VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG VĂN ĐỊNH
DI TÍCH ĐỒI A1 TRONG PHÁT TRIỂN
DU LỊCH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số:
60 22 01 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ VĂN TẤN
Hà Nội, 2017
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong luận văn này
là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của
PGS.TS. Lê Văn Tấn. Kết quả thu được hoàn toàn trung thực và không trùng
với kết quả nghiên cứu của những tác giả khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của tôi trong luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Văn Định
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU. ......................................................................................................... 1
Chương 1: ĐỒI A1 XƯA VÀ NAY............................................................... .7
1.1. Đồi A1 và sự lựa chọn của quân đội Pháp. ............................................... .7
1.2. Di tích Đồi A1 từ 1954 đến nay.. ............................................................. 18
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 24
Chương 2: CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ VAI TRÒ CỦA
DI TÍCH ĐỒI A1 TẠI THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ. ........................ .25
2.1. Du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố Điện Biên
Phủ .................................................................................................................. .25
2.2. Vai trò của di tích Đồi A1 trong phát triển du lịch thành phố Điện Biên
Phủ. ................................................................................................................. .37
Tiểu kết Chương 2 .......................................................................................... .48
Chương 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐỒI A1. ..... 49
3.1. Những hạn chế về bảo tồn và khai thác giá trị di tích Đồi A1................. 49
3.2. Giải pháp bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị di tích Đồi A1 trong phát
triển du lịch thành phố Điện Biên Phủ ............................................................ 59
Tiểu kết Chương 3...... .................................................................................... .76
KẾT LUẬN.................. .................................................................................. 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO............ ............................................................ ....79
PHỤ LỤC
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kế hoạch số 16-KH/Th.U của thành ủy Điện Biên Phủ ngày 12 tháng
10 năm 2016 triển khai thực hiện nghị quyết 03-NQ/TU ngày 23 tháng 05
năm 2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên về phát triển du lịch
của tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đặt ra mục tiêu: thành phố
Điện Biên Phủ phát triển du lịch sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vào
năm 2020, đón 565 nghìn lượt khách, trong đó khách quốc tế là 14 nghìn lượt,
tổng doanh thu từ dịch vụ, du lịch đạt 678 tỷ đồng; năm 2030 đón hơn 1triệu
lượt khách, tổng doanh thu từ dịch vụ du lịch đạt trên 1.240 tỷ đồng.
Quy hoạch định hướng phát triển Khu du lịch quốc gia Điện Biên Phủ Pá Khoang trở thành điểm du lịch hấp dẫn và có khả năng cạnh tranh cao, trên
cơ sở đặc biệt nhấn mạnh việc khai thác các giá trị lịch sử hào hùng của Di tích
lịch sử quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ để tạo nên sự khác biệt,
đặc trưng về sản phẩm du lịch.
Tuy nhiên, hiện tại du lịch và loại hình du lịch lịch sử thành phố Điện
Biên Phủ đang bất cập và tồn tại nhiều hạn chế, chưa phát huy hết được tiềm
năng thế mạnh nên chưa thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Quần thể
di tích quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ bên cạnh những di tích
nổi tiếng đã được khai thác vào phát triển du lịch thì còn lại vẫn nằm ở dạng
tiềm năng. Dù vậy, ngay chính những di tích được xem là điểm di tích quan
trọng, được ưu tiên đầu tư và khai thác thì kết quả vẫn chưa cao.
Du lịch lịch sử là loại hình du lịch chủ đạo ở hiện tại và cả tương lai
của Thành phố cũng như của Tỉnh. Di tích chiến trường Điện Biên là di tích
quốc gia đặc biệt nên rất được quan tâm và có nhiều nghiên cứu. Tuy nhiên,
1
các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào cả Quần thể di tích, phạm vi nghiên cứu
rộng, biện pháp còn chung chung.
Di tích Đồi A1 là một trong những di tích tiêu biểu của Quần thể di tích
Chiến trường Điện Biên Phủ, một điểm du lịch không thể bỏ qua khi đến với
thành phố Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, việc khai thác, bảo tồn và phát huy các
giá trị di tích còn chưa hiệu quả, thiếu đồng bộ.
Từ những lí do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Di tích Đồi A1
trong phát triển du lịch thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên” để làm
luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay có khá nhiều đề tài, luận văn, tài liệu nghiên cứu về vấn đề
bảo tồn và phát huy giá trị Di tích Chiến trường Điện Biên Phủ, tiêu biểu như:
Đề tài “Năm du lịch Điện Biên Phủ 2004” của tác giả Ngô Đức Thọ,
trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2004) đã nghiên cứu tổng quan về Chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ, đánh giá kết quả, ý nghĩa của chiến dịch. Từ đó, phân
tích tác động đối với việc thu hút du khách. Giới thiệu toàn cảnh về hệ thống di
tích lịch sử, danh lam thắng cảnh của Điện Biên, đánh giá tiềm năng du lịch
của chúng đồng thời đưa ra giải pháp thu hút đầu tư, đề xuất biện pháp bảo vệ
và phát huy giá trị văn hóa đặc sắc để phát triển du lịch trong những năm tới.
Bài viết “Làm sống lại các di tích” của tác giả Đặng Văn Bài, Huyền
Phương. Tài liệu chủ trích: Tạp chí Lao động và xã hội (2004). Nội dung đã
đánh giá tiềm năng, giá trị của Quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ
và thực trạng công tác trùng tu, bảo tồn Di tích Chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ. Đề xuất các giải pháp trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích.
2
Bài viết “Mường Thanh - Điện Biên Phủ địa danh lịch sử văn hóa” của
tác giả: Đặng Việt Bích. Tài liệu chủ trích: Tạp chí văn hóa nghệ thuật (2004).
Nội dung nghiên cứu về Mường Thanh và Điện Biên Phủ đã đi vào văn hóa,
văn học, nghệ thuật.
Đề tài “Bảo tồn và phát huy giá trị của Quần thể di tích lịch sử Chiến
thắng Điện Biên Phủ hướng vào hoạt động du lịch” của tác giả Trần Văn
Việt, trường Đại học Văn hóa Hà Nội – Khoa Quản lí văn hóa (2006) đã đi
sâu vào nghiên cứu thực trạng bảo tồn quần thể di tích Chiến thắng Điện Biên
Phủ và vấn đề phát huy giá trị của Quần thể di tích từ năm 2006 trở về trước.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy giá trị di tích lịch sử
chiến thắng Điện Biên Phủ phục vụ cho phát triển kinh tế du lịch.
Đề tài “Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tỉnh Điện Biên” của tác
giả Đặng Thanh Nhường, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia Hà Nội (2013) đã làm rõ những vấn đề thực tiễn và lí luận về du
lịch văn hóa, đánh giá điều kiện phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên.
Thông qua những phân tích về thực trạng hoạt động du lịch văn hóa ở Điện
Biên, đề tài đề xuất những giải pháp để phát triển du lịch văn hóa nhằm thúc
đẩy sự phát triển của ngành du lịch Điện Biên nói riêng và kinh tế - xã hội của
Điện Biên nói chung.
Như vậy, những đề tài, bài viết, công trình nghiên cứu chỉ nghiên cứu
về Quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ nói chung, phạm vi rất rộng,
những giải pháp được đưa ra vẫn còn mang tính chung chung, chưa cụ thể;
trong khi mỗi điểm di tích lại có những đặc điểm khác nhau nên cần có
phương pháp, cách thức trùng tu bảo tồn khác nhau. Mặt khác, chưa có những
công trình nghiên cứu thật chi tiết, cụ thể về di tích lịch sử Đồi A1.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan di tích lịch sử Đồi A1. Phân tích, đánh giá thực
trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm bảo tồn hiệu quả và khai thác tối đa giá trị, tiềm năng du lịch của
di tích vào phát triển du lịch thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan về di tích Đồi A1 thuộc Di tích Chiến trường
Điện Biên và các giá trị của nó.
Chỉ rõ tầm ảnh hưởng của các giá trị di tích Đồi A1 đến sự phát triển du
lịch của thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn hiệu quả, khai thác bền vững và
phát huy một cách triệt để các giá trị của di tích Đồi A1 đối với sự phát triển
của du lịch Thành phố.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là di tích Đồi A1 trong phát triển du lịch thành
phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi không gian nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các thành phần, hiện vật thuộc di tích Đồi A1.
4
Các giá trị lịch sử, văn hóa, giáo dục truyền thống, cảnh quan đặt
trong mối tương quan với các di tích thuộc Quần thể di tích chiến trường
Điện Biên và sự phát triển của du lịch thành phố Điện Biên Phủ để nghiên
cứu các vấn đề có liên quan.
4.2.2. Phạm vi thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu lịch sử hình thành của di tích từ thế kỉ XI – XII cho đến 1954
Nghiên cứu công tác trùng tu, bảo tồn và phát huy giá trị di tích từ sau
1954 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Đây là phương pháp quan trọng
và được sử dụng nhiều nhất trong đề tài này. Với phương pháp liên kết nhiều
phương pháp của nhiều ngành khoa học khác nhau, đề tài vừa thể hiện đặc
trưng của phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Việt Nam học, vừa giúp
làm nổi bật mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố điều kiện tự nhiên, xã hội
với lịch sử; giữa di tích, giá trị di tích với phát triển du lịch Thành phố hay
giữa bảo tồn với khai thác, phát huy giá trị di tích. Qua đó có đánh giá tổng
quát nhất, biện chứng nhất nhằm đi tới đưa ra biện pháp thực sự hiệu quả
trong phát triển bền vững du lịch thành phố Điện Biên Phủ.
Phương pháp khảo sát: Đề tài hướng tới việc đánh giá vấn đề quy
hoạch, bảo tồn, khai thác phát huy giá trị di tích trên phương châm khách
quan; phương pháp khảo sát giúp kiểm chứng lí thuyết, đánh giá nhận định
vấn đề khách quan, chân thực, đồng thời đây cũng chính là điểm nhấn giúp đề
tài có thêm những tư liệu quý báu và nội dung thêm phong phú, hấp dẫn.
5
Phương pháp phân tích tổng hợp: Đây là phương pháp giúp phát hiện
mối quan hệ giữa các vấn đề liên quan từ đó rút ra kết luận cần thiết liên quan
đến nội dung và vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu một cách tổng
thể, hệ thống, đầy đủ về di tích Đồi A1.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Là nguồn thông tin hữu ích cho các nhà nghiên cứu, độc giả và khách
du lịch khi có ý muốn tìm hiểu, tham quan di tích Đồi A1.
Đề tài cũng sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho công tác quy
hoạch và bảo tồn di tích sau này.
Đề tài đề xuất một số biện pháp tham khảo trong việc bảo tồn, phát huy
các giá trị của di tích Đồi A1 trong phát triển du lịch thành phố Điện Biên Phủ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục,
luận văn được cấu tạo thành 3 chương:
Chương 1: Đồi A1 xưa và nay (18 trang, từ tr. 7 đến tr. 24).
Chương 2: Chiến lược phát triển du lịch và vai trò của di tích Đồi A1
tại thành phố Điện Biên Phủ (23 trang, từ tr. 25 đến tr. 48).
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích Đồi A1 (27 trang, từ tr.
49 đến tr. 76)
6
CHƯƠNG 1
ĐỒI A1 XƯA VÀ NAY
1.1. Đồi A1 và sự lựa chọn của quân đội Pháp
1.1.1. Tên gọi và vị trí
1.1.1.1. Tên gọi qua các thời kì
Đồi A1 nằm ở trung tâm thành phố Điện Biên Phủ, trải dài theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam. Đồi cao 32 m so với mặt đường, có diện tích 83.000
m2. A1 vốn là kí hiệu mà bộ đội ta đặt cho quả Đồi trên bản đồ quân sự, còn
trong quá khứ quả Đồi có nhiều tên gọi khác nhau, gắn với lịch sử của xứ
Mường Thanh.
Tên gọi Lạng Chượng. Đồi Lạng Chượng là tên gọi đã tồn tại suốt
nhiều thế kỉ cho đến trước khi người Pháp đặt chân xâm lược đến Điện Biên.
Tên gọi ấy, bắt nguồn từ câu chuyện lịch sử nhuốm đầy màu sắc giai thoại
nhưng có thật về chàng Lạng Chượng. Theo cuốn Sông núi Điện Biên của tác
giả Trần Lê Văn [39, tr. 128 - 131], cuối thế kỉ XI đầu thế kỉ XII, tại Mường
Lò (tức Văn Chấn – Yên Bái ngày nay) có chàng Lạng Chượng con trai út của
tạo Lò (tạo Lò là con của tạo Xuông là một trong hai thủ lĩnh bộ tộc Thái
thiên di đến Mường Lò vào thế kỷ XI), là một chiến tướng có tài thao lược và
tầm nhìn xa ngay từ khi còn trẻ (30 tuổi). Ông tự ví mình như “con ngựa
chiến, không ở yên chỗ nào lâu được” nên trong suốt 25 năm đã chinh chiến
liên miên với các chúa bộ tộc khác. Lạng Chượng đã sớm nhìn thấy sự trù phú
và vị trí chiến lược vô cùng quan trọng của Mường Then (tức Mường Thanh Điện Biên) và luôn ao ước được làm chủ vùng đất này. Ông đưa người của
mường mình mở cuộc chinh chiến khắp các mường từ Mường Lò xuống các
7
mường ở tả ngạn sông Đà, đánh chiếm cả đất đai của các chúa Mường xứ Sơn
La. Tuy nhiên, Lạng Chượng lại thất bại khi đánh chiếm đất của chúa ở
Mường Muổi (Thuận Châu – Sơn La) là Ẳm Poi, là một chiến tướng vô địch
người La Ha, mà người Thái gọi là Xả Khao tức là Xá Trắng. Nhờ mưu kế xin
cưới con gái của chúa Mường Muổi là nàng Ho Quảng (cũng là một chiến
tướng), Lạng Chượng đã có được lòng tin của bố vợ. Sau khi gả con gái cho
Lạng Chượng, Ẳm Poi dẫn quân về Mường Thanh, vợ chồng Lạng Chượng
cũng theo lên. Lên đây, ông đóng quân tại một quả đồi không tên, chính là đồi
A1 ngày nay, rồi lập mưu giết bố vợ để độc chiếm Mường Thanh (có truyền
thuyết kể rằng Ẳm Poi bị giết ngay khi còn ở Mường Muổi). Sau đó ít lâu,
con trai út của Lạng Chượng không bệnh tật gì mà chết, nghĩ là ông Trời báo
oán, nửa đêm Lạng Chượng khóc than con. Không ngờ, Ho Quảng nghe
được, biết chồng chính là kẻ lập mưu hại cha, nàng quyết đóng quân riêng ở
Pom Loi (nghĩa là đồi Cháy, người Pháp gọi là đồi Hói Đầu). Một hôm khi
đang cưỡi ngựa từ dinh lũy của mình sang thăm vợ, Lạng Chượng bị một mũi
tên của Ho Quảng giết chết. Vì tình nghĩa vợ chồng, Ho Quảng làm lễ tang
cho Lạng Chượng ở Pom Loi (đồi Lễ Tang) và chôn xác chồng Pom Ca (đồi
Sa Nhân, chính là đồi F mà người Pháp gọi là đồi Tưởng Tượng). Từ đó
người dân gọi quả đồi là Lạng Chượng (hay Pom Lạng Chượng, trong tiếng
Thái, pom nghĩa là đồi), cũng để chỉ mối bi kịch hiếu tình giữa Lạng Chượng
và Ho Quảng.
Tên gọi Đồi Đồn Tây. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta với
sự kiện tấn công bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, đến năm 1890 thực dân Pháp đặt
ách cai trị ở Lai Châu (bao gồm Điện Biên và Lai Châu ngày nay). Năm 1908,
Pháp bắt đầu củng cố việc cai trị ở Lai Châu, Sơn La; ngày 28/6/1909, Toàn
quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Lai Châu, đồng thời đặt Lai
Châu vào Đạo quan binh thứ 4 năm 1915. Chính quyền thực dân Pháp khi đặt
8
chân lên Điện Biên đã thấy được tầm quan trọng của đồi Lạng Chượng. Từ
khi Điện Biên Phủ thuộc Đạo quan binh thứ 4, viên Đại lý người Pháp – một
quan binh kiêm quan cai trị đã cho xây dựng tòa sở của mình ở đỉnh Đồi.
Dinh cơ của viên quan này nằm ở sau Đài Tưởng niệm của ta hiện nay, toàn
thể khu vực được xây dựng theo lối thành lũy rất kiên cố. Ngay dưới tòa sở là
căn hầm ngầm được xây bằng gạch nung, lúc nguy cấp hầm có thể chứa tới
hàng trăm người, xung quanh có lô cốt và hào sâu bảo vệ, mỗi lô cốt lại có
quân lính thay nhau canh phòng. Chính căn hầm này đã được “những người
Pháp đến sau” xây dựng thành lô cốt kiến cố, gây cho quân ta rất nhiều khó
khăn trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Khi Nhật đảo chính Pháp năm
1945, quân Nhật cũng đóng quân tại quả Đồi này.
Tên gọi Elian 2 – Đồi A1. Năm 1953, sau 8 năm sa lầy trong cuộc
chiến tranh Đông Dương, thực dân Pháp bị rơi vào thế bị động trên chiến
trường. Trong khi đó, quân đội của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
kiểm soát được nhiều vùng đất rộng lớn, bất lực trước tình thế chi phí chiến
tranh ngày càng tăng cao, Pháp cầu viện trợ từ Mĩ. Chính phủ Pháp lúc này
muốn có một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận được, một lối thoát danh
dự; nhưng vẫn muốn duy trì quyền lợi của mình ở Đông Dương. Tướng Henri
Navarre được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy và kế hoạch Navarre được đề ra.
Henri Navarre luôn lo sợ việc Việt Minh sẽ chiếm được Thượng Lào và cả
Bắc Đông Dương, làm hỏng kế hoạch chiến tranh của y nên đã quyết định
chọn Điện Biên Phủ làm nơi thiết lập điểm ngăn chặn, bảo vệ cho Thượng
Lào, Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ra đời. Nằm trong Tập đoàn cứ điểm
của Pháp tại Điện Biên Phủ, Đồi A1 được Pháp đặt tên là Elian 2 (Cụm cứ
điểm Elian gồm các cao điểm A1, C1, C2) theo tên một cô gái đẹp nước Pháp,
tên gọi nhằm động viên, khích lệ tinh thần binh lính Pháp: “Hãy bảo vệ ngọn
Đồi như bảo vệ chính những cô gái đẹp nước Pháp”. A1 vốn là một kí hiệu
9
trên bản đồ quân sự của ta, còn Đồi A1 là tên được gọi sau chiến thắng của
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và được sử dụng cho đến ngày nay. Những
chiến tích hào hùng, bi tráng của quân đội ta cùng với dư âm Chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ đã tạo cho cái tên A1 một sức gợi cảm không một danh
xưng nào có thể thay thế. Mỗi người dân, du khách lên Điện Biên Phủ khi
nhắc tới Đồi A1 thì lòng tự hào, xúc động lại dâng lên khó diễn tả. Trong
cuốn “Sông núi Điện Biên” tác giả Trần Lê Văn có viết: “Đồi A1 gắn với
Điện Biên Phủ như Ngọc Hồi gắn với Đống Đa” [39, tr. 116].
Từ một quả đồi không tên, cho đến khi được gọi là Lạng Chượng, Đồi
Đồn Tây, quả đồi này luôn gắn với những bi kịch, từ bi kịch hiếu tình đến bi
kịch chiến tranh. Nhưng khi được gọi là Đồi A1 gắn với Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ, quả Đồi đã mang trong mình niềm tự hào về một chiến công
vĩ đại của dân tộc.
1.1.1.2. Vị trí của đồi A1
Đồi A1 có vị trí đặc biệt quan trọng đối với Mường Thanh. Khi Lạng
Chượng đóng quân tại Mường Thanh, quả Đồi này được chọn làm nơi đóng
quân vì có địa thế cao có thể quan sát toàn bộ lòng chảo Mường Thanh. Thời
kì người Pháp mới đặt ách thống trị ở Điện Biên Phủ, quan cầm quyền Pháp
đã chọn nơi đây làm đặt tòa sở và đóng binh. Trong âm mưu xây dựng Tập
đoàn cứ điểm - “Con nhím Điện Biên Phủ” của mình, thực dân Pháp đã ưu
tiên, lựa chọn xây dựng Đồi A1 trở thành một cứ điểm mạnh nhất trong số 49
cứ điểm. 49 cứ điểm được chia làm 8 cụm, mang tên những cô gái đẹp nước
Pháp gồm:
1. Gabrien – Đồi Độc Lập
5. Clodin – Nằm ở phía Tây lòng
2. Beaxtorio – Đồi Him Lam
chảo Mường Thanh
10
3. Anno Mari – Đồi Bản Kéo
6. Elian – Đồi A1, C1, C2
4. Huyghet – Nằm ở phía Tây lòng 7. Đominich – Đồi E1, D1
chảo Mường Thanh
8. Izaben – Nằm ở phía Nam lòng
chảo Mường Thanh
Trong đó, Đồi A1 được bố trí cùng 4 ngọn đồi là E1, C1, C2, D1 thuộc
2 cụm cứ điểm phía Đông là Elian và Đominich, gọi chung là những cao điểm
phía Đông. Dãy đồi xếp thành hình vòng cung này được ví như bức tường
thành vững chắc che chở cho phân khu trung tâm, đồng thời được bố trí binh
hỏa lực cực mạnh, khi cần có thể chi viện cho nhau hoặc nhận chi viện từ các
cụm cứ điểm khác nên rất khó tiêu diệt. Người Pháp gọi những trận chiến ác
liệt trên cụm cứ điểm này là “Trận chiến năm quả đồi”.
Về phía ta, ngay từ đầu trong kế hoạch tác chiến, ta đã sớm nhận định
được vị trí chiến lược của Đồi A1 và các cao điểm phía Đông “Hội nghị cán
bộ do Đảng ủy mặt trận triệu họp từ ngày 25 đến 27 tháng 3 tại Mường
Phăng đã nhận định: “Trong hệ thống phòng ngự của tập đoàn cứ điểm hiện
nay, phân khu trung tâm là nơi phòng ngự chủ yếu. Chỗ mạnh của phân khu
này là ở những cao điểm phía Đông. Nếu ta tiêu diệt được những điểm cao lợi
hại này, thì phân khu trung tâm sẽ không đủ sức chống đỡ, và tập đoàn cứ
điểm cũng bị uy hiếp nghiêm trọng” ” [39, tr. 119].
Di tích Đồi A1 hiện nay thuộc phường Mường Thanh, thành phố Điện
Biên Phủ. Tọa lạc trên trục đường Võ Nguyên Giáp, từ di tích này có thể nhìn
thấy và di chuyển dễ dàng đến các di tích, tham quan, tưởng niệm quan trọng
khác trong thành phố thuộc quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ như:
Hầm De Castries, Sân bay Mường Thanh, Cầu Mường Thanh, Tượng đài
11
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ, Nghĩa trang liệt sĩ A1,…
1.1.2. Đồi A1 – Pháo đài kiên cố bảo vệ phân khu trung tâm
Đồi A1 là cứ điểm từng được cả Pháp và Nhật sử dụng trong các lần
chiếm đóng. Khi xây dựng lại cứ điểm, Pháp phá các tầng trên, xây dựng hầm
nhà cũ thành hầm cố thủ và đặt Sở chỉ huy tiểu đoàn. Xác định Đồi A1 là
điểm phòng ngự chủ yếu trong cụm cứ điểm phía Đông bảo vệ Sở chỉ huy
trung tâm nên Pháp rất chú ý tăng cường tổ chức phòng ngự trên cứ điểm này.
Pháp cho xây dựng và biến Đồi A1 trở thành một cứ điểm lợi hại. Nhìn từ
mọi góc độ: từ vị trí, địa thế, kết cấu cho tới bố trí binh hỏa lực, Đồi A1 hoàn
toàn có đủ điều kiện để trở thành cơn ác mộng đối với đối thủ.
Thứ nhất: Địa thế vững chãi. Đồi A1 nằm ngay phía Đông Sở Chỉ huy
Gono, tại đây cùng với 4 cao điểm khác là E1, C1, C2, D1 tạo thành thế năm
cao điểm vững chãi. Năm cao điểm này lại được bố trí thành 2 cụm cứ điểm
là Elian và Đominich, chúng vừa có thể tập trung hỏa lực vào một điểm, lại
vừa có thể bảo vệ, yểm trợ cho nhau khi cần: A1 cao nên tiện cho việc bố trí
phòng ngự. Phía bắc A1 giáp C2 và cách C1 200 mét. Đồi C2 thấp hơn C1
khoảng 5 mét lại thụt vào trong. Đồi C1 cao hơn A1 khoảng 2 mét, nhô ra bên
ngoài nên hỏa lực Pháp bố trí trên 3 điểm cao này thành một lưới lửa dày đặc
về phía Bắc A1 và có thể chi viện đắc lực cho nhau khi bị tấn công; phía tây
A1 giáp các cứ điểm A2, A3 (2 cứ điểm này tuy đóng trên đất bằng nên thấp
hơn A1 nhiều nhưng lại nhô ra phía Nam A1 nên rất tiện cho Pháp dùng làm
bàn đạp tăng viện cho Al phản xung phong và bảo vệ bên sườn phía Tây và
Nam A1). Đường 41 chạy từ phía Bắc xuyên giữa A1 và A3 chạy xuống phía
Nam. Phía Tây Bắc có một đường từ khu trung tâm qua sông Nậm Rốm nối
liền với đường 41, Pháp có thể dùng để cơ động lực lượng ra phản xung
12
phong lên A1 khi bị tiến công. Mặt khác, dựa vào căn hầm ngầm có từ trước,
chúng cho xây dựng một lô cốt rất lớn vừa sở chỉ huy ở ngay đỉnh Đồi, đạn
pháo dễ dàng bắn từ trên xuống, sức sát thương mạnh; trong khi quân đội Việt
Minh lại từ dưới đánh lên, không có hầm ngầm che chắn địa thế bất lợi nên dễ
bị tổn thương. Cũng nhờ có hầm ngầm, Pháp dễ dàng kêu gọi pháo binh oanh
tạc trong khi chúng hoàn toàn không hề hấn gì. Xung quanh căn hầm là hệ
thống hào sâu với tổng chiều dài 4000 mét, 37 lô cốt và ụ súng máy, hố chiến
đấu; năm lớp hàng rào dây thép gai dày hơn 100 mét, được cài mìn dày đặc
như một lưới lửa tự động, sẵn sàng thiêu sống đối phương nếu đến gần.
Thứ hai: Phòng tuyến chắc chắn, hỏa lực mạnh, binh lực thiện chiến lại
được sự chi viện mạnh mẽ. Đồi A1 được chia làm ba phòng tuyến cực mạnh:
+ Tuyến thứ nhất: Bố trí ở khu vực chân Đồi có nhiệm vụ phòng chủ
yếu đặt ở gần sát chân Đồi.
+ Tuyến thứ hai: Bố trí ở lưng chừng Đồi, công sự không được kiên cố
như tuyến ngoài, có nhiệm vụ hỗ trợ cho tuyến ngoài, ngăn chặn và giữ trận
địa phòng ngự.
+ Tuyến thứ ba: Ở đỉnh Đồi, công sự kiên cố, nơi đặt sở chỉ huy tiểu
đoàn có nhiệm vụ chỉ huy và cố thủ, làm bàn đạp cho các lực lượng từ trung
tâm phản kịch ra khi bị xâm nhập.
Về binh lực, A1 được bố trí những lực lượng đặc biệt tinh nhuệ:
+ Tiểu đoàn 1 Trung đoàn số 4 bộ binh Maroc
+ Tiểu đoàn 1 bán Lữ đoàn Lê Dương số 13
+ Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6
13
+ Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1. Tất cả đều là những lực lượng hùng
mạnh, thiện chiến và có nhiều kinh nghiệm chiến trường.
Về hỏa lực: Với sự viện trợ của Mĩ, quân đội Pháp được trang bị nhiều
loại vũ khí trang thiết bị chiến tranh hiện đại nhất lúc bấy giờ. Riêng tại Đồi
A1, quân Pháp bố trí các ụ súng cối 81 mm, súng không giật 57 mm, trọng
liên 12,7 mm, đại liên, các loại súng bộ binh, mìn, lựu đạn,… đặc biệt là hai
chiếc xe tăng nặng 18 tấn do Pháp vận chuyển bằng cầu hàng không lên. Hai
chiếc xe tăng này vừa là những cỗ pháo di động, vừa là bức bình phong che
chắn cho lực lượng bộ binh Pháp khi tiến hành phản công. Lòng chảo Mường
Thanh nhìn chung bằng phẳng, rộng lớn thuận tiện cho quân Pháp triển khai
các loại khí tài và phương tiện chiến đấu, trinh sát, xây dựng hệ thống hào, lô
cốt chiến đấu, điều này vốn từng là bất lợi cho Pháp khi còn ở chiến trường
Đông Bắc. Hơn nữa, quân đội Việt Minh vốn quen với lối đánh du kích, lợi
dụng địa hình rừng núi chứ chưa hề đánh lớn, đánh trực diện như ở Điện
Biên Phủ. Rõ ràng đây là điểm bất lợi lớn với ta, nhưng lại là thuận lợi với
Pháp, người Pháp đã lựa chọn được một điểm tác chiến “quả đúng với ý đồ
của mình”. Quá tự tin vào sức mạnh của Tập đoàn cứ điểm, điều mà người
Pháp lo sợ nhất lúc này, là sợ Việt Minh không tấn công, người Pháp đã cho
rải truyền đơn khắp Điện Biên Phủ khiêu khích quân đội Việt Minh.
1.1.3. Trận đánh Đồi A1 và ý nghĩa lịch sử
1.1.3.1. Diễn biến trận đánh Đồi A1
Từ ngày 13 tháng 03 đến ngày 17 tháng 03 năm 1954, tức là trong đợt 1
của Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ ta đã tiêu diệt gọn phân khu Bắc của Tập
đoàn cứ điểm Pháp, bao gồm các cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập và Bản
Kéo, cánh cửa phía Bắc được mở toang. Tuy nhiên, phân khu trung tâm của
14
Pháp vẫn còn 4 trung tâm đề kháng gồm trên 30 cứ điểm liên kết chặt chẽ với
nhau. Nhiệm vụ tiếp tục tiêu diệt các trung tâm đề kháng còn lại được tiếp tục
trong đợt 2. Đây là đợt tiến công vào phân khu trung tâm, chủ yếu nhằm chiếm
dãy đồi phía Đông, khống chế cánh đồng Mường Thanh (các cụm Dominique
và Eliane). Eliane và Dominique gồm hơn một chục cứ điểm tiếp giáp nhau bên
tả ngạn sông Nậm Rốm, có những cao điểm lợi hại kiểm soát toàn bộ trận địa
khu trung tâm. Trong số các cao điểm này, Eliane 2 (đồi A1) giữ vai trò đặc
biệt quan trọng, vì nó khống chế một phạm vi khá rộng gồm cả khu vực Sở Chỉ
huy của Gono và hai chiếc cầu trên sông Nậm Rốm. Bộ chỉ huy của ta xác
định: tiêu diệt các cứ điểm phía Đông, đặc biệt là A1 sẽ mở đường cho ta tiến
vào Sở Chỉ huy tập đoàn cứ điểm của địch. Nhiệm vụ tiêu diệt A1 được giao
cho hai trung đoàn: 102 thuộc Đại đoàn 308 và 174 thuộc Đại đoàn 316. Toàn
bộ trận chiến A1 diễn ra trong 36 ngày đêm từ 30 tháng 03 đến ngày 07 tháng
05 năm 1954, với tổng cộng 4 cuộc tiến công diễn ra ác liệt.
Cuộc tiến công thứ nhất bắt đầu vào hồi 18 giờ 05 phút ngày 30 tháng 3
năm 1954. Trong sáng ngày 30 tháng 3 lợi dụng thời tiết các đơn vị của ta đã
chiếm lĩnh trận địa, nhưng vẫn chưa nhận được lệnh tấn công đồng loạt từ đại
đoàn, trong khi các đơn vị khác đã đột phá cứ điểm thành công và đang chiến
đấu ở phân khu trung tâm, 18 giờ 05 phút trung đoàn trưởng lệnh cho các đơn
vị chiến đấu lần lượt xung phong, đến nửa đêm ta chiếm được 2/3 quả Đồi.
Tuy nhiên địch phản kích mạnh, với sự yểm trợ của pháo binh, chúng chiếm
lại 1/3 quả Đồi đã mất, quân ta thương vong nghiêm trọng. Trung đoàn trưởng
nhận thấy lực lượng của trung đoàn không còn khả năng giải quyết được A1
nữa nên quyết định ngừng tiến công. Kết quả: 4 giờ ngày 31 tháng 03 năm
1954 ta chiếm được 1/3 quả Đồi.
15
Cuộc tiến công thứ hai bắt đầu từ ngày 31 tháng 03 năm đến ngày 01
tháng 04 năm 1954. Sau khi hoả lực trung đoàn tiến hành bắn phá, bộ binh bắt
đầu xung phong vượt cửa mở. Quân Pháp bị bất ngờ trước những đợt hoả lực
chế áp, thương vong một số và đối phó lúng túng. Sau đó, Pháp đã củng cố lại
lực lượng và phản công rất dữ dội. Trận chiến đấu lại diễn ra trong thế giằng
co như đêm trước. Ta và địch vào thế giằng co nhau từng mét vuông đất, từng
ụ súng, đoạn chiến hào. Đến 4 giờ 30 phút ngày 01 tháng 04, sức chiến đấu cả
hai mũi đều đã giảm sút nhiều, đại bộ phận công sự bị hoả lực Pháp phá hủy,
bộ đội không thể trụ lại, phải rút về ngã ba giao thông hào gần khu vực đột
phá khẩu. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn thấy đại đội 267 đã bị thương vong
nhiều, nên đã cho bộ phận còn lại của đại đội này rút ra ngoài cứ điểm để
củng cố lại làm lực lượng dự bị cho trung đoàn.
Cuộc tiến công thứ ba bắt đầu vào đêm ngày 01 tháng 04 năm 1954.
Cho đến chiều ngày 01 tháng 04, trên dãy đồi phía Đông quân Pháp chỉ còn
giữ được C2 và A1. Tại A1, sau những đợt phản kích lớn thất bại, quân Pháp
lại dồn về khu hầm ngầm dựa vào công sự kiên cố để cố thủ và dùng hoả lực
pháo binh phong tỏa cứ điểm. Tuy lực lượng phản kích có bị thiệt hại nặng
nhưng quân Pháp đã kịp thời bổ sung. Về phía Việt Minh, các đơn vị đã
ngừng chiến đấu từ đêm trước do tổn thất nặng cần phải bổ sung. Sau khi
nhận lệnh, ta chủ động tấn công đến ngày 04 tháng 04 năm 1954. Với lợi thế
hầm ngầm và trận địa kiên cố, địch chống trả ác liệt. Kế hoạch sử dụng khối
bộc phá nặng gần 1 tấn nhằm giật tung nóc Đồi được thông qua. Công việc
đào hầm ngầm dài 44 mét từ chân Đồi đến gần Sở Chỉ huy địch tại A1 được
gấp rút tiến hành trong 15 ngày đêm (từ ngày 20 tháng 04 đến ngày 06 tháng
05 năm 1954). Hầm ngầm đã đào xong, khối bộc phá nặng gần 1 tấn đã được
đặt, dây điểm hỏa đã cài, ta chỉ còn đợi lệnh giật khối bộc phá, đồng thời lấy
đó làm hiệu lệnh tấn công đợt thứ tư.
16
Cuộc tiến công thứ tư: 20 giờ 30 phút ngày 06 tháng 05 năm 1954 ta cho
điểm hỏa khối bộc phá, cả quả Đồi rung chuyển, ta tổng công kích trên toàn chiến
trường. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng ác liệt bằng súng, lựu đạn,
lưỡi lê và cả tay không. Các vị trí then chốt tại Đồi A1 lần lượt bị loại bỏ, đến 4
giờ 30 phút sáng ngày 07 tháng 05 năm 1954 trận chiến Đồi A1 kết thúc.
1.1.3.2. Kết quả trận đánh
Đồi A1 bị phía ta chiếm gọn, Eliane bị tiêu diệt hoàn toàn, chiến cục
chiến dịch được định hình, ta chỉ còn cách Sở Chỉ huy địch vài trăm mét, thất
bại trong việc cố thủ tại Đồi A1 là nguyên nhân chính dẫn tới sự đầu hàng của
địch. Cụ thể: sau 36 ngày đêm ta tiêu diệt tổng cộng 37 lô cốt, 4000 mét
đường chiến hào, hàng rào dây thép gai, 400 mét đường phản kích của địch.
Loại khỏi vòng chiến đấu 825 tên địch, tiêu diệt 1 xe tăng và làm bị thương 1
chiếc khác, thu 1 khẩu trọng liên, 4 khẩu đại liên, 27 khẩu trung liên, 162
khẩu súng tiểu liên, 291 khẩu súng trường, 2 khẩu DKZ và 6 khẩu súng cối.
Về phía ta, tổn thất rất lớn: hy sinh 1004 chiến sĩ, bị thương 1512 chiến sĩ.
Về vũ khí bị hỏng có: 8 khẩu súng cối các loại, 22 khẩu Bazoca, DKZ, 8 khẩu
đại liên và 32 khẩu trung liên, 326 khẩu tiểu liên, 460 khẩu súng trường. Trận
đánh Đồi A1 ta hy sinh và thương vong lớn nhất trong toàn bộ Chiến dịch bởi
địch xây dựng Cứ điểm A1 rất kiến cố, bố trí các lực lượng tinh nhuệ nhất chiếm
giữ đồng thời liên tục tăng chi viện về binh, hỏa lực nhằm cố thủ tới cùng.
1.1.3.3. Ý nghĩa trận đánh Đồi A1
Trận đánh Đồi A1 ta đã tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực và khí tài của
địch, đây là thất bại lớn đối với thực dân Pháp. Là khâu đột phá quan trọng
vào hệ thống cứ điểm phía Đông, vốn được Pháp sử dụng tiền đồn phản công
quân đội Việt Minh, cũng như một lá chắn phòng thủ quan trọng cho Sở Chỉ
17
- Xem thêm -