Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài phân tích luận điểm của hồ chí mình “đảng ta là đảng cầm quyền....phải gi...

Tài liệu đề tài phân tích luận điểm của hồ chí mình “đảng ta là đảng cầm quyền....phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng

.DOC
20
1222
64

Mô tả:

Đề tài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Mình :“Đảng ta là Đảng cầm quyền....Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” Liên hệ với thực tế Việt Nam hiện nay. I. Đặt vấn đề. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là Đảng cầm quyền....Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.Đó là một lời khẳng định, sự nhắc nhở mà toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải ghi nhớ và thực hiện. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta liên tiếp thực hiện và giành thắng lợi nhiều cuộc cách mạng, giành độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc. Đó là sứ mệnh lịch sử mà cũng là công lao của Đảng, không thể phủ nhận.Trong di chúc của Bác đã nêu lên mỗi quan hệ giữa Đảng nhân dân cũng như nhiệm vụ của Đảng trước nhân dân, đó là nhiệm vụ, trách nhiệm mang tính bắt buộc và có ý nghĩa sống còn. 1 1. 1.1 II. Giải quyết vấn đề. Phân tích luận điểm “Đảng ta là một Đảng cầm quyền.” 1.11. Khái niệm“Đảng cầm quyền”. “Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình.Đối với Đảng ta, khái niệm “Đảng cầm quyền” là để chỉ vai trò của Đảng khi Đảng đã giành được chính quyền; Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng chính quyền, thông qua chính quyền và các đoàn thể nhân dân. Khái niệm “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau này Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di chúc dặn lại, Bác viết: “Đảngta là một đảng cầm quyền”. Trong Điều lệ Đảng được Đại hội X của Đảng thông qua cũng khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền”. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền, Cụ thể là:  Khi chưa có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng với nhân dân là quan hệ máu 2 thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng không có điều kiện để phát sinh tệ nạn như quan liêu, mệnh lệnh, ức hiếp quần chúng.  Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Từ kinh nghiệm bản thân và kinh nghiệm thành công, thất bại của các Đảng Cộng sản cầm quyền khác, Đảng Cộng sản Việt Nam rút ra kết luận quan trọng: Đường lối cách mạng đúng đắn là nhân tố quyết định để giữ vững vai trò Đảng (duy nhất) cầm quyền. Đường lối cách mạng Việt Nam gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là con đường cách mạng vô sản mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chọn từ thập kỷ 20 của thế kỷ trước và Đảng ta kiên định lãnh đạo toàn dân đi theo. Đường lối cách mạng Việt Nam chủ trương giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, thực hiện mục tiêu cao cả: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Quá trình hoạch định đường lối cách mạng, Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, không giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, xuất phát từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn đất nước cùng nhận định về thời cuộc. Sau cách mạng Tháng Tám 1945, và ở miền Nam sau ngày 30-4-1975, Đảng ta lãnh đạo nhân dân bắt tay ngay vào việc xây dựng, giữ vững 3 chính quyền mới. Mà nói đến chính quyền là nói đến Nhà nước, pháp luật và quyền lực.Xây dựng Nhà nước trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng, trên cương vị Đảng cầm quyền.Đây là Nhà nước kiểu mới, khác về bản chất so với Nhà nước dưới các chế độ khác, là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.Chính nhân dân là chủ nhân của Nhà nước, mọi quyền lực của Nhà nước đều là quyền lực của nhân dân, thuộc về nhân dân. 1.12. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền.  Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, không có các đảng chính trị đối lập, không có sự cạnh tranh về vai trò lãnh đạo của Đảng;  Đảng hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đất nước đã được nhân dân thừa nhận trong thực tế và được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam;  Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, một công cụ đắc lực, mạnh mẽ và sắc bén để Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội và có Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.  Qua 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhân dân và cả dân tộc Việt Nam thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo và quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng được nhân dân tin yêu, che chở, bảo vệ và coi Đảng là Đảng của mình. 4  Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ với các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế; ngoài ra, Đảng còn có quan hệ với nhiều đảng cầm quyền khác trên thế giới; có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bèvà nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới. 1.13. Đảng lãnh đạo. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam được xác định là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, theo đó ta hiểu Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không điều hành xã hội thay Nhà nước; Nhà nước quản lý xã hội nhưng không xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nói rõ phương thức lãnh đạo của Đảng: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”. 1.2“Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư,Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” 5 1.21. “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạchMỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.” Sau khi trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vạch rõ những suy thoái của một số cán bộ, đảng viên và cảnh báo hai nguy cơ đối với một Đảng cầm quyền: một là, sai lầm về đường lối; hai là, sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng thông qua (năm 1991), Đảng lại nhấn mạnh đến hai nguy cơ này và đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (1/1994), Đảng đã bổ sung và xác định có 4 nguy cơ đối với Đảng và cách mạng Việt Nam lúc này là:  Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do điểm xuất phát thấp.  Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.  Nguy cơ về tệ nạn tham nhũng và tệ quan liêu, lãng phí.  Nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Trong 4 nguy cơ đó, có hai nguy cơ bên trong rất nguy hại có thể làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng bất cứ lúc nào là:  Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa  Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tệnạn quan liêu, xa dân, tham nhũng, lãng phí. 6 Đây thực sự là nguy cơ “bên trong” đặc biệt nguy hại không thể coi thường.vì vậy việc xây dựng Đảng ta trở thành một “Đảng trong sạch vững mạnh” là hết sức cấp thiết. Theo Hồ Chí Minh “Nhân vô thập toàn” nghĩa là con người thì khó có ai tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm; càng đảm nhiệm nhiều công việc thì càng dễ có sai lầm, khuyết điểm nhiều hơn.Điều quan trọng là ở chỗ có dám tìm ra khuyết điểm để sữa chữa hay không. Theo Bác: “Một Đảng mà giấu diếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó.Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” 1 . Việc nhiều lần Đảng ta tự chỉnh đốn, mà gần đây nhất là đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình của các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” bước đầu mang lại nhiều hiệu ứng tích cực, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương công khai thừa nhận và thành thật nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân về những yếu kém, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng và về những suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Điều đó đã thể hiện tinh thần cầu thị nghiêm túc của Đảng, đồng thời khẳng định ý chí quyết tâm đẩy lùi những khuyết điểm, yếu kém để Đảng không ngừng nâng cao sức chiến đấu, phẩm chất, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, ngày càng ngang tầm với trọng trách được giao. Như thế Đảng ta là 7 một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính thì cần phải được khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp sửa đổi. 1.22. “Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Quacâu nói trên, Bác đã khái quát yêu cầu bản chất về đạo đức của cán bộ, đảng viên (CBĐV) và yêu cầu xuất phát từ bản chất cách mạng của Đảng ta, từ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong sự nghiệp cách mạng (CM). Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân, có chức năng lãnh đạo cuộc CM vì mục đích phục vụ nhân dân, lấy lợi ích nhân dân làm lợi ích cao nhất của mình, thì hoàn toàn không có một bức tường ngăn cách nào giữa nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ phục vụ. Ngày 3/3/1951, trong lời kết thúc buổi lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Những người mà:  Giàu sang không thể quyến rũ  Nghèo khó không chuyển lay  Uy lực không thể khuất phục". Bác còn nói: "Đảng Lao động Việt Nam không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề nguy hiểm đến mấy, nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành cho nhân dân". 8 Tháng 1/1960, tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Bác Hồ nói: “...Thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó khăn hơn nhiều. Ngày nay ở miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng đoàn kết và lãnh đạo nhân dân ta thi đua kiến thiết chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống vui tươi, no ấm và mỹ tục thuần phong. Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta. Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có một lợi ích nào khác”. Đảng ta là như vậy. Vậy, đảng viên, cán bộ của Đảng phải như thế nào? Phải hiểu mối quan hệ giữa lãnh đạo và phục vụ như thế nào cho đúng? Người nói: "Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được"... Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10/1947), Bác Hồ đặt ra câu hỏi: "Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào?" và Bác trả lời: “Cố nhiên không phải ngồi phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh. Lãnh đạo đúng nghĩa là: 9  Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng.  Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.  Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì phải có quần chúng giúp mới được. ... Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng". Ngày 18/1/1947, nói chuyện tại Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ sáu, Bác nhắc nhở cán bộ, đảng viên: "Muốn lãnh đạo được quần chúng trước hết phải có đạo đức cách mạng"."Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến.Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước.Đồng chí ta nhiều người đã làm được nhưng vẫn còn những người hủ hóa.Đảng có trách nhiệm gột rửa cho những đồng chí đó. Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã. Đồng chí ta phải học lấy bốn đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm, chính. Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên".2 Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, phục vụ cách mạng. Vì vậy, Bác nhấn mạnh: “Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng mình vào Đảng 10 để làm đầy tớ cho nhân dân... Làm đầy tớ nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân". Tư tưởng đảng viên và cán bộ “vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân" là tư tưởng nhất quán và xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Bác Hồ, đặc biệt từ khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền. Ngày nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần lời căn dặn đó mới có thể đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi. Vấn đề xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là vấn đề cực kỳ quan trọng, bức thiết, song vô cùng khó khăn, phức tạp.Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đặc biệt quan tâm đến vấn đề này.Nếu không xây dựng được Đảng vững mạnh, có uy tín trong nhân dân, được nhân dân tin yêu và bảo vệ thì phát sinh nhiều nguy cơ đối với Đảng, với chế độ, với đất nước. Vào Đảng là tự nguyện tuân theo nguyên tắc tổ chức của Đảng, theo kỷ luật của Đảng, trong khi yêu cầu quyền lợi cá nhân của con người bây giờ rất lớn, rất đa dạng và tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa trong nước và trên thế giới diễn biến rất mau lẹ, phức tạp, khó lường, cho nên xây dựng Đảng lại càng khó khăn. Bởi vậy, muốn xây dựng Đảng vững mạnh và tạo được lòng tin yêu của nhân dân thì Đảng phải "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". 2. Liên hệ thực tế Việt Nam hiện nay Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của một đảng cầm quyền, nhân dân ta đã giành thắng lợi vang dội trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trở thành biểu tượng cho ý chí quật cường, được nhiều dân tộc trên thế 11 giới học tập. Thắng lợi trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam là động lực để nhiều nước châu Phi (trong đó “năm châu Phi” – năm 1960, năm mà 17 nước châu Phi giành được độc lập, được xem là cột mốc quan trọng, đánh dấu sự cáo chung của phương thức khai thác thuộc địa kiểu cũ), châu Mỹ Latin vùng dậy, phá tan xích xiềng nô lệ, góp phần chấm dứt chế độ thực dân cũ trên toàn thế giới và giáng những đòn chí tử vào chủ nghĩa thực dân mới. Chính vì vậy, Đảng ta xứng đáng là một đảng cầm quyền và phải giữ cho được là một đảng cầm quyền. Đó là sự khẳng định của Hồ Chí Minh, không phải cho bản thân mình, mà cho các thế hệ đồng bào và lớp lớp đồng chí đã không quản ngại hy sinh đi theo Đảng, một lòng một dạ trung thành với Đảng. Từ bỏ vai trò cầm quyền chính là phủ định công lao của đồng bào, đồng chí và chiến sĩ đã chiến đấu vì mục tiêu cao đẹp của Đảng, từ ngày thành lập cho đến nay. Giữ cho được là đảng cầm quyền cũng không phải là để cho Đảng mà là cho nhân dân, cho dân tộc.Để giữ cho được là đảng cầm quyền, Đảng ta đã pháp quy hóa mong muốn đó của Bác, bằng Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 4 Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Tuy nhiên, cũng cần hiểu đầy đủ lời của Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Vì là “một đảng cầm quyền” nên có thể phát 12 sinh những vấn đề do chỉ có một đảng nắm quyền, nhất là khi nắm quyền liên tục trong một thời gian dài. Là đảng duy nhất cầm quyền, ở đỉnh cao quyền lực, rất có thể nội bộ Đảng nảy sinh những trì trệ, thậm chí sai lầm, nếu Đảng giáo điều, không phát huy và mở rộng dân chủ, không lắng nghe phản ánh từ nhân dân, không tiếp thu các ý kiến phản biện… Rất có thể, khi cầm quyền trong thời gian dài, Đảng tự xây cho mình một “tháp ngà” và tự cách biệt mình với quần chúng nhân dân. Nghiêm trọng hơn, chính điều đó nảy sinh quan liêu, xa dân, tham nhũng, thậm chí độc đoán, dần đánh mất lòng tin của nhân dân.Điều này đã từng xảy ra với một số đảng, dẫn đến kết cục đảng không cầm quyền được nữa, gây những hệ lụy nguy hiểm cho quốc gia, cho dân tộc. Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, các tổ chức đảng được thành lập ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội từ trung ương đến cơ sở. Hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước gồm 4 cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở. Ngoài ra, tổ chức đảng còn được lập ra ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Hiện nay, toàn Đảng có 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58 đảng bộ tỉnh, 05 đảng bộ thành phố, 04 đảng bộ trực thuộc Trung ương. Có gần 1.300 đảng bộ cấp huyện và tương đương (gần 700 đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và gần 600 đảng bộ tương đương là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng). 13 Đến 31/12/2011, toàn Đảng có hơn 57.000 tổ chức cơ sở đảng, với hơn 23.000 đảng bộ cơ sở và hơn 34.000 chi bộ cơ sở; hơn 1.600 đảng bộ bộ phận, hơn 241.000 chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở với tổng số hơn 3,9 triệu đảng viên. Có 5 loại hình tổ chức cơ sở đảng cơ bản là: Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp (trong đó có nhiều loại hình doanh nghiệp); tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị sự nghiệp và tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang. Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới đòi hỏi vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng, trọng trách của Đảng càng nặng nề. Để hoàn thành trọng trách đó, Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng về đảng cộng sản trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái”3. Để thực hiện được điều đó, công tác xây dựng Đảng cần chú trọng vào những vấn đề cơ bản sau: Một là, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. 14 Trình độ lý luận chính trị, sự giác ngộ xã hội chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ, đảng viên là cơ sở quan trọng, vững chắc để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Mọi ý kiến bất đồng, nhận thức sai trái về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước sẽ làm cho Đảng suy yếu, ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, là nguy cơ trực tiếp gây mất ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, cần đổi mới và nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Qua đó, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn luôn khẳng định và tin tưởng vào mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố cơ bản hàng đầu quyết định sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, phẩm chất đạo đức, lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật của giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo đúng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, thường xuyên giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, nâng cao sức “đề kháng” của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trước các thủ đoạn tấn công của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, chống “tự diễn biến”, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách sâu rộng trong toàn Đảng và toàn xã hội. 15 Hai là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong sinh hoạt và hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Thực hiện nguyên tắc này góp phần giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; bảo đảm cho Đảng là một chỉnh thể, một tổ chức chặt chẽ, thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức; đồng thời khắc phục mọi biểu hiện lệch lạc, sai trái do tác hại của bệnh quan liêu, gia trưởng, độc đoán chuyên quyền, cục bộ, bè phái gây ra. Vì vậy, cần tăng cường sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng về vị trí, vai trò, nội dung, bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.Tiếp tục cụ thể hóa nội dung, yêu cầu của nguyên tắc này thành quy chế làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng. Mọi đảng viên và tổ chức đảng phải nói và làm theo đúng nghị quyết của Đảng. Có cơ chế mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong sinh hoạt và hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng. Nâng cao chất lượng tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phát huy vai trò của các cấp ủy đảng trong việc bàn bạc, quyết định những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, phân công, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện của cán bộ, đảng viên, nhất là hoạt động của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Ba là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực trong Đảng. 16 Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là “thang thuốc hiệu nghiệm”, biện pháp tốt nhất để giải quyết mọi bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ tổ chức đảng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên yêu thương, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc vai trò của tự phê bình và phê bình; có động cơ, thái độ, trách nhiệm tự phê bình và phê bình đúng đắn, trong sáng; tiến hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc theo đúng tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng phê bình để bôi nhọ, vu cáo, hạ uy tín cá nhân, gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ. Phát huy vai trò của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đoàn thể nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của đảng viên, phát hiện những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực.Thực hiện công khai hóa, dân chủ hóa những vấn đề liên quan đến tài chính, kinh tế; hoàn chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện những điều đảng viên không được làm. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng, công tác thanh tra của Nhà nước, công tác giám sát của các đoàn thể nhân dân. Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên quan liêu, tham nhũng, thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của đoàn thể. Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên nhằm xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. 17 Kết thúc vấn đề. Tình hình thực tế và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao chất lượng cầm quyền.Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, có đầy đủ năng lực và bản lĩnh lãnh đạo. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, vì đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Phải hết sức coi trọng công tác tư tưởng và lý luận, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho toàn Đảng, đấu tranh làm thất bại mọi luận điệu phản động, mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Phải hết sức coi trọng kiện toàn tổ chức Đảng, từ Trung ương đến cơ sở. Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chống quan liêu, bè phái, cục bộ địa phương... Đặc biệt, chúng ta phải kiên quyết xây dựng Đảng, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) là: “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng” (Thông báo Hội nghị Trung ương 4). Trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Di chúc: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Lời căn 18 dặn của Người, nhắc nhở mỗi đảng viên, cán bộ của Đảng cầm quyền phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, có phẩm chất và lối sống tốt đẹp, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, để Đảng ta luôn luôn giữ vững vai trò Đảng cầm quyền. 19 Phụ lục. 1 Hồ chí minh toàn tập Tập 12, tr 557­558.   2  HCM toàn tập, Tập 3, tr. 268. 3 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 89-90. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan