I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Truy cứu trách nhiệm pháp lí là một trong những việc làm hết sức quan
trọng trong việc truy cứu các hành vi vi phạm pháp luật trong cuộc sống cũng
như để cơ quan có thẩm quyền giải quyết tìm đúng người và xử đúng tội cũng
như không xử oan cho người vô tội, đồng thời là nhằm bảo vệ chế độ xã hội,
bảo vệ lợi ích nước nhà, quyền, lợi ích của nhân dân, của tổ chức, bảo vệ trật
tự pháp luật, tạo điều kiện cho những quan hệ xã hội phát triển đúng hướng,
đảm bảo cho quá trình điều chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường và có
hiệu quả. Vì thế, việc tìm hiểu các yếu tố có tác động tới truy cứu trách nhiệm
pháp lí là một việc làm vô cùng cần thiết cho quá trình xét xử của cơ quan có
thẩm quyền. Hay nói một cách khác, đó là việc chúng ta đi tìm hiểu ý nghĩa
các yếu tố cấu thành của một vi phạm pháp luật để làm rõ trách nhiệm pháp lí
của chủ thể vi phạm pháp luật.
Đây chính là lí do tôi chọn đề tài: “ý nghĩa của ác yếu tố cấu thành vi
phạm pháp luật đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lí chủ thể vi phạm
pháp luật”.
II.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Các khái niệm
1.1.
Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái
pháp luật và có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực
hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo
vệ.
1.2.
Khái niệm trách nhiệm pháp lí
Trách nhiệm pháp lí được hiểu theo hai nghĩa – tích cự và tiêu cực.
Theo nghĩa tích cực, trách nhiệm pháp lí được hiểu là bổn phận, nghĩa
vụ, thái độ tích cực và vai trò cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thực
hiện pháp luật.
Theo nghĩa tiêu cực, trách nhiệm pháp lí trước trước tiên là nghĩa vụ
trước pháp luật; nó gắn liền với nhiệm vụ được giao và gắn với hậu quả bất
lợi khi có hậu quả xảy ra do những nguyên nhân được pháp luật, khi xuất
phát từ lợi ích của xã hội và khi có vi phạm pháp luật xảy ra. Cũng có quan
điểm khác cho rằng: “trách nhiệm pháp lí là sự gánh chịu những hậu quả
bất lợi về vật chất hoặc tinh thần của chủ thể vi phạm pháp luật, do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền đã áp dụng
biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt đối với chủ thể đó, mà biện
pháp cưỡng chế ấy được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp
luật”.
1.3.
Khái niệm truy cứu trách nhiệm pháp lí
Truy cứu trách nhiệm pháp lí là hoạt động của các chủ thể có thẩm
quyền, nhân danh nhà nước tiến hành các hoạt động áp dụng pháp
luật nhằm quyết định và đảm bảo thực hiện các biện pháp cưỡng chế
nhà nước đối với chủ thế vi phạm pháp luật.
2. Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật
Cấu thành vi phạm pháp luật là tổng thể các yếu tố đặc trưng thể hiện
đầy đủ tính chất xâm hại cho quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ hoặc bảo
vệ của một vi phạm pháp luật và cần thiết cho việc xác định ranh giới giữa
các vi phạm pháp luật.
Cấu thành của vi phạm phám luật bao gồm: mặt khách quan, mặt chủ
quan, chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật.
2.1.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên
ngoài của vi phạm pháp luật hay đó là toàn bộ các yếu tố bên ngoài thế
giới khách quan mà con người có thể nhận biết được. nó gồm những yếu tố
sau:
Thứ nhất là hành vi trái pháp luật. đây là dấu hiệu cơ bản của mặt
khách quan và cả của vi phạm pháp luật. Là hành vi xác định của con
người, có thể thực hiện dưới dạng xác định, trái với quy định của pháp luật.
Hành vi trái với quy định của pháp luật thể hiện ở chỗ, chủ thể làm
việc pháp luật cấm, không làm việc mà pháp luật buộc làm, làm vượt qua
điều pháp luật cho phép.
Thứ hai là hậu quả hay sự thiệt hại của xã hội do hành vi trái pháp
luật gây ra cho xã hội: là những tổn thất mà hành vi trái pháp luật gây ra.
Mỗi một hành vi trái pháp luật gây ra một mức độ tổn thất, thiệt hại cho xã
hội về vật chất hoặc tinh thần là khác nhau. Mức độ nguy hiểm của hành vi
trái pháp luật được xác định phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại
thực tế hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội mà hành vi đó gây ra.
Thứ ba là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu
quả mà nó gây ra cho xã hội. mối quan hệ này căn cứ ở chỗ sự thiệt hại
của xã hội phải do chính hành vi trái pháp luật gây ra. Căn cứ để xác định
mối quan hệ này là hành vi trái pháp luật gây ra trước hậu quả; sự thiệt hại
là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại là kết quả trực
tiếp của hành vi trái pháp luật.
Ngoài ra, mặt khách quan còn được thể hiện ở các điều kiện bên
ngoài của vi phạm pháp luật gồm:
Công cụ (phương tiện) vi phạm là những đối tượng được sử dụng để
thực hiện hành vi trái pháp luật.
Thời gian là thời điểm thực hiện hành vi trái pháp luật.
Địa điểm là nơi thực hiện hành vi trái pháp luật
Tuy nhiên thì các yếu tố công cụ, thời gian, địa điểm không phải là
dấu hiệu phổ biến, không có ý nghĩa quyết định của mọi cấu thành vi phạm
pháp luật.
2.2.
Mặt chủ quan của vi phạp pháp luật
Mặt chủ quan của của vi phạm pháp luật là toàn bộ hoạt động diễn
ra bên trong (thái độ, nhận thức, ý định) người vi phạm. Bao gồm những
yếu tố:
Thứ nhất là lỗi. Lỗi là thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội.
Đây là dấu hiệu bắt buộc của mặt chủ quan. Lỗi bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô
ý.
Lỗi cố ý chia ra hai loại là lỗi cố ý trực tiếp tức chủ thể biết hành vi đó
là trái pháp luật nhưng vẫn làm để mong muốn hậu quả xảy ra; lỗi cố ý
gián tiếp cũng là hành vi chủ thể biết đó là trái pháp luật nhưng vẫn làm,
chủ thể biết hậu quả xảy ra nhưng để mặc cho nó xảy ra.
Lỗi vô ý chia ra lỗi vô ý vì qua tự tin nghĩa là chủ thể biết đó là trái
pháp luật nhưng vẫn thực hiện và chủ thể biết hậu quả có thể xảy ra nhưng
không mong muốn vì tin là ngăn được; lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi mà chủ thể
không biết là trái pháp luật nên vẫn thực hiện và chủ thể này cũng không
biết hành vi sẽ xảy ra hậu quả xấu.
Trong các lỗi trên thì lỗi cố ý trực tiếp là nặng nhất và lỗi vô ý do cẩu
thả là nhẹ nhất.
Thứ hai là động cơ. Động cơ là động lực thúc đẩy người vi phạm thực hiện
hành vi trái pháp luật. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của vi
phạp pháp luật.
Thứ ba là mục đích. Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ
người vi phạm mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi. Mục đích gắn
liền với lỗi cố ý trực tiếp. Tuy nhiên không phải lúc nào kết quả trong thực
tế cũng trùng với mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt được.
2.3.
Chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực
trách nhiệm pháp lí và đã thực hiện một vi pham pháp luật.
Nếu chủ thể là cá nhân thì đó phải là người có năng lực trách nhiệm
pháp lí (có khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi và khả năng
điều khiển hành vi theo đòi hỏi xã hội) và đạt độ tuổi luật định (quy định
khác nhau đối với từng loại vi phạm).
Nếu chủ thể là tổ chức thì vi phạm được xây dựng khi có hành vi trái
pháp luật đã gây ra hậu quả xấu cho xã hội.
2.4.
Khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại
3. Ý nghĩa của các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật đối
với việc truy cứu trách nhiệm pháp lí
Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật là một trong hai cơ sở để
làm căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lí. Cụ thể đó là cơ sở thực tiễn.
Hay nói cách khác, muốn truy cứu trách nhiệm pháp lí phải có vi phạm
pháp luật xảy ra. Mà việc tìm hiểu về ý nghĩa về cấu thành vi phạm
pháp luật cũng chính là việc đi tìm căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lí.
3.1.
Ý nghĩa của các yếu tố của mặt khách quan đối với việc truy cứu
trách nhiệm pháp lí
Hành vi vi phạm pháp luật chính là yếu tố bắt buộc trong vi phạm
pháp luật vì đây là yếu tố để xác định chủ thể có vi phạm pháp luật hay
không, hay đó chính là việc kết luận chủ thể có tội hay không. Từ đây các
cơ quan có thẩm quyền mới tiếp tục đi tìm hiểu về vi phàm pháp luật và
truy cứu đúng trách nhiệm pháp lí mà chủ thể phải gánh chịu với hành vi
của mình. Vì nếu hành vi của chủ thể là không vi phạm pháp luật, không
có tội thì các cơ quan có thẩm quyền cũng không thể tìm hiểu kĩ hành động
đó mà truy cứu trách nhiệm pháp lí cho chủ thể đó được. Hay hành vi
chính là yếu tố để cơ quan có thẩn quyền có truy cứu trách nhiệm pháp lí
đối với chủ thể có vi phạm hay không.
Dựa vào mức độ hậu quả mà hành vi vi phạm pháp luật gây ra mà cơ
quan có chức năng quyết định tới hình thức trách nhiệm của chủ thể vi
phạm là nặng hay nhẹ, bị phạt án đi tù hay hưởng án treo…
Việc xác định công cụ, thời gian, địa điểm thực hiện hành vi trái pháp
luật là căn cứ để chứng minh rằng chủ thể đó có vi phạm pháp luật và phải
chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi của mình.
3.2.
Ý nghĩa của các yếu tố của mặt chủ quan đối với việc truy cứu
trách nhiệm pháp lí
Lỗi là yếu tố bắt buộc phải có của mặt chủ quan hay trong một vi
phạm pháp luật. Cũng như hành vi trái pháp luật của mặt khách quan thì việc
xác định lỗi của chủ thể cũng là việc xác định chủ thể có vi phạm pháp luật
hay không và từ đó cơ quan chức năng quyết định có truy cứu trách nhiệm
pháp lí với chủ thể đó hay không. Việc phân chia lỗi ra thành bốn loại: lỗi cố ý
trực tiếp, lối cố ý gián tiếp, lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả là căn
cứ để phân loại mức độ phạm tội của chủ thể. Nó không chỉ có ý nghĩa trong
việc xác định hình thức tội trạng mà chủ thể phải gánh chịu mà còn là yếu tố
để xem xét việc tăng nặng hay giảm nhẹ tội trạng của chủ thể.
Động cơ tuy không phải yếu tố bắt buộc trong mặt chủ quan của vi
phạm pháp luật, tuy nhiên yếu tố này có ý nghĩa trong việc xác định tính chất
hành vi, đó là việc tăng nặng hay giảm nhẹ tội trạng mà chủ thể phải gánh
chịu. Vì nếu như chủ thể chỉ nhất thời không làm chủ được bản thân mà thực
hiện hành vi trái pháp luật thì chủ thể ấy sẽ được xem xét để giảm mức án.
Nếu chủ thể đó lên kế hoạch một cách bài bản để thực hiện hành vi của mình,
mà hình thức thực hiện hành vi ấy thể hiện chủ là một người chuyên nghiệp
trong hành vi phạm pháp này thì chủ thể ấy không những chịu mức án cao
nhất trong phần chế tài của quy phạm đã quy định mà còn có thể bị tăng nặng
tội trạng.
Mục đích gắn liền với lỗi cố ý trực tiếp nên việc xem xét mục đích
cũng có ý nghĩa trong việc tăng nặng hay giảm nhẹ tình tiết của vi phạm pháp
luật chủ thể gây nên. Mặc dù vậy, nếu mục đích mới chỉ trong suy nghĩ của
chủ thể mà chưa thể hiện ra thành hành vi có lỗi thì chủ thể cũng không phải
chịu bất cứ một trách nhiệm pháp lí nào hết.
3.3.
Ý nghĩa của yếu tố chủ thể đối với việc truy cứu trách nhiệm
pháp lí
Việc xem xét tới chủ thể của vi phạm pháp luật có ý nghĩa trong việc
cấu thành nên tội danh của chủ thể vi phạm pháp luật hay có truy cứu trách
nhiệm pháp lí với chủ thể đó hay không. Chủ thể phải được xem xét trong hai
phương diện là người năng lực trách nhiệm pháp lí và đạt độ tuổi theo quy
định cảu pháp luật. Nếu thiếu một trong hai điều này thì chủ thể không bị kết
tội cho hành vi của mình dù hành vi đó là trái pháp luật hay có lỗi cố ý trực
tiếp đi nữa.
Vì nếu một người đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật nhưng thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc
một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Hay nếu như một người có trạng thái thần
hoàn toàn bình thường, nhưng người đó mới chỉ có 13 tuổi, thì dù người này
có cố tình hay sơ ý giết người thì cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự
nào.
3.4.
Ý nghĩa của yếu tố khách thể đối với việc truy cứu trách nhiệm
pháp lí
Trong quan hệ tình bạn thì một người khác xâm hại đến quan hệ tình
bạn này thì người xâm hại tình bạn này không hề phải chịu một trách nhiệm
pháp lí nào cho việc xâm hại tình bạn đó, vì quan hệ tình bạn không được
pháp luật điều chỉnh và bảo vệ. vì thế, việc tìm ra khách thể của vi phạm pháp
luật cùng với việc tìm ra lỗi và xác định hành vi trái pháp luật của chủ thể là
để xem xét chủ thể đó có phải chịu trách nhiệm pháp lí hay không.
Tùy vào từng quan hệ pháp luật mà khách thể còn là yếu tố có ý nghĩa
để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
III.
KẾT LUẬN
Như vậy, việc truy cứu trách nhiệm pháp lí trước hết là nhằm mục
đích trừng phạt đối với chủ thể vi phạm pháp luật, buộc họ phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định trong các
quy phạm pháp luật. Truy cứu trách nhiệm pháp lí còn có tác dụng răn đe tất
cả những chủ thể khác khiến họ phải kiềm chế, giữ mình không vi phạm pháp
luật, giáo dục các tổ chức và cá nhân ý thức tôn trọng pháp luật, từng bước
hạn chế tiến tới đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội.
Để thực hiện được những mục đích này của việc truy cứu trách
nhiệm pháp lí thì ý nghĩa của yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật là rất quan
trọng. Nó không chỉ xác định chủ thể đó có phải chịu trách nhiệm pháp lí
không, chịu trách nhiệm nặng hay nhẹ với hành vi của mình mà nó chính là cơ
sở thực tiễn trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể vi phạm
pháp luật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình “Lí luận nhà nước và pháp
luật”, NXB Công An nhân dân, 2010.
2. PGS. TS. Nguyễn Văn Động, Giáo trình “ Lí luận về nhà nước và pháp
luật”, NXB Giáo Dục, 2008.
3. “Bộ luật Hình Sự của nước Cộng Hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”,
NXB Chính Trị Quốc gia, 2003.
MỤC LỤC
Trang
I.
II.
Đặt vấn đề…………………………………………………. 1
Giải quyết vấn đề………………………………………….. 1
1. Các khái niệm…………………………………..………… 1
1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật………….................... 1
1.2. Khái niệm trách nhiệm pháp lí…..………………… 1
1.3. Khái niệm truy cứu trách nhiệm pháp lí……..…….. 2
2. Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật………..………… 2
2.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật..................... 2
2.2. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật……..………... 3
2.3. Chủ thể của vi phạm pháp luật………..……………. 4
2.4. Khách thể của vi phạm pháp luật…..………………. 4
3. Ý nghĩa của các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật đối với
việc truy cứu trách nhiệm pháp lí…………...……………... 4
3.1. Ý nghĩa của các yếu tố của mặt khách quan đối với việc
truy cứu trách nhiệm pháp lí……..……….…………. 5
3.2. Ý nghĩa của các yếu tố của mặt chủ quan đối với việc
truy cứu trách nhiệm pháp lí…..……………………. 5
3.3. Ý nghĩa của yếu tố chủ thể đối với việc truy cứu trách
nhiệm pháp lí..………….…………………..…….… 6
3.4. Ý nghĩa của yếu tố khách thể đối với việc truy cứu
trách nhiệm pháp lí…..………………………….… 6
III. Kết luận……………………..…………………………….. 7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Xem thêm -