có thủa được thời mèo đuổi chuột Đến khu thất thế kiến tha bò (Thơ Nôm, bài 75) Ông lên án, mỉa mai bọn phong kiến đã đánh rơi mất giá trị đạo đức để đồng tiền tha hóa con người: Đạo nọ, nghĩa này trăm tiếng Nghe bui thinh thỉnh lại đồng tiền (Thơ Nôm, bài 5) Ông còn vạch ra sự tha hóa về đạo đức, thói trục lợi, xu nịnh, hám danh: 19 Thớt có tanh tao ruồi đậu đến Anh không mật mỡ, kiến bò chi (Thơ nôm, bài 55) [15, tr.17] Là một người yêu nước, thương dân, gần như cả cuộc đời gắn liền với quê hương, gắn liền với mọi sinh hoạt của nhà nông, với cả những thức ăn, thức uống dân gian, thơ ông hồn hậu như làng quê: Nhá rau, lại tiếc mùi canh ngọt Nếm ếch còn thèm có giống măng (Thơ nôm, bài 72) Hoặc: Một mai, một quốc, một cần câu (Thơ nôm, bài 73) Và: Ruộng thời hai khóm đất con ong Đầy tớ ta cày kẻo muộn màng (Thơ nôm, bài 52) Đau lòng trước cảnh suy tàn của đạo đức phong kiến, đặc biệt là bọn quan lại, ông đã dâng sớ chém 18 lộng thần nhưng không được chấp thuận ông dồn vào thơ văn, cảnh tỉnh mọi người “ Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười”, ông ao ước: Dân lầm than khổ cực sẽ được nằm trên nệm chiếu yên ổn Quan trọng nhất là bậc đế vương phải nêu cao nhân nghĩa (Liệt Khê trú doanh) [15, tr.18] Ông khuyên nhủ mọi người hãy trở về với tính thiện, với nhân nghĩa: “Trung là cái chính giữa, tính thiện. Tân là cái bến bãi để và theo...Biết dùng đúng chỗ là đúng bến ngày...trung ở chỗ nào thì cái thiện ở chỗ đó”. (Bia Quán Trung Tân) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan