Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đề tài so sánh cơ chế bảo hiến của pháp và hoa kỳ full HD...

Tài liệu đề tài so sánh cơ chế bảo hiến của pháp và hoa kỳ full HD

.DOCX
57
4751
112

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÀI TẬP THẢO LUẬN LUẬT SO SÁNH TÊN ĐỀ TÀI: SO SÁNH CƠ CHẾ BẢO HIẾN HOA KỲ, PHÁP – KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM  Nhóm thực hiện: HC39.3  Buổi thảo luận thứ 6, Đề tài số 6. Đề tài thảo luận So sánh cơ chế bảo hiến Hoa Kỳ, Pháp – Kinh nghiệm cho Việt Nam MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1 Chương 1. Vài nét cơ bản về bảo hiến, cơ chế bảo hiến.....................................................4 1.1 Khái niệm........................................................................................................................4 1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiến..............................................................6 Chương 2. Cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ, Pháp..................................................................9 2.1 Cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ...........................................................................................9 2.1.1 Cơ sở hình thành......................................................................................................10 2.1.2 Chủ thể có quyền yêu cầu bảo hiến.........................................................................11 2.1.3 Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến.............................................................................12 2.1.4 Cơ chế giám sát và tính chất giám sát.....................................................................13 2.1.5 Hệ quả pháp lý.......................................................................................................... 14 2.2 Cơ chế bảo hiến của Pháp.............................................................................................14 2.2.1 Cơ sở hình thành......................................................................................................15 2.2.2 Chủ thể có quyền yêu cầu bảo hiến.........................................................................16 2.2.3 Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến.............................................................................16 2.2.4 Cơ chế giám sát và tính chất giám sát.....................................................................21 2.2.5 Hiệu lực phán quyết và hệ quả pháp lý...................................................................21 2.3 Những điểm tương đồng và khác nhau trong hai cơ chế bảo hiến Hoa Kỳ và Pháp. ........................................................................................................................................ 22 Chương 3. Thực trạng cơ chế bảo hiến Việt Nam và phương hướng hoàn thiện..........32 3.1 Cơ chế bảo hiến qua các bản Hiến pháp Việt Nam..................................................... 32 3.1.1 Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp 1946.....................................................................32 3.1.2 Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp 1959.....................................................................33 3.1.3 Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp 1980.....................................................................34 3.1.4 Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).....................34 3.1.5 Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp 2013.....................................................................35 3.2 Thực trạng bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, nhận xét đánh giá và phương hướng 3.2.1 3.2.2 3.2.3 3.3 hoàn thiện.................................................................................................................36 Thực trạng bảo hiến ở Việt Nam hiện nay..............................................................36 Nhận xét, đánh giá về thực trạng bảo hiến ở Việt Nam hiện nay ..........................41 Phương hướng hoàn thiện.......................................................................................43 Kinh nghiệm thế giới áp dụng cho Việt Nam...........................................................44 3.3.1 3.3.2 3.3.3 3.3.4 Đối với mô hình bảo hiến của Hoa Kỳ.....................................................................44 Đối với mô hình bảo hiến của Pháp........................................................................46 Đối với mô hình bảo hiến của Đức..........................................................................46 Mô hình khác............................................................................................................47 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài “So sánh cơ chế bảo hiến Hoa Kỳ, Pháp – Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Chúng tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ và tạo điều kiện từ phía Trung tâm thư viện trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tập thể lớp 51 HC39, Chúng tôi bày tỏ lòng cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ đó. Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. NGUYỄN THỊ HẰNG – người cô đã tạo điều kiện cho nhóm chúng tôi được thành lập, hướng dẫn và chỉ bảo chúng tôi hoàn thành bài tiểu luận này. Chân thành cảm ơn. 1 LỜI MỞ ĐẦU Từ thời cổ đại, mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện dưới dạng các quan điểm triết học, chính trị của các nhà tư tưởng, các nhà cầm quyền có tinh thần cải cách. Trước sự hưng thịnh và suy vong của mỗi triều đại, lịch sử tư tưởng nhân loại đều đặt ra những câu hỏi có tính phổ quát: quyền lực nhà nước từ đâu mà có; làm thế nào để quyền lực nhà nước không bị thoái hóa và biến chất; nhà nước và pháp luật là gì và kết hợp với nhau như thế nào; công dân có vị trí như thế nào trong mối quan hệ với nhà nước và pháp luật... Qua quá trình lịch sử lâu dài, loài người dần dần tìm thấy câu trả lời cho vấn đề trên bằng việc tổ chức nhà nước thành nhà nước pháp quyền – nhà nước được tổ chức và vận hành bằng những cơ chế bảo đảm quyền lực của nó thuộc về nhân dân chứ không phải thuộc về người cầm quyền; nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật chứ không phải bằng ý muốn chủ quan của nhà cầm quyền. Những hạt giống tư tưởng về nhà nước pháp quyền có từ thời cổ đại, ấp ủ qua đêm dài trung cổ hàng nghìn năm, đã bừng nở vào thời kì Phục hưng, thế kỉ Ánh sáng, và nhất là vào thời kì chuẩn bị các cuộc cách mạng tư sản ở Tây Âu thế kỉ XVII – XVIII. Học thuyết về nhà nước pháp quyền tư sản ra đời dựa trên cơ sở các quan điểm pháp lí của giai cấp tư sản đang lên, đã tấn công quyết liệt và làm sụp đổ từng mảng lớn của chế độ phong kiến độc đoán, chuyên quyền. Qua hàng nghìn năm, nhà nước pháp quyền từ những ý tưởng đã trở thành học thuyết và từ học thuyết qua hàng trăm năm đã được hiện thực hóa một phần trong các nhà tư sản với những bản sắc dân tộc khác nhau. Như vậy, nhà nước pháp quyền là một học thuyết về việc tổ chức và hoạt động của nhà nước được sinh ra trong phong trào đấu tranh để giải phóng nhân loại khỏi chế độ phong kiến chuyên chế. Các lí thuyết gia của nhà nước pháp quyền đã xem Hiến pháp như là một công cụ hữu hiệu để hiện thực hóa học thuyết của mình. Vì vậy, Hiến pháp có vai trò rất quan trọng trong nhà nước pháp quyền. Nói đến nhà nước pháp quyền tức là nói đến Hiến pháp, nhà nước pháp quyền gắn liền với Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều 2 chỉnh các quan hệ xã hội là nhu cầu cần thiết, tất yếu tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hiến pháp xác lập chế độ chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội, khẳng định quyền lực nhà nước và chủ quyền thuộc về nhân dân, ghi nhận và bảo về quyền cơ bản của con người. Hiến pháp là đạo luật gốc của quốc gia, là kim chỉ nam cho tất cả các đạo luật khác ban hành trên tất cả các lĩnh vực. Chủ thể ban hành văn bản pháp luật suy cho cùng cũng là những con người, không thể tránh khỏi những sai sót trong khi hậu quả của một đạo luật trái với Hiến pháp có khả năng gây thiệt hại rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bảo hiến sẽ góp phần kiểm soát mọi hoạt động của các chủ thể, đặc biệt là cơ quan Nhà nước trong giới hạn của Hiến pháp, loại bỏ những đạo luật vi hiến khỏi đời sống xã hội. Do đó, đòi hỏi quốc gia nào cũng phải xây dựng cơ chế bảo vệ hiến pháp. Điều kiện tối quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền là thực hiện và đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, cũng chính là xây dựng cơ chế bảo hiến chuyên nghiệp và hiệu quả. Về cơ chế bảo hiến, không có một mô hình bảo hiến nào là tối ưu hoàn toàn và có thể áp dụng cho tất cả các quốc gia trên thế giới.Việc áp dụng cơ chế bảo hiến nào hoàn toàn phụ thuộc vào sự lựa chọn của Nhà nước đó dựa trên tổng thể các yếu tố lịch sử, xã hội, kinh tế, chính trị, đặc thù. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi đã xác định 3 mô hình bảo hiến được áp dụng phổ biến hiện nay dựa trên sự phân chia thẩm quyền bảo hiến cho các chủ thể khác nhau, đó là: + Mô hình Tòa án thẩm quyền chung thực hiện cả chức năng bảo hiến (Mỹ, Nhật Bản). + Mô hình chức năng bảo hiến thuộc về Quốc hội (thường ở các nước Đại nghị như Anh). + Mô hình cơ quan bảo hiến độc lập như Hội đồng bảo hiến của Pháp. 3 Ở nước ta hiện nay, đã có nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu về Hiến pháp và cơ chế bảo hiến của Anh, Mỹ và Pháp, và áp dụng với Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn có nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề áp dụng mô hình bảo hiến ở Việt Nam. Với tinh thần đó, đề tài tiều luận này trình bày một cách hệ thống những nội dung cơ bản sau đây: + Cơ chế bảo hiến của Mỹ và cơ chế bảo hiến của Pháp. + So sánh xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai cơ chế bảo hiến Mỹ và Pháp. + Liên hệ với Việt Nam. 4 Chương 1 Vài nét cơ bản về bảo hiến, cơ chế bảo hiến 1.1Khái niệm Với tư cách là một đạo luật có hiệu lực pháp lý tối cao, Hiến pháp cần có sự tuân thủ một cách nghiêm ngặt của mọi chủ thể trong xã hội, trong đó quan trọng nhất là cơ quan nhà nước. Với một mục đích chống lại sự vi phạm các quy định của Hiến pháp, làm thay đổi những nội dung hoặc không thi hành các quy định về mặt nội dung cũng như tinh thần của Hiến pháp, các nhà nước có Hiến pháp thành văn đã có những quy định cụ thể để bảo vệ Hiến pháp. Chế định này được gọi là chế định bảo hiến.1 Thuật ngữ “Bảo hiến” hay còn được gọi là “Bảo vệ Hiến pháp” về ý nghĩa cốt lõi được hiểu là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật do Nghị viện (hay Quốc hội) ban hành, cụ thể là đánh giá xem những đạo luật được đưa ra có phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp hay không 2. Tuy nhiên, nếu hiểu bảo hiến chỉ là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật là một cách hiểu khá chật hẹp. Thực tiễn của chế độ bảo hiến các nước cho thấy, các chế định bảo hiến được sinh ra không đơn thuần chỉ là kiểm soát tính hợp hiến của hành vi lập pháp. Chẳng hạn, Tòa án Hiến pháp ở nhiều quốc gia Châu Âu, bên cạnh kiểm soát tính hợp hiến các đạo luật của Quốc hội còn thực hiện nhiều chức năng khác để bảo vệ nội dung và tinh thần của Hiến pháp như giải quyết tranh chấp giữa lập pháp và hành pháp, giữa liên bang và tiểu bang, giữa trung ương và địa phương; kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi của tổng thống cũng như các quan chức hành pháp; giải quyết tranh chấp về kết quả bầu cử... Tòa án ở Mỹ - một chế định bảo hiến cũng không đơn thuần chỉ kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi của Quốc hội, mà còn của Tổng thống và của các cơ quan hành pháp3... 1Bảo hiến trong tiếng Anh là Judicial review. 2Những vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới, Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Hà Nội, 2012, tr.120. 3TS. Vũ Văn Nhiêm, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2012), Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc bảo đảm quyền con người, Nxb. Giáo dục, tr. 19. 5 Nhìn chung, vì các đạo luật phụ thuộc trực tiếp vào Hiến pháp nên bảo hiến cơ bản là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật nhưng đó không phải là tất cả. Thuật ngữ “Bảo hiến” có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn là bao gồm sự kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi của tất cả các thiết chế quyền lực được Hiến pháp quy định, chứ không chỉ giới hạn trong các đạo luật của Nghị viện4. Bảo hiến được thực hiện bởi một hoặc một số cơ quan, tùy theo quy định trong Hiến pháp và pháp luật của các quốc gia. Vậy, “Cơ chế bảo hiến” là gì? Để trả lời cho câu hỏi này, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu như thế nào là “cơ chế”, để từ đó rút ra được khái niệm “Cơ chế bảo hiến”. Cơ chế là một thuật ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa, tùy thuộc vào hoàn cảnh và lĩnh vực. Từ “Cơ chế” là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Theo đó, từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa “mécanisme” là “cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tối phụ thuộc vào nhau”5. Theo từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học 1996) thì “Cơ chế là cách thức theo đó một quá trình thực hiện”6. Còn theo quan điểm của GS.TS Phạm Ngọc Quang thì “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ một chuỗi những khâu liên kết với nhau theo một logic nhất định, nhờ vậy mục tiêu được thực hiện”. Theo quan điểm của nhà kinh tế học người Mỹ, Paul A. Samuelson thì “cơ chế thị trường” là một cơ chế trong đó các chủ thể tham gia tự đưa ra các quyết định về sản xuất và tiêu dùng dựa trên những tính toán của họ về nguồn lực mà mình đang nắm giữ”7. Như vậy, khái niệm “cơ chế” dù ở nghĩa chung nhất hay được vận dụng ở cấp độ vĩ mô đều có một điểm chung đó là nhằm hoàn thành công việc ở trong một hệ thống hoặc một tổ chức. Trong hệ thống đó, các bộ phận cấu thành tham gia vào “cơ chế” ở các mức 4Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam – Khoa Luật Đại học Quốc gia, NXB Đại học Quốc gia, năm 2006. 5https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipedia:B%C3%A0n_tham_kh%E1%BA%A3o/C%C6%A1_ch%E1%BA%BF_l %C3%A0_g%C3%AC%3F truy cập vào lúc 13:25 ngày 03/3/2017. 6https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipedia:B%C3%A0n_tham_kh%E1%BA%A3o/C%C6%A1_ch%E1%BA%BF_l %C3%A0_g%C3%AC%3F truy cập vào lúc 22:02 ngày 02/3/2017. 7PGS.TS. Trần Bình Trọng (2003), Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống kê, tr. 281. 6 độ khác nhau tùy theo khả năng cũng như trách nhiệm của chúng. Điều đó có nghĩa là các bộ phận của hệ thống hoặc tổ chức đều liên quan đến “cơ chế” của nó và cùng thực hiện những quy định của “cơ chế”. Hơn nữa, khi đề cập đến cơ chế thì hàm ý đến sự tương tác qua lại giữa các chủ thể của cơ chế. Tóm lại, khái niệm cơ chế là một khái niệm rất rộng và được ứng dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau, từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội. Từ những khái niệm vừa nêu trên, chúng ta cũng có thể hiểu phần nào về “Cơ chế bảo hiến” là gì. Theo nghĩa rộng, “Cơ chế bảo hiến” được hiểu là toàn bộ những yếu tố, phương tiện, phương cách và biện pháp nhằm đảm bảo cho Hiến pháp được tôn trọng, chống lại mọi sự vi phạm Hiến pháp có thể xảy ra8. Theo nghĩa hẹp, “Cơ chế bảo hiến” là một thiết chế được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc và quy định của pháp luật để thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm Hiến pháp được tôn trọng, chống lại mọi sự vi phạm Hiến pháp có thể xảy ra. Tóm lại, cơ chế bảo hiến là hệ thống những thành tố, hình thức, thiết chế, thủ tục mà qua đó Hiến pháp được bảo vệ. Cơ chế bảo hiến thực chất là công cụ, phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, nhằm quyền lực đó thuộc về nhân dân. Bảo hiến là tư duy của pháp quyền9. 1.2Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiến Cơ chế bảo hiến ra đời gắn liền với việc thay thế thuyết nghị viện tối cao bằng thuyết Hiến pháp tối cao. Nơi nào thuyết nghị viện tối cao thắng thế, nơi đó không có tài phán Hiến pháp. Nơi nào thuyết Hiến pháp tối cao thắng thế so với thuyết nghị viện tối cao thì hệ quả đương nhiên là chế độ tài phán Hiến pháp được hình thành10. 8http://luanvan.co/luan-van/de-xuat-co-che-bao-hien-trong-luat-viet-nam-9890/ truy cập vào lúc 20:15 ngày 14/3/2017. 9TS. Vũ Văn Nhiêm, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2012), Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc bảo đảm quyền con người, Nxb. Giáo dục, tr. 21. 7 Những yếu tố ban đầu của bảo hiến được cho là xuất hiện vào thời cổ Hy Lạp, khi pháp luật nước này (Luật Athenian) phân biệt giữa một nomos (văn bản pháp luật có hiệu lực tối cao như Hiến pháp) và một psephisma (văn bản pháp luật có hiệu lực thấp hơn). Một psephisma, bất kể nội dung quy định về vấn đề gì, cũng không được trái với nomos, nếu trái sẽ bị coi là vô hiệu11. Một số khía cạnh của bảo hiến sau đó được áp dụng trong hệ thống pháp luật của Đức từ năm 1180 (về sau được đề cập trong Hiến pháp Weimar, 1919). Ngoài ra, các hình thức sơ khai của bảo hiến cũng xuất hiện ở một số nước châu Âu khác như ở Pháp (từ giữa thế kỷ XIII), Bồ Đào Nha (từ thế kỷ XVII), Na Uy, Đan Mạch, Hy Lạp, Áo, Romania (thế kỷ XIX)12... Mô hình bảo hiến phổ biến đầu tiên xuất hiện ở Hoa Kỳ, vào năm 1803, sau vụ án nổi tiếng Marbury kiện Madison. Vụ án này đã trao quyền bảo hiến cho các Tòa án tư pháp (Tòa án thường) của nước Mỹ và được gọi là tài phán Hiến pháp phi tập trung. Mô hình bảo hiến phổ biến thứ hai (gọi là tài phán hiến pháp tập trung) là sản phẩm của nước Áo, xuất hiện trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới I và II. Xuất phát từ tư tưởng của hai nhà luật học Hans Kelsen và Adolf Merkl, Hiến pháp năm 1920 của Áo đã xác lập nền tảng của Tòa án Hiến pháp nước này, với độc quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật13. Kể từ đầu thế kỷ XX, cơ quan bảo hiến đã được thành lập ở một loạt quốc gia châu Âu, ví dụ như ở Áo (1920), Czechoslovakia (1920), Liechtenstein (1925), Hy Lạp (1927), Ai cập (1941), Tây Ban Nha (1931), Ireland (1937)... Sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, số lượng quốc gia thành lập cơ quan bảo hiến tăng nhanh và mở rộng ra nhiều châu lục khác, ví dụ như ở Brazil (1946), Nhật Bản (1947), Miến Điện (1947), Ý (1948), Thái Lan (1949), CHLB Đức (1949), Ấn Độ (1949), Pháp (1958), Luxembourg (1950), Syria 10TS. Vũ Văn Nhiêm, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2012), Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc bảo đảm quyền con người, Nxb. Giáo dục, tr. 11. 11Xem Historical Steps in the Development of Systems of Constitutional Review and Particularities of Their Basic Models. 12http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/119/596 truy cập vào lúc 20:42 ngày 14/03/2017. 13http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=289664 truy cập vào lúc 20:45 ngày 14/3/2017. 8 (1950), Uruguay (1952), Thổ Nhĩ Kỳ (1961), Angeria (1963)... và cả một số nước thuộc phe XHCN trước đây như Nam Tư cũ (1963), Tiệp Khắc (1968)14... Trong thời kỳ này, ngoài tòa án (tòa án thường và tòa án Hiến pháp) như ở Mỹ và Áo, ở một số nước, pháp luật còn giao quyền bảo hiến cho một số cơ quan khác, ví dụ như Hội đồng bảo hiến, các tòa đặc biệt thuộc Toà án tối cao, hoặc cho bản thân Nghị viện. 14Xem Historical Steps in the Development of Systems of Constitutional Review and Particularities of Their Basic Models. 9 Chương 2 Cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ, Pháp. 2.1 Cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ Bộ máy nhà nước Mỹ được xây dựng trên nguyên tắc bảo đảm sự kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc phân chia quyền lực này chi phối cách chức tổ chức và hoạt động cơ chế bảo hiến của Hiến pháp Mỹ. Theo đó, các Tòa án không những có khả năng xét xử các hành vi vi phạm của công dân mà còn có khả năng kiểm soát, hạn chế quyền lực của cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp. Như vậy, khi phát hiện một văn bản trái với nội dung hoặc tinh thần của Hiến pháp thì phải có cơ quan nào đó làm vô hiệu hóa văn bản này. Với quan điểm này thẩm quyền tiến hành hoạt động bảo hiến được trao cho tất cả các cơ quan Tư pháp, mà đứng đầu là Tòa án tối cao Liên bang. Ngày nay, bảo hiến đã trở thành một trong những thẩm quyền quan trọng nhất của cơ quan này. Ở Mỹ, các Tòa án được tổ chức và hoạt động theo hai hệ thống song song là Tòa án Liên bang và Tòa án bang. Hai hệ thống Tòa án này không hoàn toàn tách biệt mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hệ thống Tòa án Liên bang Mỹ gồm có: các Tòa án khu vực Liên bang, các Tòa án phúc thẩm lưu động Liên bang, Tòa án tối cao Liên bang. Không giống như các nước theo mô hình Hội đồng bảo hiến hoặc Tòa án Hiến pháp, ở Mỹ việc xem xét tính hợp hiến của một văn bản luật được thực hiện theo một thủ tục thông thường. Trong khi xét xử một vụ việc cụ thể, nếu vấn đề xem xét tính hợp hiến của các đạo luật được đặt ra và Tòa án xét xử cho rằng đạo luật được áp dụng các dấu hiệu trái với Hiến pháp thì theo yêu cầu của các bên liên quan hoặc Tòa án tự mình đệ đơn lên Tòa án tối cao yêu cầu kiểm tra tính hợp hiến của đạo luật đó. Các Thẩm phán của tòa án thụ lí, giải quyết vụ việc, đồng thời cũng chính họ thực hiện luôn việc kiểm tra, đánh giá và kết luận về tính hợp hiến của các đạo luật được áp dụng trong vụ án đó15. Trong mối quan hệ giữa Hiến pháp với cơ quan Tư pháp, Hiến pháp Hoa kì phát triển thông qua hoạt động thực tiễn của cơ quan Tư pháp mà trung tâm là Tòa án tối cao 15TS. Vũ Văn Nhiêm, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2012), Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc bảo đảm quyền con người, Nxb. Giáo dục, tr. 290. 10 hơn là ở chiều tác động ngược lại. Đó cũng chính là vai trò bảo vệ Hiến pháp của Tòa án tối cao: thông qua hoạt động xét xử, Tòa án tối cao có quyền tuyên bố một đạo luật hay một hành động vi hiến, có quyền giải thích Hiến pháp. Hệ quả là các quy định của Hiến pháp có hiệu lực trực tiếp chứ không phải chỉ dừng lại ở những quy định mang tính tuyên ngôn. Trong quá trình xét xử, Tòa án tối cao trực tiếp vận dụng hay giải thích những vấn đề quy định trong Hiến pháp để đưa ra phán quyết. Đây là một vấn đề mang ý nghĩa vô cùng đặc biệt bởi vì Hiến pháp đã trở nên gần gủi với đời sống xã hội chứ không đơn thuần như một đạo luật cơ bản rồi căn cứ vào đó các văn bản luật triển khai chi tiết cụ thể hơn để điều chỉnh các quan hệ xã hội như một số Hiến pháp khác trên thế giới. Cụ thể cơ chế bảo hiến của Hiến pháp Hoa Kì được thực hiện như sau: 2.1.1 Cơ sở hình thành Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên trên thế giới trao quyền phán quyết một văn bản luật và dưới luật do Nghị viện ban hành cho Tòa án, nhìn chung trong Hiến pháp Hoa kỳ không có Điều khoản nào quy định cụ thể việc Tòa án có thể tuyên bố một đạo luật vi hiến, mà thẩm quyền này xuất phát từ một vụ kiện nổi tiếng vào năm 1803 giữa John Mabury kiện Madison. Từ đó cho thấy cơ sở hình thành của thẩm quyền này xuất phát từ án lệ. Nội dung vụ án: Ngay trước khi rời khỏi vị trí tháng 3 năm 1801, Tổng thống John Adam đã cố gắng bổ nhiệm những người thuộc đảng mình vào những vị trí mới trong ngành tư pháp. Tổng thống mới, Thormas Jefferson đã bất bình với hành động mà ông cho là đã lạm dụng quyền lực. Sau khi phát hiện ra một số bổ nhiệm chưa được thực hiện, ông đã ra lệnh cho Bộ trưởng Ngoại giao của mình là James Madison bãi bỏ các sự bổ nhiệm đó. William Marbury, một trong những người bổ nhiệm bị bãi bỏ, đã kiện yêu cầu Tòa án buộc ông James Madison tuân thủ các quyết định bổ nhiệm ông làm Thẩm phán của Tổng thống John Adam. Ông cho rằng Đạo luật tư pháp năm 1789 đã trao cho Tòa án tối cao liên bang quyền ban hành lệnh yêu cầu một quan chức chính quyền thực hiện nghĩa vụ của họ. Ông muốn Tòa án tối cao buộc Madison chấp nhận việc bổ nhiệm chính đáng của mình. Vụ án này đã đặt Tòa án tối cao lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu Tòa ányêu cầu cơ quan hành pháp trao quyền cho Marbury thì rất có thể Tổng thống sẽ từ chối 11 và uy tín của Tòa án tối cao rất có thể bị giảm sút. Còn ngược lại, nếu Tòa án khước từ yêu cầu này thì vô hình chung công khai thừa nhận tư pháp không có quyền gì đối với hành pháp. Tuy nhiên, trong tình thế tưởng chừng như bế tắc đó, Chánh án Tòa án tối cao John Marshall (1755 - 1835) với sự thông thái của mình đã đưa ra quyết định sáng suốt với sự giải thích mà sau này đã trở thành dấu ấn lịch sử Hiến pháp Hoa Kỳ. Marshall đã tuyên bố Tòa án tối cao liên bang không có quyền giải quyết vấn đề này, mặc dù mục 13 của đạo luật tư pháp liên bang trao cho Tòa án thẩm quyền trong lĩnh vực đó nhưng quy định này trái với Điều 3 của Hiến pháp Hoa Kỳ 1787. Ông cho rằng Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước và có hiệu lực pháp lý tối cao.Vì khi một đạo luật thông thường trái với Hiến pháp thì đạo luật đó phải tuyên là vô hiệu 16. Giải quyết vụ án Marbury – Madison 1803, Chánh án Tòa án tối cao Marshall đã đưa ra các tuyên bố sau: + Hiến pháp là luật tối cao của đất nước; + Những luật hay quyết định này được đưa ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ phận của Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp; + Thẩm phán, người đã từng tuyên thệ bảo vệ Hiến pháp phải tuyên bố hủy bỏ những luật lệ quy định nào của cơ quan lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp17. Ba tuyên bố trên đã xác lập chức năng bảo hiến của Tòa án và quyền tài phán của Tòa án về các quyết định lập pháp, hành pháp liên quan đến Hiến pháp. Giúp cho hệ thống các cơ quan Tòa án Mỹ không những có chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của công dân mà còn có chức năng kiểm soát quyền lực của các cơ quan lập pháp và hành pháp. Đưa Tòa án tối cao liên bang trở thành bộ phận thứ ba, quan trọng trong bộ ba kiểm soát và cân đối mọi vấn đề của đất nước. 2.1.2 Chủ thể có quyền yêu cầu bảo hiến Ở Hoa Kỳ, cơ chế bảo hiến quy định quyền khởi kiện thuộc về các bên tranh chấp trong một vụ án cụ thể (có thể theo lời tư vấn, yêu cầu của Luật sư). Đương sự phải chứng minh được rằng đạo luật vi hiến sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi gì của họ, và việc xác định đạo luật đó hợp hiến hay vi hiến là căn cứ, cơ sở để giải quyết một vụ án thông thường. Hay nói cách khác là bất kì chủ thể nào cũng có quyền yêu cầu Tòa án xem xét lại 16TS Vũ Đăng Hinh(2001),Hệ thống chính trị Mỹ, Nxb. KHXH, tr. 184. 17 TS Lê Vinh Danh (2001),Chính sách công của Hoa Kỳ giai đoạn 1935 – 2001, Nxb. Thống kê, tr.42. 12 tính hợp hiến của một đạo luật khi nó ảnh hưởng, xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của chủ thể đó. 2.1.3 Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến Trong lĩnh vực bảo hiến, thẩm quyền của Tòa án tối cao Liên bang là độc tôn, cả Tổng thống và Nghị Viện đều không thể can thiệp vào quyết định của Tòa án tối cao liên bang về việc xem xét giá trị pháp lí hay sự giải thích của một đạo luật, hoạt động bảo hiến không tách rời khỏi hệ thống Tòa án nói chung, ở đây không có dạng vụ việc cụ thể về vấn đề hiến định mà có thể có mặt ở tất cả các vấn đề dân sự, hành chính, hình sự . Ở Mỹ không có sự phân chia phạm vi thẩm quyền trong lĩnh vực Hiến pháp mà phạm vi này phụ thuộc vào phạm vi vụ việc được xem xét, các Tòa án ở Hoa Kỳ được thực hiện tất cả các phạm vi bảo hiến. Phạm vi thẩm quyền của các Tòa án Hoa Kỳ bao gồm có mặt ở tất cả các vụ việc và được phán xét theo một trình tự thủ tục chung, Tòa án không chịu sự hạn chế nào về thẩm quyền trong việc xem xét tính hợp hiến của một đạo luật miễn là đạo luật đó vi hiến và khi áp dụng vào một vụ việc cụ thể sẽ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp khác của chủ thể liên quan. Vì vậy, bất kỳ Tòa án nào cũng có thể phán quyết về tính hợp hiến của văn bản luật. Nhưng quyết định của Tòa án cấp cao hơn có ưu thế hơn vì chỉ có quyết định đó mới có tính bắt buộc đối với mọi Tòa án khác, chỉ sau khi Tòa án cao nhất phủ nhận tính hợp hiến của văn bản luật thì văn bản đó sẽ mất hiệu lực. Quy trình thủ tục Ở Mỹ, việc xem xét tính hợp hiến của một văn bản luật và giải quyết những vấn đề liên quan đến Hiến pháp được thực hiện theo thủ tục thông thường. Khi nào trong quá trình giải quyết mà có yêu cầu của đương sự xem xét tính hợp hiến của một đạo luật thì Tòa án mới mở thêm phiên tòa để xem xét và ra tuyên bố, lấy kết quả đó để giải quyết vụ án thông thường. Phán quyết về tính hợp hiến có thể bị kháng cáo, bị xem xét lại, bị hủy bỏ… bởi một Tòa án cấp trên không có hiệu lực chung thẩm. Chỉ trong trường hợp Tòa án tối cao ra 13 quyết định thì phán quyết đó mới có hiệu lực chung thẩm và bắt buộc đối với toàn bộ hệ thống Tòa án. 2.1.4 Cơ chế giám sát và tính chất giám sát Ở Mỹ hình thành cơ chế giám sát cụ thể, quyền bảo hiến gắn liền với một vụ việc cụ thể và phải có liên quan trực tiếp đến lợi ích cụ thể của cá nhân hay tập thể, bên khởi kiện phải chứng minh được rằng đạo luật được đưa ra áp dụng xét xử không những trái với Hiến pháp mà còn xâm hại đến quyền lợi của họ, các quyền bị xâm phạm phải là các quyền cụ thể chứ không phải là các quyền chung chung. Trong trường hợp các bên không yêu cầu các bên xem xét tính hợp hiến của đạo luật được đem ra áp dụng, Tòa án có thể thông báo khả năng này thông qua một phán quyết giải thích. Tuy nhiên, việc đưa ra yêu cầu xem xét tính hợp hiến của các đạo luật vẫn thường do một trong các bên yêu cầu xem xét. Như vậy, vụ kiện về tính hợp hiến của một đạo luật luôn đi kèm với một vụ việc cạnh tranh cụ thể. Kết quả của vụ án hiến pháp sẽ trở thành một trong những cơ sở để giải quyết vụ án ban đầu, nhưng không phải trong trường hợp nào Tòa án cũng xem xét tính hợp hiến của một đạo luật, sự xem xét tính hợp hiến của một đạo luật chỉ được xem xét khi thực sự cần thiết cho quá trình xét xử vụ án đó mà thôi. Trên cơ sở áp dụng Hiến pháp và đạo luật trên một vụ việc, Tòa án sẽ xem xét đạo luật đó có vi hiến hay không. Chỉ có Tòa án mới có quyền xem xét tính hợp hiến của một đạo luật khi nó ảnh hưởng tới quyền lợi của một cá nhân trong một vụ việc cụ thể nào đó, và có sự đề nghị của người đó. Như vậy, tiền đề để Tòa án xem xét một đạo luật có vi hiến hay không liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của một cá nhân trong một vụ việc cụ thể. Cơ chế giám sát sau của Mỹ được thực hiện chỉ khi một đạo luật của Nghị Viện đã được ban hành, có hiệu lực, áp dụng trên thực tế, gây ra ảnh hưởng và thiệt hại cho các bên tranh chấp. Nghĩa là Tòa án không được tuyên bố một đạo luật là vi hiến khi còn là dự án và đang thảo luận dù nó có dấu hiệu vi hiến. 2.1.5 Hệ quả pháp lý 14 Tòa án Mỹ chỉ kiểm tra tính hợp hiến của một đạo luật khi có một vụ án hay một vụ tranh chấp cụ thể. Điều đó dẫn đến hậu quả tất yếu là hiệu lực của những phán quyết đối với các đạo luật chỉ giới hạn trong những vụ án. Việc Tòa án tuyên bố một đạo luật là vi hiến nhưng Tòa án không có quyền sửa đổi, bổ sung đạo luật đó, xuất phát từ việc áp dụng triệt để học thuyết tam quyền phân lập - ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp kiềm chế đối trọng và phân công phân nhiệm rõ ràng, nên việc Tòa án tuyên bố một đạo luật vi hiến thì việc sửa đổi luật thuộc về nhánh lập pháp tức Hạ viện, Nghị viện. Về nguyên tác áp dụng thủ tục theo trình tự thông thường nên phán quyết của Tòa án không có giá trị chung thẩm mà có thể bị kháng cáo kháng nghị. Ví dụ: Đơn cử, ngày 17/3/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump đệ đơn kháng cáo quyết định của thẩm phán liên bang Maryland trong việc đình chỉ sắc lệnh cấm nhập cư mới của Nhà Trắng bị cho là vi hiến. ∎Ưu điểm: việc phán quyết của Tòa án không có giá trị chung thẩm và được kháng cáo kháng nghị giúp giảm thiểu được các trường hợp phán quyết đó không đúng, giúp đảm bảo tính hợp pháp của các phán quyết. ∎Nhược điểm: gây khó khăn trong việc nghiên cứu pháp luật và khả năng tranh tụng của các luật sư. Việc không bải bỏ các hành vi lập pháp, hành pháp bị phán quyết là vi hiến dễ dẫn đến hiện tượng nhầm lẫn đối với các đối tượng muốn nghiên cứu về pháp luật Hoa Kỳ hoặc các luật sư muốn dùng án lệ phải tốn nhiều thời gian để lọc bỏ các vụ việc vi hiến. 2.2 Cơ chế bảo hiến của Pháp Cộng hoà Pháp là quốc gia có lịch sử lâu đời với truyền thống văn hoá, khoa học, chính trị, pháp luật… đáng tự hào. Pháp cũng là quốc gia có lịch sử lập hiến đầy biến động và phức tạp bậc nhất thế giới với hàng loạt các biến cố chính trị trong suốt 200 năm qua: đó là 5 cuộc cách mạng, 2 đế chế, 2 lần phục hồi vương quyền, 5 chế độ cộng hoà. Khởi đầu từ cuộc Đại cách mạng năm 1789, lịch sử lập hiến Cộng hoà Pháp đã trải qua 12 chế độ chính trị với 16 bản Hiến pháp và các đạo luật hiến pháp quan trọng khác. Trong đó, Hiến pháp ngày 04/10/1958 thiết lập chế độ Cộng hoà lưỡng tính dựa trên chế độ nghị viện hợp lý và xu hướng đề cao vai trò của Tổng thống. Lần đầu tiên, Hiến pháp quy định thành lập một cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp – Hội đồng Hiến pháp. 2.2.1 Cơ sở hình thành
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan