Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại trên địa bàn...

Tài liệu đề tài thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại trên địa bàn huyện gia lâm thành phố hà nội

.PDF
130
76
104

Mô tả:

1. MỞ ĐẦU 1.1.Tính cấp thiết của đề tài Trong nền nông nghiệp thế giới, trang trại( mà chủ yếu là trang trại gia đình) là một hình thức tổ chức sản xuất có vái trò hết sức quan trọng trong hệ thống nông nghiệp của mỗi nước. Ở các nước phát triển, trang trại gia đình có vai trò to lớn và có ý nghĩa quyết định trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất ra tuyệt đại bộ phận nông sản, sản phẩm cho xã hội. Ở Việt Nam, kinh tế trang trại mới phát triển trong những năm gần đây, từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mục tiêu là công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH – HĐH) đất nước, song lấy nông nghiệp là khâu đột phá. Đặc biệt là sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ( tháng 4/ 1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, quan hệ sản xuất nông nghiệp nước ta được điều chỉnh một bước. Và đến Nghị quyết VI của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VI – tháng 3/ 1989) về sự phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân đã đặt nền móng cho sự ra đời của kinh tế trang trại. Hơn nữa sau khi có Luật đất đai (năm 1993) quy định 5 quyền sử dụng đất thì kinh tế trang trại thực sự phát triển nhanh và đa dạng. Mặc dù mô hình kinh tế trang trại nước ta mới phát triển nhưng có vị quan trọng và đã thể hiện vai trò tích cực cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Trên nhiều vùng các trang trại đã góp phần tích cực cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Trên nhiều vùng các trang trại đã góp phần tích cực phát triển các loại cây trồng vật nuôi có gía trị kinh tế cao, khắc phục dần tình trạng sản xuất phân tán, manh mún. Phát triển kinh tế trang trại gắn liền với việc khai thác và sử dụng một cách đầy đủ và hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là đất đai và tiền vốn. Do vậy phát triển kinh tế trang trại ở nước ta bước đầu góp phần tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Không những vậy phát triển kinh tế trang trại góp phần tạo thêm việc làm, thu nhập, xoá đói giảm nghèo, góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn, làm gương cho các hộ nông dân về cách thức tổ chức quản lý sản xuất … qua đó góp phần thúc đẩy sự thay đổi của bộ mặt nông thôn trên nhiều vùng. Hà nội hiện nay với tốc độ đô thị hoá cao, đất nông nghiệp bình quân hàng năm giảm 1000 ha (ước đến năm 2010 còn gần 34.000 ha), nền nông nghiệp Hà Nội đã và đang chuyển theo hướng thâm canh, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, tập trung sản xuất các loại sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, an toàn thực phẩm có ưu thế ở Hà Nội. Phát triển kinh tế trang trại theo hướng tổng hợp, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến và du lịch sinh thái. Qua kết quả khả sát của sở Nông Nghiệp và PTNT Hà Nội ( theo tiêu chí mới quy định tại Thông tư liên tịch số 62/ TTLT/ - TCTK, ngày 20/05/2003), số lượng trang trại hiện nay của Hà Nội là 401 trang tập trung chủ yếu ở 5 huyện ngoại thành. Bước đầu khẳng định kinh tế trang trại Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất định, khai thác được tiềm năng thế mạnh của Hà Nội, cải thiện thu nhập và giải quyết được một phần việc làm cho lao động. Cùng với các huyện ngoại thành, huyện Gia Lâm trong những năm gần đây mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện có sự ổn định về số lượng, quy mô đã có tác dụng nhất định đến tình hình kinh tế xã hội của huyện. Tuy nhiên trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại của huyện còn bộc lộ một số hạn chế đó là phần lớn các trang trại còn đang lúng túng trong việc lựa chọn phương hướng sản xuất kinh doanh, quản lý sản xuất, đặc biệt là hiệu quả kinh tế ở trang trại còn thấy chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh nông nghiệp của huyện. Vấn đề đặt ra trong thời gian tới là làm thế nào để khai thác sử dụng tốt các lợi thế so sánh ( đất đai, vốn, lao động,…) nâng cao hiệu quả kinh tế của trang trại huyện Gia Lâm. Để góp phần nhỏ bé của mình vào phát triển kinh tế trang trại của huyện, chúng tôi thực hiện đề tài: “ Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội.” 1.2. Mục tiêu nghiên cứu * Mục tiêu chung: + Nghiên cứu, đánh giá đúng hiệu quả kinh tế trang trại ở Gia Lâm, đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Gia Lâm cho những năm tiếp theo … * Mục tiệu cụ thể : + Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận về trang trại, kinh tế trang trại. + Đánh giá hiệu quả kinh tế các trang trại, tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trang trại huyện Gia Lâm. + Đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Gia Lâm. 1.3. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Các trang trại chăn nuôi, thủy sản, tổng hợp trên địa bàn huyện Gia Lâm. * Phạm vị nghiên cứu + Phạm vị nội dung nghiên cứu: nghiên cứu hiệu quả kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội + Phạm vị thời gian: từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2005. + Phạm vị không gian: trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI HIỆU QUẢ KINH TẾ TRANG TRẠI 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Những lý luận chung về trang trại 2.1.1.1. Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại Trong những năm gần đây, kinh tế trang trại ở nước ta có xu hướng phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng trên nhiều địa phương. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu các khái niệm và nội dung của trang trại, kinh tế trang trại là cần thiết để có được những nhận thức đúng đắn trong công việc đánh giá đúng thực trạng phát triển của nó. Trong từ điển Việt, trang trại được hiểu một cách khái quát là: “ Trại lớn sản xuất nông nghiệp”. Trên thế giới đều dùng phổ biến từ farm ( tiếng Anh) và feme ( tiếng Pháp) mà các từ điển Anh – Việt của ta đều dịch là trang trại và các văn kiện của đảng đều dùng thuật ngữ “ trang trại”. Trong các tài liệu nghiên cứu về kinh tế trang trại thường gắn với ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp gọi là “ nông trại”, “ lâm trại”, “ngư nghiêp” để phân biệt chuyên ngành sản xuất. Hiện nay, trong các tài liệu nghiên cứu khoa học kinh tế, trang trại và kinh tế trang trại được nhìn nhận dưới nhiều quan điểm khác nhau, thể hiện rõ qua các khái niệm. Trang trại là chủ lực của các tổ chức làm nông nghiệp ở các nước tư bản cũng như các nước phát triển [13]. Trang trại là một đơn vị kinh tế hộ gia đình có tư các pháp nhân, được Nhà nước giao quyền sử dụng một số diện tích đất đai, rừng, biển hợp lý: để tổ chức lai quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tích cực áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và cộng nghệ mới nhằm cung ứng ngày càng nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao hơn cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu; nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của từng đơn vị diện tích, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi người tham gia [17]. Trang trại gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn, sử dụng lao động tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả [38]. Trang trại gia đình là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp trong điều kiện của nền kinh tế thị trường từ khi phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến, khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp hoá lần thứ nhất ở một số nước Châu Âu [8]. Trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất cơ sở trong nông lâm, thuỷ sản, có mục đích sản xuất hàng hoá, có tư liệu sản xuất thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường [22]. Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở lao động và đất đai của hộ gia đình là chủ yếu, có tư cách pháp nhân, tự chủ sản xuất kinh doanh bình đẳng với các thành phần khác, có chức năng chủ yếu là sản xuất nông sản hàng hoá, tạo ra nguồn thu nhập chính và đáp ứng nhu cầu cho xã hội [21]. Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế – hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp ( hiểu nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế nông hộ. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại có gắn với sự tích tụ tập trung các yếu tố sản xuất kinh doanh đất đại, lao động, tư liệu sản xuất – vốn, khoa học công nghệ, để nâng cao năng lực sản xuất và sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao [26]. Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn, có sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có phương pháp tạo ra sức sinh lời cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra; có trình độ đưa những thành tựu khoa học công nghệ mới kết tinh trong hàng hoá tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao [12]. Mặc dù, nhiều tác giả đưa ra những khái niệm khác nhau nhưng chúng đều có những điểm chung như sau: + Trang trại là một cơ sở sản xuất – kinh doanh hàng hoá trong nông, lâm, ngư nghiệp. + Có nguồn gốc hình thành và phát triển từ kinh tế nông hộ nhưng ở vào giai đoạn có trình độ tổ chức quản lý sản xuất hàng hoá cao hơn. + Khai thác và sử dụng các nguồn lực kinh tế ở địa phường ( đất đai, vốn, lao động, ứng dụng khoa học công nghệ) + Hoạt động sản xuất – kinh doanh luôn gắn liền với nền kinh tế thị trường. + Nguồn gốc sở hữu của trang trại là thành phần kinh tế tư nhân là chủ yếu, song do sự tác động của kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế nên nó ngày càng mở rộng ra nhiều hình thức sở hữu, từ một thành phần kinh tế đến nhiều thành phần kinh tế. Ngoài ra, qua thực tiễn hoạt động sản xuất – kinh doanh ở các trang trại, chúng tôi nhận thấy rằng lĩnh vực hoạt động của nó không chỉ bó hẹp trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mà bên cạnh chuyên môn hoá sản xuất nông lâm ngư nghiệp, mà bên cạnh chuyên môn hoá sản xuất nông lâm ngư nghiệp còn kết hợp thêm một số hoạt động dịch vụ kinh doanh hỗ trợ các yếu tố đầu vào, đầu ra và các hoạt động dịch vụ kinh doanh hỗ trợ các yếu tố đầu vào, đầu ra và các hoạt động chế biến nông, lâm, thuỷ sản nhằm mục đích tăng thêm thu nhập của trang trại. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại như sau: Trang trại là một tổ chức kinh tế cơ sở lấy hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp làm mục đích sản xuất kinh doanh chính, trong đó có kết hợp thêm ngành nghề, dịch vụ phụ trợ phi nông nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau trong nông thôn, được hình thành chủ yếu trên cơ sở kinh tế nông hộ, có quy mô sản xuất, thu nhập, giá trị và tỷ suất kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường. 2.1.1.2. Vị trí, vai trò của kinh tế trang trại Trên thế giới, trải qua hàng thế kỷ đến nay trang trại gia đình đã xuất hiện, đã tồn tại, phát triển ở các nước công nghiệp phát triển và đang được mở rộng, khuyến khích phát triển trên toàn thế giới. Trang trại gia đình đã có được vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế ở mỗi đất nước. Trước hết, trang trại gia đình đã và đang là lực lượng chủ yếu sản xuất ra các loại nông sản, đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người; đối với các nước đang phát triển, kinh tế trang trại còn góp phần thu hút lao động, xoá đói gỉam nghèo, nâng cao thu nhập của nông dân. Trong quá trình phát triển, kinh tế trang trại gia đình có thể đáp ứng yêu cầu của các hình thức sở hữu khác nhau, với quy mô khác nhau, thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp cùng với xu hướng chuyên môn hoá, tập trung hoá trong sản xuất. ở nước ta, kinh tế trang trại mà chủ yếu là trang trại gia đình mới phát triển trong những năm gần đây, song các nghiên cứu đã cho thấy vai trò tích cực của nó thể hiện rõ nét cả về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. a. Về mặt kinh tế Kinh tế trang trại có ý nghĩa quan trọng nhất đối với nền kinh tế đất nước nói chung và trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Các trang trại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những sản phẩm có giá trị hàng hoá cao, khắc phục dần tình trạng sản xuất phân tán, góp phần từng bước tạo nên những vùng chuyên môn hoá thâm canh cao góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Từ đó góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn. b. Về mặt xã hội Kinh tế trang trại phát triển làm tăng số hộ giàu trong nông thôn, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho lao động, điều này có ý nghĩa rất quan trọng về mặt xã hội trong nông thôn. Hơn nữa kinh tế trang trại phát triển sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, tạo tấm gương cho các hộ nông dân về mặt tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, phát triển kinh tế trang trại sẽ kéo theo sự tập trung ruộng đất – tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp, dẫn đến ở một vài nơi sẽ có một bộ phận lao động nông nghiệp thiếu ruộng đất và có thể trở thành người làm thuê. Nếu nhà nước không có chính sách cụ thể, sát thực để giải quyết vấn đề này thì có thể ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề đói nghèo ở nông thôn. Đây là vấn đề phải lựa chọn. c, Về mặt môi trường Do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực lâu dài của mình mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ môi trường trước hết là trong phạm vi trang trại. Các trang trại vùng núi, đồi gò đã góp phần tích cực vào việc trồng vào bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thái. 2.1.1.3. Các điều kiện, nhân tốt hình thành và nâng cao hq kinh tế trang trại. 2.1.1.3.1 Điều kiện hình thàng a, Điều kiện môi trường pháp lý Trang trại là bộ phận cấu thành hệ thống nông nghiệp của cả nước theo mô hình kinh tế thị trường. Tuy nhiên nó chỉ hình thành và phát triển khi có môi trường pháp lý phù hợp và thuận lợi. Kinh tế trang trại phải đủ điều kiện Nhà nước công nhận về mặt pháp lý. ở nước ta, một thời gian dài chúng ta đã không thừa nhận trang trại là một bộ phận cấu thành hệ thống nông nghiệp ở nước ta. Sự công nhận đại vị pháp lý của kinh tế trang trại sẽ tạo cơ sở pháp lý cho những người có nguồn lực yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo mô hình trang trại, đồng thời Nhà nước sẽ tạo điều kiện cần thiết cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển. - Có quỹ rộng đất cần thiết và chính sách để tập trung rộng đất - Có sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến - Có sự phát triển nhất định của kết cấu hạ tầng, trước kết là giao thông, thuỷ lợi. - Có quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội. - Có sự phát triển nhất định của các hình thức liên kết kinh tế trong hoạt động sản xuất Nông lâm – Ngư nghiệp. b, Các điều kiện đối với trang trại và chủ trang trại - Chủ trang trại phải là người có ý chí quyết tâm làm giàu từ nghề nông, lâm, ngư. Chủ trang trại phải có tích luỹ nhất định về kinh nghiệm sản xuất, về trí thức và tăng lực tổ chức sản xuất kinh doanh - Có sự tập trung nhất định về quy mô các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng đất và tiền vốn. Quản lý sản xuất kinh doanh của trang trại phải dựa trên cơ sở hạch toán và phân tích kinh doanh 2.1.1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đế hiệu quả kinh tế trang trại a, Nhân tố quản lý trang trại quản lý trang trại là quy trình chủ trang trại tác động vào các đối tượng bị quản lý từ khi đầu tư đến khi đưa sản phẩm ra tiêu thụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Mục tiêu, mục đích của hoạt động sản xuất ở trang trại là sản xuất hàng hoá. Vì vậy, bản chất của vấn đề tổ chức quản lý trang trại có những đặc thù riêng, khác biệt so với quản lý doanh nghiệp. Xác định chiến lược kinh doanh: đòi hỏi chủ trang trại phải xác định phương hướng, mục tiêu kinh doanh của trang trại. sản xuất kinh doanh trong điều kiện của nền kinh tế thị trường chủ trang trại giải quyết các vấn đề sau: sản xuất và dịch vụ cái gì? Sản xuất và dịch như thế nào? Sản xuất và dịch vụ cho ai? Lợi nhuận thu được bao nhiêu? Muốn giải quyết tốt các vấn đề trên, chủ trang trại phải là người có đủ khả năng nắm bắt và xử lý kịp thời những thông tin của thị trường, trên cơ sở đó đưa ra những quyết định chính xác đáp ứng được các nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Việc xác định chiến lược kinh doanh của trang trại đúng hướng nó sẽ góp phần vào sự thành công của trang trại, nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại [17]. Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh: Trên cơ sở mục tiêu và những định hướng của chiến lược kinh doanh, phân tích đánh giá tình hình diễn biến thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh qua các năm, chủ trang trại xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm. Trong kế hoạch cần phải xây dựng nhiều phương án tối ưu để thực hiện. Kế hoạch phải được lập cụ thể cho từng khâu chức năng của sản xuất: kế hoạch tài chính, kế hoạch về bố trí sử dụng đất, kế hoạch lao động và các chính sách marketing. Có như vậy, hoạt động sản xuất của trang trại mới thích ứng với những biến động của thị trường. Tổ chức quản lý thực hiện: Từ kế hoạch, chủ trang trại cụ thể hoá phương án sản xuất kinh doanh, sắp sếp bố trí các nguồn lực, yếu tố sản xuất sao cho việc sử dụng chúng nâng cao được hiệu quả kinh tế cao nhất, mỗi một yếu tố sản xuất có biện pháp và cách thức tác động riêng. Công tác kiểm tra và điều phối: đây là một chức năng quan trọng của quản lý trang trại, vì trong quá trình hoạt động luôn có những diễn biến xảy ra, có những thông tin phản hồi từ các đối tượng bị quản lý, chủ trang trại phải thường xuyên kiểm tra giám sát nắm bắt thông tin và xử lý kịp thời những sai phạm cũng như ách tắc trong từng khâu công việc hàng ngày: tài chính, kỹ thuật, lao động và thị trường. Trên cơ sở đó điều chỉnh các chiến lược kinh doanh sát với tình hình thực tế. Nếu bỏ qua khâu này, sẽ khó có được một kết quả sản xuất như mục tiêu đề ra. Tóm lại, công tác tổ chức quản lý trang trại là việc làm hàng ngày của chủ trang trại chứ không ai khác, nên đòi hỏi phải có kiến thức về khoa học quản lý nhất định. Để có được kiến thức chủ trang trại phải trải qua quá trình đào tạo hoặc tự đào tạo thông qua học hỏi các chủ trang trại ở những trang trại làm ăn giỏi. b. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên Hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra trên một không gian rộng lớn, có điều kiện về tự nhiên, kinh tế giữa các vùng rất khác nhau. Chỉ có thể có hoạt động sản xuất nông nghiệp khi ở đó có đất và các điều kiện tự nhiên thuận lợi. Đây là đặc điểm riêng có của sản xuất nông nghiệp. Do vậy, nhân tố ảnh hưởng đầu tiên đến sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại là điều kiện tự nhiên, bao gồm vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác. Vị trí địa lý là nhân tố quyết định đến điều kiện tự nhiên do vận động kiến tạo của trái đất và vũ trụ. Mỗi vị trí địa lý có những điều kiện tự nhiên nhất định, gắn với chất lượng đất đai, khí hậu, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác. Vì vậy khi nghiên cứu kinh tế trang trại cần nghiên cứu điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến việc quy hoạch sản xuất, bố trí cây trồng, vật nuôi. Đối với mỗi loại đất, kiểu khí hậu chỉ có thể thích ứng đối với một số loại cây trồng, vật nuôi nhất định. Ruộng đất có hạn nên qui trình sử dụng ruộng đất cần theo con đường thâm canh, cải tạo bồi dưỡng đất. Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến chính sách phát triển trang trại. Mỗi vùng khác nhau cần có những chính sách cụ thể phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng. c, Các nhân tố về kinh tế, xã hội Điều kiện kinh tế, xã hội thuận lợi là yếu tố quan trọng việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại. Các điều kiện kinh tế, xã hội bao gồm vấn đề thị trường, cơ sở hạ tầng, sự hình thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất, sự phát triển của công nghiệp chế biến và các nhân tố kinh tế, xã hội khác tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế trang trại. d, Thị trường Đặc trưng cơ bản của trang trại là sản xuất hàng hoá nông sản, vì vậy sản xuất phải gắn với thị trường. Thị trường nông nghiệp bao gồm thị thị trường đầu vào là đất đai, tư liệu sản xuất, các yếu tố sản xuất khác… và thị trường tiêu thụ nông sản. Thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến phương hướng và quy mô sản xuất của nông nghiệp nói chung và các trang trại nói riêng, trong đó thị trường đầu ra đóng vai trò hết sức quan trọng. Thị trường đầu ra có thể phân thành hai loại là thị trường tiêu dùng trực tiếp và thị trường nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Thị trường tiêu dùng trực tiếp có đặc điểm: Số lượng tác nhân tiêu thụ lớn, độ co dãn theo giá lớn, địa bàn tiêu thụ rộng và yêu cầu sản phẩm phải tươi ngon đến tay người tiêu dùng. Do đó, nắm được thị trường người tiêu dùng, có hệ thống phân phối thích hợp, cần lưu ý công nghệ bao gói, bảo quản để đảm bảo yêu cầu về chất lượng của người tiêu dùng. Thị trường nguyên liệu cho công nghiệp chế biến có đặc điểm: Số lượng khách hàng ít, người bán nhiều, nhưng số lượng mua của khách hàng thường khá lớn, độ co dãn của cầu về sản phẩm rất nhỏ. Do vậy, cần bố trí sản xuất phù hợp với cầu về số lượng, thời gian thu hoạch. Có thể hợp đồng về sở chế và bao gói sản phẩm tại trang trại để đảm bảo chất lượng sản phẩm. e. Sự hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá Sự hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá sẽ tạo điều kiện phát triển công nghiệp chế biến, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế vùng nói chung và kinh tế trang trại nói riềng. Trình độ chuyên môn hoá càng cao, yêu cầu liên kết kinh tế càng lớn. Đó là biểu hiện của phân công lao động và hiệp tác lao động trong sản xuất và là hai mặt của quá trình tổ chức sản xuất. f. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật Cơ sở hạ tầng kỹ thuật có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế nói chung và kinh tế trang trại nói riêng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm hệ thống giao thông, thuỷ lợi, nguồn năng lượng … kinh tế trang trại chỉ có thể phát triển cao khi có đầy đủ các điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất. g. Quản lý và sử dụng vốn Vốn là điều kiện tiên quyết để các chủ trang trại thực hiện chiến lược sản xuất kinh doanh của mình, vốn của trang trại biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định bao gồm toàn bộ máy móc thiết bị, nhà cửa, vật kiến trúc, vật nuôi sinh sản, lấy sữa, cây lâu năm cho sản phẩm. Vốn lưu động biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động như vốn bằng tiền, phân bón, thức ăn gia súc, gia cầm, thuốc thú y… và sản phẩm đang chờ tiêu thụ. Tuỳ theo từng loại vốn mà chủ trang trại có các biện pháp quản lý khác nhau. Mỗi loại vốn chủ trang trại có biện pháp có biện pháp quản lý riêng, đặc biệt vốn lưu động cần phải quan tâm đến tốc độ luân chuyển, vốn lưu động có tốc độ luân chuyển nhanh thì khả năng thu hồi vốn sớm để có điều kiện để tái đầu tư sản xuất trang trại. 2.1.2. Khái niệm và các quan điểm cơ bản đánh giá hiệu quả kinh tế trang trại 2.1.2.1. Khái niệm Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng khi xác định hiệu quả kinh tế thì hiệ quả kinh tế bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Những yếu tố đó là lợi thế so sánh của từng vùng như điều kiện tự nhiên, xã hội, tập quán canh tác; đặc điểm của từng mô hình trang trại; thị trường yếu tố đầu vào như giá cả tư liệu sản xuất, vốn, thuê lao động; thị trường đầu ra sản phẩm hàng hoá của trang trại như các kênh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, thời gian bảo quản chế biến, quan hệ cung cầu trong thị trường. Các kết quả đạt được về mặt vật chất có thể lượng hoá được để so sánh, nhưng có những yếu tố không thể so sánh được như: môi trường sinh thái, an ninh xã hội. Các yếu tố trên tác động rất mạnh vào quá trình sản xuất trong nông nghiệp và từng tổ chức sản xuất kinh doanh như trang trại. Do vậy, việc xác định hiệu quả kinh tế của trang trại càng trở nên phức tạp. Cho nên cần phải có phương pháp luận, quan điểm đúng đắn về hiệu quả kinh tế trang trại. Từ phân tích trên về hiệu quả kinh tế nói chung và đặc thù của nông nghiệp, trang trại chúng tôi có thể đưa ra khái niệm hiệu quả kinh tế trang trại Là sử dụng tối thiểu các nguồn lực khan hiếm như lao động, tiền vốn, đất đai… một cách tốt nhất để sản xuất ra một lượng sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao nhất, thoả mãn nhu cầu xã hội, góp phần vào bảo vệ môi trường sinh thái và xây dựng một nền nông nghiệp bền vững. 2.1.2.2. Các quan điểm cơ bản đánh giá hiệu quả kinh tế trang trại a. Quan điểm thứ nhất Đây là quan điểm phải bảo đảm thống nhất giữa hiệu quả kinh tế trang trại với lợi ích xã hội. Khi đánh gía hiệu quả kinh tế trang trại phải dựa trên quan điểm đảm bảo thống nhất giữa hiệu quả kinh tế trang trại với lợi ích xã hội. Quan điểm này đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả kinh tế phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Mỗi trang trại là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, hoạt động của trang trại có liên quan tới các cơ sở sản xuất kinh doanh khác cũng như các ngành kinh tế của toàn bộ hệ thống. Do vậy mỗi giải pháp kinh doanh của từng trang trại có liên quan tới các cơ sở sản xuất kinh doanh khác cũng như các trang trại phải được đánh giá hiệu quả một cách toàn diện, không được làm tổn hại đến hiệu quả chung của nền kinh tế. Hiệu quả kinh tế của trang trại góp phần làm tăng hiệu quả của ngành nông nghiệp, của nền kinh tế quốc dân, ngược lại một hệ thống kinh tế quốc dân được tổ chức và có cơ chế đúng đắn sẽ làm môi trường thuận lợi để cho mỗi trang trại nâng cao hiệu quả kinh tế. Hơn nữa về mặt định tính hiệu quả kinh tế phải gắn chặt với hiệu quả chính trị, xã hội, môi trường, hoạt động của trang trại trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ theo đuổi mục tiêu kinh tế mà còn phải tham gia vào các nhiệm vụ chính trị, xã hội như đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giải quyết việc làm, thu nhập cho dân cư, tác động tới cơ cấu kinh tế … Điều này thể hiện phạm trù bản chất hiệu quả kinh tế gắn chặt với bản chất của quan hệ sản xuất chế độ XHCN. b. Quan điểm thứ hai Đây là quan điểm bảo đảm kết hợp giữa hiệu quả kinh tế trang trại với quan hệ lợi ích và nhân cách của người lao động trong trang trại đó. Bảo đảm kết hợp giữa hiệu quả kinh tế trang trại với quan hệ lợi ích và nhân cách của người lao động trong trang trại, lao động trong gia đình và người lao động làm thuê. Con người trong trang trại vừa là điều kiện vừa là mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, con người tham gia vào qúa trình sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của họ và thể hiện nhân cách của họ trong quá trình lao động ở trang trại. Quan điểm này cũng là vấn đề mà nhiều người còn quan tâm, đặc biệt là người chủ trang trại khi thuê lao động làm thuê trong trang trại của mình. Một số lao động là nông dân do chuyển nhượng, chuyển đổi không còn ruộng đất dẫn đến đi làm thuê cho các chủ trang trại, có cả người lao động xuất thân không phải là nông dân cũng đi làm thuê cho các chủ trang trại, thậm chí một số người có trình độ chuyên môn, trung cấp, đại học. Nói tóm lại, khi người lao động đi làm thuê thì mọi quyền lợi kinh tế như ngày công lao động hoặc lương bình quân tháng được thoả thuận với người chủ trang trại.Trên quan điểm người lao đông thực sự gắn bó với trang trại, khai thác mọi tiềm năng để nâng cao hiệu quả kinh tế, sự kết hợp giữa nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại với việc chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho người lao động làm thuê không những thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta mà còn mang bản chất văn hoá dân tộc. Do vậy, bảo đảm nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại phải đặt trong mối quan hệ bảo vệ nhân cách của người lao động đi làm thuê và lợi ích kinh tế của họ. c. Quan điểm thứ ba Đây là quan điểm bảo đảm tính toàn diện nâng cao hiệu quả kinh tế . Nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại phải được xem xét ở hai góc độ: không gian và thời gian. Về mặt không gian là nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại phải xuất phát bảo đảm yêu cầu của nền sản xuất trong ngành, địa phương. Hơn nữa trong từng trang trại việc nâng cao hiệu quả kinh tế phải được xem xét ở tất cả các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh và xem xét đầy đủ mối quan hệ giữa các lĩnh vực các bộ phận nhằm hướng tới mục tiêu chung của trang trại. Về mặt thời gian là nâng cao hiệu quả kinh tế phải được đánh giá trong từng thời gian, trong tổng thể phát triển lâu dài của trang trại, đặc điểm là đối với trang trại trồng cây ăn quả, cây lâm nghiệp lâu năm. Trong thực tế hiệu quả kinh tế trang trại phải được tính toán đánh giá trong một thời gian nhất định, nhiều khoản mục chi phí cho đầu tư xây dựng cơ bản trang trại không chỉ phát huy hết cho giai đoạn trước mắt mà còn mang lại hiệu quả kinh tế lâu dài, thậm chí vài chục năm. Điều đó, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Việc xây dựng mô hình trang trại và nâng cao hiệu quả kinh tế của nó góp phần vào phát triển nông nghiệp bền vững, chúng ta cần có quan điểm nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại một cách toàn diện. 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở một số nước trên thế giới và khu vực 2.2.1.1. Kinh tế trang trại ở một số nước Châu Âu, Mỹ Vào cuối thế kỷ XIX, trang trại gia đình dần chiếm ưu thế. Đến thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, trang trại gia đình trở thành mô hình sản xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp thế giới [8]. * Về số lượng, quy mô và cơ cấu Số lượng trang trại có xu hướng giảm, quy mô có xu hướng tăng. Phần lớn các nước có số lượng các trang trại giảm bình quân hàng năm khoảng 2,1% đến 2,7%, trong khi đó, diện tích bình quân của các trang trại tăng lên hàng năm khoảng 2%, diện tích các trang trại tuỳ thuộc vào diện tích từng nước đến vài chục ha đến trên 100 ha. Bên cạnh những trang trại lớn, vẫn tồn tại những trang trại có diện tích vừa và nhỏ, nhưng chủ yếu là số lượng các trang trại lớn. Quy mô trung bình của trang trại ở Mỹ năm 1980 là 180 ha, ở Pháp năm 1989 là 28 ha, ở CHLB Đức năm 1986 là 26,1 ha [8]. * Về loại hình trang trại và tổ chức điều hành sản xuất Trang trại gia đình đựơc coi là phổ biến trong tất cả các nước. Ngoài ra còn một số loại hình trang trại như sau [8, 10]. Trang trại liên doanh: là kiểu trang trại do 2 – 3 trang trại hợp nhất để tăng thêm khả năng về vốn và tư liệu sản xuất. Loại hình này ở các nước Châu Âu và Mỹ chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 10%. Trang trại hợp doanh theo cổ phần: là loại trang trại được tổ chức theo nguyên tắc một công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến tiêu thụ sản phẩm. Cổ phần không bán trên thị trường chứng khoán, loại này xuất hiện ở Mỹ khoảng 2,7% tổng số trang trại với diện tích 13,7%, bình quân một cơ sở có 800 – 900 ha đất. * Về vốn tư liệu sản xuất và lao động Vốn của các trang trại chủ yếu là nguồn vốn tự do. Ngoài vốn tự do, các trang trại trang trại đều phải sử dụng vốn vay từ nhiều nước khác nhau, ví dụ như ở Mỹ, tổng vốn vay của các trang trại gần 100 tỷ USD. Các nước trong khu vực này hầu hết là các nước công nghiệp phát triển, ngoài việc mua sắm máy nông nghiệp dùng riêng là phổ biến các trang trại còn thành lập các hợp tác xã sử dụng chung máy móc [8,10]. Lao động: Trong các trang trại Tây Âu và Mỹ lao động có xu hướng giảm do sử dụng trình độ công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Số lượng lao động trong các trang trại của mỗi nước không còn phụ thuộc vào quy mô sản xuất. Thực tế ở Tây Âu và Bắc Mỹ, quy mô 25 – 30 ha/ trang trại chỉ sử dụng 1 – 2 lao động gia đình và 1 – 2 lao động làm thuê. * Hướng kinh doanh và thu nhập của các trang trại Căn cứ đặc điểm lao động sản xuất của các trang trại, hướng kinh doanh của các trang trại bao gồm: loại trang trại kinh doanh đa dạng đa dạng nhiều sản phẩm, là loại có sự kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, kết hợp nông, lâm, ngư nghiệp và kết hợp nông nghiệp với các ngành nghề theo hướng chuyên môn hóa cao [8], [10]. * Thu nhập của các trang trại Căn cứ nguồn thu, có thể chia làm 2 loại trang trại có thu nhập chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp và loại trang trại có thu nhập thêm từ ngoài nông nghiệp. Loại trang trại có nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp có xu hướng giảm do nguồn thu nhập từ nông nghiệp thấp nên các chủ trang trại phải làm thêm các ngành nghề, dịch vụ để tăng thêm thu nhập, và do đó loại trang trại có nguồn thu nhập thêm từ ngoài nông nghiệp ngày càng nhiều [8], [10]. * Thị trừơng đầu vào, đầu ra của trang trại Ở nhiều nước, các trang trại có quyền lựa chọn mua sắm máy móc, vật tư từ nhiều đơn vị cung ứng khác nhau, tiêu thụ sản phẩm theo những kênh khác nhau qua cơ quan mua gom thị trường tự do, xí nghiệp chế biến, có khoảng 80% nông sản được chế biến trước khi đưa ra thị trường tiêu thụ, trang trại có quan hệ mật thiết với các ngành khác nhau trong hệ thống nông nghiệp thương nghiệp. Các trang trại thành lập hợp tác xã để hỗ trợ dịch vụ đầu vào, đầu ra. Nhà nước có các biện pháp tích cực can thiệp vào thị trường nông sản thông qua các đòn bẩy kinh tế để đảm bảo cân bằng cung cầu nông sản trên thị trường [8], [10]. *Trang trại gia đình và công nghiệp hoá Ở các nước công nghiệp phát triển, trang trại gia đình vẫn tồn tại và phát triển, nó đã và đang là lực lượng chủ yếu sản xuất ra các loại nông sản. 50% sản lượng đậu tương và ngô trên toàn thế giới là do các trang trại gia đình ở Mỹ sản xuất. Ở Pháp xuất khẩu ngũ cốc hàng năm trên 20 triệu tấn. Nhiều trang trại đã được cơ giới hoá ở mức độ cao hoặc tiến hành cơ giới hoá. Năng suất lao động trong nông nghiệp ở những nước này rất cao và ngày càng tăng, một lao động nông nghiệp có thể nuôi sống từ 55 đến 100 người [8], [10]. 2.2.1.2. Kinh tế trang trại ở các nước Châu Á và khu vực Đông Nam Á Phần lớn các nước Châu Á, nền kinh tế còn ở trình độ thấp do đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá. Trừ một số nước và lãnh thổ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan …có nền kinh tế phát triển nền công nghiệp đã có ảnh hưởng nhất định đến phát triển của trang trại. Hơn nữa, ở Châu Á kinh tế trang trại trong nông nghiệp chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên, dân sô nên có những đặc điểm khác với trang trại ở các nứơc Âu – Mỹ về nhiều mặt [8]. * Về số lượng và quy mô trang trại Đất canh tác trên đầu người vào loại thấp của thế giới ( khoảng 0,15 ha/ đầu người), hầu hết các nước chưa có nền công nghiệp phát triển, Châu Á đang có sự biến động tăng về số lượng trang trại và giảm về diện tích bình quân của trang trại. Quy mô diện tích của trang trại ở Châu Á rất thấp, một số nước quy mô trang trại chỉ vài ha. Bình quân diện tích một trang trại năm 1990 ở Nhật Bản là 1,2 ha, ở ấn Độ là 2 ha, ở Indonexia là 3,7 ha, ở Pakixtan là 4,7 ha, ở Hàn Quốc là 1,08 ha, ở Thái Lan là 4,28 ha, ở Philippin là 3,6 ha do nhà nước
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan