Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đề tài Nghiên cứu về Chiến tranh tiền tệ...

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu về Chiến tranh tiền tệ

.DOC
25
337
128

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Ngắm nhìn lại tổng quan bối cảnh quốc tế trong những ngày gần đây đó là thế giới đang phải quay cuồng với các vấn đề nợ công Châu Âu, bất ổn tại Hàn Quốc, đe dọa thắt chặt tiền tệ của Trung Quốc, hàng loạt thị trường hàng hóa thế giới dao động mạnh, những tin xấu liên tục dồn dập như vậy đã làm kinh tế thế giới rung lắc dữ dội trong suốt những ngày vừa qua. Những mối quan tâm nổi cộm đó dường như đã làm thị trường tạm quên đi một vấn đề đã từng rất nóng bỏng, chưa hề được giải quyết, hiện nay vẫn còn âm ỉ và có thể sẽ kéo dài dai dẳng liên quan đến sự mất cân bằng thương mại toàn cầu: đó chính là một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba mang tên “Chiến tranh tiền tệ” – một cuộc chiến nơi đồng tiền là súng đạn và mức sát thương của nó không hề nhỏ. Vậy cuộc chiến ấy là gì và độ khốc liệt của nó đến mức nào và thực sự nó đã xảy ra chưa mà đã làm cho nền kinh tế toàn cầu phải chao đảo. Và vấn đề thực sự nằm ở đâu, ngay sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu. Chương 1: CHIẾN TRANH TIỀN TỆ 1 1.1. Khái niệm chiến tranh tiền tệ Chiến tranh tiền tệ là việc các nước dùng chính sách tiền tệ của mình nhằm làm cho đồng tiền của nước mình được định giá thấp hơn so với đồng tiền của các nước khác. Theo báo Le Monde của Pháp ra ngày 23/10, một cuộc chiến tiền tệ dễ dẫn đến chiến tranh thương mại. Để bảo vệ sản phẩm của mình và công ăn việc làm của dân chúng, các nước sẽ sử dụng các vũ khí như hỗ trợ xuất khẩu, đồng thời áp đặt thuế hải quan và quota để giới hạn nhập khẩu. Các bên sẽ trả đũa nhau. 1.2. Lịch sử về chiến tranh tiền tệ Quay trở lại với quá khứ, trong lịch sử kinh tế thế giới, đã nhiều lần diễn ra cuộc chiến tranh tiền tệ, chúng ta có thể kể đến như đầu những năm 1930, sau khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, khi các nước phải áp mức thuế cao và qui định hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu, hậu quả là hàng hóa tồn đọng, nhưng không nước nào được lợi và kinh tế toàn cầu đã sụp đổ. “Luật Hawley – Smooth của Mỹ thông qua ngày 17/6/1930 đã tăng thuế trên 20.000 mặt hàng nhập khẩu, làm lượng hàng nhập khẩu từ châu Âu giảm 70%, nhưng xuất khẩu của Mỹ cũng giảm tương tự vì bị châu Âu trả đũa”. Khi khủng hoảng kinh tế và tiền tệ khiến các nền kinh tế lớn phá bỏ chế độ “bản vị vàng”, thực hiện chính sách hạ tỉ giá đẩy mạnh xuất khẩu, tranh cướp thị trường, làm đại suy thoái trở nên tồi tệ hơn nữa. Các quốc gia lúc bấy giờ đua nhau dựng lên những rào cản thương mại, khiến lượng hàng hóa lưu thông trên toàn cầu giảm sút nghiêm trọng. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới Chiến tranh thế giới thứ hai, và hậu quả cũng như mức độ sát thương mà nó gây ra và để lại như thế nào thì không ai trong chúng ta là không biết đến và cảm thấy kinh hoàng. Hay như câu chuyện đồng Yên vào thập niên 1980. Năm 1979 trường Đại học Harvard Mỹ xuất bản cuốn “Nhật Bản đứng đầu thế giới”, cuốn sách đã thu hút đông đảo độc giả và giới kinh tế Mỹ. Nhưng ngay sau đó thì Nhật Bản trở thành mục tiêu số 1 để Mỹ kiềm chế, trừng phạt, thể hiện rõ nhất là “Hiệp định Plaza” năm 1985: năm nước Pháp, Đức, Nhật, Anh, Mỹ đồng ý định giá lại đồng Đô la Mỹ trong tương quan với đồng Yên Nhật và đồng Mark Đức vì lúc đó hàng hóa của Nhật đang tràn ngập thị trường nhờ giá rẻ và Mỹ đang chịu cảnh thâm hụt mậu dịch lớn với nước này. Ngay lập tức đồng Yên lên giá mạnh, từ 239 Yên/1 Đô la vào năm 1985 lên 128 Yên/1 Đô la vào năm 1988, một mức tăng gần gấp đôi và điều này làm cho kinh tế Nhật điêu đứng từ đó tới hiện nay. 1.3. Nguyên nhân và đặc điểm của cuộc chiến tranh tiền tệ lần này Cuộc chiến tranh tiền tệ lần này âm ỉ từ cuối thế kỷ 20 đến đầu thế kỷ 21 khi hai thực thể kinh tế lớn là Trung Quốc và Mỹ tiến hành các biện pháp trừng phạt kinh tế lẫn nhau mà phía Mỹ cho rằng Trung Quốc thực hiện chính sách “thao túng tỉ giá” để xuất siêu sang Mỹ, làm cán cân thương mại hai nước không cân bằng. Theo Bộ thương mại Mỹ, tới cuối năm 2006 tổng ngạch xuất siêu của Trung Quốc sang Mỹ tới 235,5 tỉ USD, riêng năm 2006 nhập siêu của Mỹ với Trung Quốc tới 177,4 tỉ USD. Vì vậy, Mỹ ra sức đấu tranh đòi Trung Quốc tăng tỉ giá đồng Nhân dân tệ (NDT) từ 25%-30% so với đồng 2 USD để giảm nhập siêu cho Mỹ. Yêu cầu này đã được EU và các nước khác đồng tình ủng hộ, bởi EU cũng cùng chung cảnh ngộ với Mỹ. Năm 2006, EU nhập siêu của Trung Quốc là 128 tỉ EUR, năm 2007 tới 170 tỉ EUR, năm 2008 tuy có giảm nhưng vẫn lên tới 160 tỉ EUR. Trước yêu cầu của Mỹ và EU, phía Trung Quốc kiên quyết phản đối và lập trường này dường như không thể lay chuyển. Bởi vậy, cuộc chiến về tỉ giá giữa Mỹ - Trung Quốc và EU - Trung Quốc luôn căng thẳng và gay gắt kể từ năm 2003 tới nay. Nhìn chung, tình hình kinh tế hiện nay không mấy khả quan khi các quốc gia đang thi nhau tìm cách ghìm giá đồng tiền của mình: Ngân hàng Trung ương Nhật Bản và Trung Quốc tung tiền ra mua ngoại tệ, trong khi đó Mỹ thì có thể in thêm tiền. Những nước đang vươn lên như Brazil, Thái Lan… cũng có biện pháp nhằm giảm luồng vốn đầu cơ bằng cách đánh thuế trên cổ phiếu mà các nhà đầu tư ngoại quốc mua vào. Những lời chỉ trích tố cáo nhau ngày càng nhiều: ngoài Trung Quốc luôn bị từ Mỹ đến châu Âu, Nhật Bản chỉ trích là thao túng đồng tiền của mình, thì vừa qua Hàn Quốc bị Nhật tố cáo ghìm giá đồng won. Châu Âu chỉ trích Trung Quốc nhưng cũng khá bất an khi nhìn tỉ giá đồng euro quá cao so với đồng USD trong thời gian qua. Ta có thể tóm gọn lại dấu hiệu hay đặc điểm nổi bật của Chiến tranh tiền tệ lần này là các nước đua nhau hạ thấp tỉ giá đồng tiền của mình so với ngoại tệ mạnh để tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu, từ đó góp phần phục hồi kinh tế đất nước sau khủng hoảng. 1.4. Hậu quả Hậu quả nhãn tiền của Chiến tranh tiền tệ là gây nguy hại tới buôn bán quốc tế và cản trở phục hồi kinh tế thế giới. Việc tăng nhanh chóng giá trị tiền tệ làm giảm trầm trọng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu, tạo ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với các nền kinh tế “dựa dẫm” xuất khẩu như Hàn Quốc, Nhật Bản, Brazil.v.v. Ngoài ảnh hưởng đối với xuất khẩu do tỷ giá liên tục tăng cao, các nền kinh tế mới nổi còn lo ngại tỷ giá tăng mạnh sẽ đẩy nhanh các khoản tiền nóng chảy vào thị trường mới nổi, từng bước thổi cao giá tiền tệ và tài sản, càng làm tăng nguy cơ bùng nổ khủng hoảng tài chính lần hai. Báo cáo của Standard Chartered cho biết, châu Á và châu Âu sẽ vấp phải nguy cơ giá tài sản tăng, dòng chảy của vốn tăng. Như đã nói, đây là một cuộc chiến mà đồng tiền là súng đạn và mức sát thương là không thể lường trước được. 3 Chương 2: CHIẾN TRANH TIỀN TỆ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH 2.1. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF 2.1.1. Một vài đặc điểm và mục đích của IMF 2.1.1.1. Đặc điểm IMF được thai nghén từ phiên họp của Liên Hợp Quốc tháng 7 năm 1944 tại Bretton Woods, New Hampshire, Hoa Kỳ. 45quốc gia thành viên có mặt trong phiên họp đã tìm kiếm một cơ cấu hợp tác kinh tế có thể tránh được sự lặp lại các chính sách kinh tế sai lầm từng dẫn tới cuộc đại khủng hoảng thập kỷ 30. Và sau đó, IMF chính thức ra đời vào tháng 12 năm 1945 và đi vào hoạt động ngày 1/3/1947. Hiện nay IMF có 187 quốc gia thành viên. Số lượng nhân viên khoảng 2400 người, hoạt động trên 141 nước. Nguồn vốn của IMF: chủ yếu là vốn cổ phần của các nước thành viên và tích lũy của IMF. Ban đầu, mức cổ phần đóng góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước đó so với kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, IMF cũng có thể vay vốn trên thị trường tài chính quốc tế để phục vụ cho các hoạt động của mình. Đến tháng 8/2009, tổng vốn cổ phần của IMF là 325 tỉ USD. Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu hiện hành của IMF gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban Giám đốc Điều hành, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ. 2.1.1.2. Mục tiêu hoạt động - Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế. - Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế. - Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh. - Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên và xóa bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế. - Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực dự trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế. - Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của các nước thành viên. 4 - Thúc đẩy sự hợp tác tiền tệ quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và tăng trưởng thương mại quốc tế một cách cân đối; tăng cường ổn định tỷ giá; hỗ trợ cho việc thành lập hệ thống thanh toán đa phương; cho các nước hội viên tạm thời sử dụng các nguồn vốn chung của Quỹ với những đảm bảo thích hợp; và rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ mất cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế của các nước hội viên. 2.1.2. Các biện pháp ngăn ngừa chiến tranh tiền tệ của IMF Tổng giám đốc IMF Dominique Strauss-Kahn cho rằng, các chính phủ đang tạo ra nguy cơ châm ngòi cho một cuộc chiến tranh tiền tệ khi cố gắng dùng công cụ tỷ giá để giải quyết những khó khăn của nền kinh tế trong nước. Trong thông cáo chung phát đi sau cuộc họp của IMF diễn ra tại Washington, định chế này chỉ gián tiếp đề cập tới những căng thẳng đang gia tăng xung quanh vấn đề tỷ giá. Thậm chí, trong thông cáo này, IMF tuyên bố sẽ tăng cường giám sát các nền kinh tế phát triển. “Sự giám sát chặt chẽ hơn để phát hiện bất ổn ở những nền kinh tế phát triển lớn là một ưu tiên”, thông cáo của IMF có đoạn viết. Dù các biện pháp giám sát vẫn chưa được vạch ra cụ thể nhưng Giám đốc điều hành IMF Dominique Strauss-Kahn có ý tưởng là IMF sẽ rà soát 5 khu vực kinh tế lớn nhất gồm Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Eurozone và Anh, đồng thời đánh giá ảnh hưởng từ chính sách của các khu vực này đối với nền kinh tế toàn cầu. IMF cũng đã nhiều lần lên tiếng khẳng định đồng NDT đang bị định giá thấp, động thái này khiến cho áp lực đối với nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới xung quanh vấn đề tỉ giá đồng nhân dân tệ ngày càng gia tăng, thế nhưng điều này cũng chẳng khiến phía Trung Quốc quan tâm. Giới lãnh đạo IMF cho rằng tổ chức này cần hoạt động tích cực hơn để kiểm soát dòng chảy tư bản và biến động tỉ giá hối đoái. Cũng theo tuyên bố chính thức của hội nghị, trước tình hình bất ổn của kinh tế toàn cầu, chủ nghĩa bảo hộ cần được loại bỏ bằng mọi giá. 2.1.3. Đánh giá vai trò của IMF trong cuộc chiến tiền tệ Vai trò của IMF chỉ dừng lại ở chỗ cảnh báo, kêu gọi chứ chưa có một biện pháp cứng rắn tích cực nào hay nói cách khác, IMF đã không hoàn thành trách nhiệm của mình. Điều 4 quy định về hoạt động của IMF đã chỉ rõ, tổ chức này phải thực hiện nhiệm vụ giám sát nghiêm ngặt và chấp nhận các nguyên tắc cụ thể để quản lý giao dịch ngoại hối. Tuy vậy những điều này đã không được thực thi. Sự thiếu hụt một cơ chế rõ ràng để can thiệp và áp dụng luật đã buộc G-20 phải hành động. Thay vì để G-20 là nơi thí nghiệm chính sách, IMF cần thực hiện những nguyên tắc căn bản trong điều 4 của mình. Như một phần của trách nhiệm giám sát, IMF cần tính toán giới hạn của cân bằng trung gian trong giao dịch trên thị trường tiền tệ. Cùng với World Bank, IMF nên hỗ trợ các nước thành viên định ra các mức dự trữ ngoại hối tối ưu cho mục tiêu tăng trưởng bền vững. Những hành động tích trữ ngoại hối vượt quá mức cần được tổ chức giám sát cảnh cáo. 5 Làm sao để những nguyên tắc cơ bản này được thực hiện? Rõ ràng Trung Quốc cần góp sức để giúp IMF hoạt động ổn định hơn. Trong khi đó, nước này lại tiếp tục can thiệp sai hướng, chống lại xu thế cân bằng. Tỷ giá đồng NDT cần cao hơn mức hiện nay thì mới có thể duy trì mức phát triển bền vững và tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đang nắm giữ mức dự trữ cao hơn nhiều so với ngưỡng cần thiết, đồng thời Trung Quốc cũng coi thường các lời kêu gọi của IMF về vấn đề đồng NDT. 2.2. Ngân hàng thế giới WB 2.2.1. Khái quát WB là một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội ở các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao động ở các nước này. WB là tổ chức liên kết chặt chẽ với 5 thành viên thuộc hệ thống LHQ gồm: - Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD): được thành lập năm 1945. Hiện nay có 187 thành viên. - Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA): được thành lập năm 1960. Hiện nay có 170 thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD. - Công ty Tài chính Quốc tế (IFC): được thành lập năm 1956. Hiện nay có 182 thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD. - Cơ quan Bão Lãnh Đầu Tư Đa Phương (MIGA): được thành lập năm 1988. Hiện nay có 175 thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD. - Trung tâm Quốc tế Giải quyết Tranh chấp Đầu tư (ICSID): thành lập năm 1966. Hiện nay có 144 thành viên, đồng thời là thành viên của IBRD. Các nước tham gia WB phải có điều kiện tiên quyết là thành viên của IMF. Mỗi thành viên làm một vai trò riêng biệt trong nhiệm vụ chống lại đói nghèo và cải thiện mức sống của người dân các nước đang phát triển. Thuật ngữ “World Bank” (WB) chỉ bao gồm 2 tổ chức là IBRD và IDA, 3 tổ chức còn lại có cơ cấu tổ chức tương đối độc lập với WB. 2.2.2. Cơ cấu tổ chức Hội đồng Thống Đốc (hay Hội đồng quản trị): là cơ quan lãnh đạo cao nhất của WB. Mỗi nước thành viên cử một đại diện của nước mình làm thành viên của Hội đồng Thống đốc, thường là Bộ trưởng tài chính hoặc Thống đốc Ngân hàng trung ương của các nước thành viên. Ban Giám đốc Điều hành: các thống đốc chia nhiệm vụ cụ thể cho 24 Giám đốc điều hành, những người có mặt thường xuyên tại Ngân hàng. Năm cổ đông lớn nhất là Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh Quốc và Hoa Kỳ bổ nhiệm mỗi nước một giám đốc điều hành, 6 trong khi các nước thành viên khác được đại diện bởi 19 giám đốc điều hành. Họ thường họp ít nhất hai lần một tuần để giám sát kinh doanh của Ngân hàng, bao gồm cả phê duyệt các khoản vay và bảo lãnh, các chính sách mới, ngân sách hành chính, chiến lược hỗ trợ quốc gia, cho vay và các quyết định tài chính. Chủ tịch Ngân hàng Thế giới: là người đứng đầu của Ban Giám đốc Điều hành và chịu trách nhiệm quản lý tổng thể của Ngân hàng. 2.2.3. WB và chiến tranh tiền tệ Trước tình hình ngày càng căng thẳng của chiến tranh tiền tệ, gây ra tình trạng mất cân đối thương mại và bất ổn trên thị trường vốn, Chủ tịch WB rất lo ngại với hệ thống tiền tệ quốc tế khi Mỹ và các nước khác đổ lỗi cho Trung Quốc giữ NDT không đúng giá trị thực. Tại hội nghị thượng đỉnh G20 diễn ra tại Seoul (Hàn Quốc), Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) Robert Zoellick kêu gọi G20 khôi phục chế độ bản vị vàng, xem vàng như chiếc mỏ neo định hướng các hoạt động tiền tệ toàn cầu, để tránh xuất hiện tình trạng tương tự như tranh chấp tỷ giá giữa Trung Quốc và Mỹ. Bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bằng hàm lượng vàng. Theo ông Zoellick, thế giới cần cách thức quản lý mới nhằm đạt được thành công của cái mà ông gọi là hệ thống “Bretton Woods II”. Hệ thống này sẽ dùng vàng làm yếu tố tham chiếu kỳ vọng của thị trường đối với lạm phát, giảm phát, giá trị tiền tệ tương lai. Theo ông Zoellick, hệ thống này có thể sẽ liên quan chủ yếu đến đô la Mỹ, euro, yên Nhật, bảng Anh và nhân dân tệ để tiến đến quốc tế hóa. Ông Zoellick còn cho biết trên tờ Financial Times (Anh) ngày 8-11 nên kết thúc việc lấy đô la Mỹ làm mỏ neo cho tiền tệ của các nước. Việc áp dụng chế độ bản vị vàng sẽ góp phần trang bị lại nền kinh tế thế giới trong thời điểm căng thẳng tỷ giá và chính sách tiền tệ của Mỹ. 2.3. Cục dự trữ liên bang Mỹ FED 2.3.1. Khái quát: Cục dự trữ liên bang (tiếng Anh: Federal Reserve System – FED) là ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ. FED bắt đầu hoạt động năm 1915 theo "Đạo luật Dự trữ Liên bang" của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1913. FED bề ngoài là ngân hàng của chính phủ, bao gồm Hội đồng thống đốc đóng tại thủ đô Washington được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ, Ủy ban thị trường, 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và các ngân hàng thành viên có sở hữu một phần ở các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Chủ tịch Hội đồng thống đốc của FED hiện nay là Ben Bernanke. 2.3.2. Cơ cấu tổ chức: - Hội đồng thống đốc (the Board of Governors of the Federal Reserve System). 7 - Ủy ban thị trường ((Federal Open Market Committee - FOMC). - Các Ngân hàng của FED. - Các ngân hàng thành viên (có cổ phần tại các chi nhánh). Mỗi ngân hàng khu vực và ngân hàng thành viên của Cục dự trữ liên bang FED tuân thủ sự giám sát của Hội đồng thống đốc. Bảy thành viên của Hội đồng thống đốc được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ và phê chuẩn bởi Quốc hội. Các thành viên được lựa chọn cho nhiệm kỳ 14 năm (trừ khi bị phế truất bởi Tổng thống) và không phục vụ quá một nhiệm kỳ. Tuy nhiên, một thành viên nếu được chỉ định để phục vụ nốt phần chưa hoàn tất của thành viên khác có thể phục vụ tiếp một nhiệm kỳ 14 năm nữa, ví dụ cựu chủ tịch Hội đồng là Alan Greenspan đã phục vụ 19 năm từ 1987 đến 2006. Ủy ban thị trường gồm 7 thành viên của Hội đồng thống đốc và 5 đại diện từ các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Luôn có một đại diện của ngân hàng FED tại Quận 2, thành phố New York là thành viên trong Ủy ban này (hiện tại là Timonthy Geithner). Thành viên từ các ngân hàng khác được luân phiên theo thời gian 2 hoặc 3 năm. 2.3.3. FED và chiến tranh tiền tệ Ngay khi cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu lắng xuống vào cuối nửa đầu 2010, đồng USD bắt đầu yếu đi nhanh chóng khi cục Dự trữ liên bang Mỹ kiên quyết lập trường nới lỏng tiền tệ, thậm chí áp dụng chính sách nới lỏng số lượng (QE) để kích thích kinh tế. Lúc này các nước trên thế giới thi nhau giảm giá đồng tiền nội tệ của mình bằng cách đẩy đồng USD ra khỏi hệ thống tài chính nhằm tăng xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại của mình. Đối với các nước thuộc khối PIIGS( Hy Lạp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland) thì việc đồng USD giảm giá càng làm cho khả năng vỡ nợ của các nước này giảm đi. Các nước trong khu vực mới nổi như Brazil, Hàn Quốc, Thái Lan và Philipine đều có những biện pháp ngăn chặn dòng tiền nóng này. Cùng với việc neo giá đồng CNY vào đồng USD đã được Trung Quốc sử dụng từ cuối năm 2008 nhằm giữ giá đồng CNY ở mức thấp, thuận lợi cho việc tạo ra thặng dư cán cân thương mại. Điều này tác động làm tăng thâm hụt cán cân thương mại của Mỹ và làm cho căng thẳng đồng tiền giữa hai nước này tăng lên. Cùng lúc này, tình trạng thất nghiệp ở Mỹ cũng tăng cao cùng tình trạng lạm phát đã khiến FED đi đến quyết định tung ra gói định lượng 600 tỷ bằng USD để mua trái phiếu của bộ tài chính trong khoảng thời gian từ nay đến hết tháng 6/2011. Chủ tịch FED đang cố gắng vực dậy tăng trưởng kinh tế Mỹ khi lãi suất cơ bản gần 0% và 1,7 nghìn tỷ USD mua trái phiếu nhưng vẫn không thể giải quyết được vấn đề thất nghiệp và khiến các quan chức kinh tế vẫn “điên đầu” với khả năng giảm phát. Nếu tính cả trái phiếu được mua bằng tiền từ thế chấp, FED sẽ mua tổng số khoảng 850 đến 900 tỷ USD trái phiếu trong khoảng thời gian từ nay đến hết tháng 6/2011, như vậy tương đương khoảng 110 tỷ USD/tháng. 86% trái phiếu được mua sẽ tập trung chủ yếu vào thời hạn 2,5 đến 10 năm. 8 Tuy nhiên, Chủ tịch FED đã đưa ra quyết định về gói kích thích mới bất chấp 5/18 nhà hoạch định chính sách cao cấp nhất tại FED phản đối hay thể hiện sự nghi ngờ về hiệu quả của chính sách này. Trong tình hình nợ công và khiếm hụt ngân sách của Mỹ và các nước châu Âu đang ở mức không thể chấp nhận được thì một quyết định bơm ồ ạt tiền này trước mắt sẽ gia tăng món nợ công khổng lồ hiện có (gần 100% GDP). Việc bơm 600 tỷ USD tất nhiên làm giảm giá đồng USD và khuyến khích xuất khẩu của Mỹ nhưng đồng thời lại gây ảnh hưởng đến đến các nước khác. Thực vậy, việc đồng USD mất giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị các công khố phiếu được một số nước mua với khối lượng lớn như: Trung Quốc (868 tỷ USD), Nhật Bản (836 tỷ), Anh (448 tỷ), các quốc gia xuất khẩu dầu (226 tỷ). Nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị khối dự trữ ngoại tệ 2600 tỷ USD của Trung Quốc. Sau khi FED công bố quyết định bơm tiền, đồng Euro đã tăng giá liên tục ảnh hưởng đến xuất khẩu của Âu châu sang Mỹ, nhất là đối với một số nước yếu về kinh tế như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland, Ý. Theo ông Liu Shijin, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thuộc Hội đồng Nhà nước Trung Quốc cho rằng quyết định làm suy yếu đồng USD của Mỹ sẽ dẫn đến rối loạn lớn trong hệ thống tiền tệ toàn cầu và cuộc chiến tiền tệ là khó tránh. Hậu quả đối với Trung Quốc là tăng trưởng kinh tế nước này trong từ 3 đến 5 năm tới sẽ chỉ còn khoảng 7% so với mức 10% hiện nay. Mức tăng trưởng dưới 8% của kinh tế Trung Quốc được đánh giá là không đủ để bảo đảm ổn định xã hội và tạo việc làm. 2.4. Ngân hàng trung ương Trung Quốc PBOC 2.4.1. Khái quát Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) là Ngân hàng Trung ương của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền kiểm soát chính sách tiền tệ và quản lý các định chế tài chính của nước này. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc có lượng tài sản tài chính nhiều hơn bất cứ định chế tài chính công cộng nào trong lịch sử thế giới. 2.4.2. Cơ cấu tổ chức Bộ máy điều hành tối cao của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc gồm Thống đốc và một số Phó thống đốc. Vị trí Thống đốc được bổ nhiệm hay bãi nhiệm bởi Chủ tịch nước. Ứng viên vào vị trí Thống đốc được đề xuất bởi Thủ tướng và phê chuẩn bởi Quốc hội. Khi Quốc hội không tổ chức kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ phê chuẩn việc bổ nhiệm này. Các Phó thống đốc do Thủ tướng bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc áp dụng hệ thống trách nhiệm tập trung của Thống đốc, theo đó Thống đốc quản lý công việc chung của toàn ngân hàng, các Phó thống đốc trợ giúp Thống đốc hoàn thành trách nhiệm. Thống đốc đương nhiệm là ông Chu Tiểu Xuyên. 9 2.4.3. PBOC và chiến tranh tiền tệ 2.4.3.1. Nguyên nhân PBOC định giá thấp đồng NDT Từ trước đến nay Trung Quốc (TQ) luôn duy trì “cơ chế tỷ giá ngoại hối có kiểm soát” thực chất là kiềm chế tỷ giá đồng NDT dưới mức giá trị thực để thúc đẩy xuất khẩu. Tỷ giá thấp là một ‘vũ khí’ lợi hại bên cạnh những thuận lợi trong nước như là giá nhân công rẻ và sự hỗ trợ của nhà nước. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng cơ chế đó đem lại sự tăng trưởng thần kỳ cho kinh tế Trung Quốc trong mấy thập niên qua. Việc nâng giá NDT cũng có những mặt tích cực, trước hết là giảm căng thẳng xung quanh câu chuyện tỷ giá trong thời gian gần đây và nguy cơ chiến tranh thương mại và điều này gây bất lợi cho các bên. Hơn hết Chính phủ hiểu rõ tăng giá NDT làm giảm bớt sự phụ thuộc của nước này vào xuất khẩu dựa trên nhu cầu của thế giới, nền kinh tế sẽ ổn định hơn khi chuyển từ xuất khẩu sang thị trường nội địa, thu hút đầu tư tiêu dùng nâng cao cuộc sống nhân dân. Nhưng điều này là rất khó thực hiện không phải một sớm một chiều và có thể trả một cái giá nào đó mà ví dụ cụ thể là vấn đề việc làm. Ngoài việc ổn định kinh tế vĩ mô thì việc duy trì và tạo công ăn việc làm luôn là mối quan tâm hàng đầu của chính phủ các nước. TQ lo ngại rằng việc đồng nội tệ tăng giá sẽ dẫn đến hàng triệu công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp xuất khẩu bị mất việc và nguy cơ tăng trưởng thấp, bất ổn xã hội. Việc nâng giá đồng NDT so với USD có thể đi theo vết xe đổ của Nhật Bản. Trong quá khứ Nhật Bản đã từng có thời kỳ phát triển thần kỳ, kinh tế phát triển siêu tốc và không có gì khó hiểu khi mà Nhật Bản nhanh chóng vươn lên đứng thứ hai thế giới sau Mỹ. Nhưng từ cuối thập niên 1980, kinh tế trở nên bị đình trệ, phát triển ì ạch và kéo dài đến ngày hôm nay. Có nhiều nguyên nhân mà các nhà kinh tế, các nhà họach định chính sách đã đưa ra. Nhưng có một sự trùng hợp chắc chắn rằng có sự tác động của chính sách tỷ giá. Tỷ giá cuối thập niên 1980, dưới áp lực của Quốc hội Mỹ, Nhật đã nâng giá đồng JPY từ 240 JPY lên 160 JPY ăn 1 USD trong vòng hai năm. Và Trung Quốc rút ra được kinh nghiệm rất lớn từ vấn đề này. Chính vì thế, tạp chí Foreign Policy của Mỹ hôm 24-9 nhận định, Washington sẽ rất “ngây thơ” nếu kỳ vọng đồng NDT sẽ tăng giá nhanh và Trung Quốc sẽ rất “dối trá” nếu cam kết sẽ tăng giá đồng NDT. 2.4.3.2. Những động thái của PBOC trên thị trường tiền tệ trong thời gian vừa qua Trước sức ép từ Washington và các nước khác thì ngày 22-6, Trung Quốc thông qua PBOC đã thực hiện bước đi đầu tiên trong cam kết linh hoạt giá đồng NDT cụ thể cho tỷ giá đồng CNY-USD được tăng giảm trong biên độ +/- 0,5% so với giá tham chiếu mà ngân hàng trung ương nước này ấn định mỗi ngày. Theo đó, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã xác lập tỷ giá hối đoái mới ở mức 1USD = 6,7980 NDT, tăng 0,43% so với mức 6,8275 NDT của ngày 21-6. Đây là mức cao nhất kể từ khi Bắc Kinh định giá lại đồng NDT vào tháng 7-2005. Theo giới quan sát, động thái trên của Trung Quốc là nhằm giảm bớt bầu không khí căng thẳng tại Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát 10 triển và đang phát triển (G-20) tại Canada vào ngày 25-6 tức vài ngày sau đó, nơi sẽ có nhiều cáo buộc Trung Quốc cố tình định giá thấp đồng NDT để có lợi cho nền kinh tế Trung Quốc. Khi đồng NDT mạnh lên sẽ có những tác động nhất định đối với các nền kinh tế khác. Nhập khẩu hàng hóa vào Trung Quốc sẽ rẻ đi; các doanh nghiệp và chính phủ Trung Quốc sẽ có khả năng mua được nhiều hàng hóa nước ngoài hơn, làm tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu. Đây sẽ là lợi thế cho các Hãng hàng không Trung Quốc như Air China, China Eastern Airlines… vốn mượn ngoại tệ để mua máy bay hay nhập khẩu xăng dầu. Theo ước tính của Deutsche Bank, nếu đồng NDT tăng 1% so với đồng USD, lợi nhuận ròng của Air China sẽ tăng khoảng 10% trong năm 2010, trong khi con số này của China Eastern Airlines là 15%. Những người có chung niềm vui với các Hãng hàng không Trung Quốc là các hãng xe hơi nước ngoài như BMW, Volkswagen… nhất là BMW bởi khi liên doanh BMW với Brillance của Trung Quốc nhập khẩu đến 50% phụ tùng, linh kiện từ Đức. Ngoài ra, các tập đoàn kinh doanh các mặt hàng xa xỉ, công nghệ, tiêu dùng…cũng được lợi rất nhiều bởi đồng NDT tăng giá. Đối với bản thân Trung Quốc, đồng nội tệ lên giá sẽ là một công cụ hiệu quả giúp kiềm chế lạm phát trong nước, thay vì phải áp dụng các quy định ngặt nghèo đối với hệ thống ngân hàng như nước này phải làm trong thời gian qua. Cũng theo phân tích của một số chuyên gia kinh tế, việc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc tuyên bố nới lỏng tỷ giá NDT về lâu dài sẽ làm tăng nhu cầu mua vàng của các nhà đầu tư. Cũng trong lần điều chỉnh tỷ giá lần này, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc tuyên bố sẽ thúc đẩy hơn nữa cải cách cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng Nhân dân tệ, nhằm tăng tính linh hoạt về tỷ giá đồng tiền này. Tuyên bố này đã được cụ thể hóa trong những đợt tăng giá tiếp theo vào ngày 19-7 và gần đây đây nhất là đợt tăng giá vào ngày 29-9, tỉ giá hối đoái của đồng nhân dân tệ so với đồng đô-la Mỹ đã tăng 0,17%, đạt mức kỉ lục mới với 6,6936 Nhân dân tệ đổi 1 đô-la Mỹ. Tiếp theo ngày 19-10, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc nâng lãi suất cơ bản và lãi suất tiền gửi lần đầu tiên từ năm 2007 sau khi lạm phát lên mức cao nhất trong 22 tháng. Lãi suất tiền gửi thời hạn 1 năm được điều chỉnh lên mức 2,5% từ mức 2,25%. Lãi suất cơ bản được điều chỉnh từ mức 5,31% lên mức 5,56%. Nguyên nhân đầu tiên đó là việc trước tình hình tỷ lệ lạm phát tháng 8/2010 của Trung Quốc lên mức 3,5%, sự gia tăng gần đây của lạm phát đã khiến lãi suất của Trung Quốc thực âm. “Về cơ bản, lãi suất của Trung Quốc là quá thấp đối với một nền kinh tế tăng trưởng 10% mỗi năm. Để tránh sự bóp méo lớn hơn, Trung Quốc cần bắt đầu đưa lãi suất lên những mức hợp lý hơn” nhà kinh tế Rob Subbaraman thuộc ngân hàng Nomura ở Hồng Kông nhận xét. Hơn nữa rủi ro kinh tế tăng trưởng quá nóng khiến chính phủ Trung Quốc buộc phải tính đến biện pháp hạn chế tín dụng và đầu cơ bất động sản. Việc bất ngờ tăng lãi suất cơ bản là phù hợp với tình hình kinh tế trong nước. Tuy nhiên, lãi suất NDT tăng có thể khiến dòng vốn vào Trung Quốc mạnh mẽ hơn gây áp lực tăng giá NDT và điều này là không có lợi cho xuất khẩu. Theo ông Zhang Yuheng - nhà phân tích thuộc công ty chứng khoán Capital Securites tại Thượng Hải cho rằng: “Lần 11 tăng lãi suất này của PBOC giống như một gáo nước lạnh dội vào thị trường. Mức tăng lãi suất không phải là lớn, nhưng ảnh hưởng tâm lý đối với thị trường là rất lớn, vì thị trường sẽ kỳ vọng những đợt tăng lãi suất mới”. Điều này khiến cho việc kiểm soát dòng vốn trở nên khó khăn. “Việc Trung Quốc tăng lãi suất chắc chắn dẫn tới những đồn đoán cho rằng, giữa Trung Quốc và Mỹ đang tồn tại một ‘thỏa thuận ngầm’, trong đó Mỹ sẽ có tiếp cận từ tốn hơn với chính sách nới lỏng định lượng” - ông Simon Derrick, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu ngoại hối thuộc ngân hàng Bank of New York Mellon, nhận xét. Nghĩa là chính sách lần này sẽ có lợi cho đôi bên cả Trung Quốc lẫn Mỹ vì nếu chính sách nới lỏng định lượng được Mỹ thực hiện một cách cứng nhắc thì nguy cơ lạm phát vẫn là một điều mà các nhà chức trách nước này lo ngại. Ngày 19/11, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc bất ngờ công bố sẽ yêu cầu các ngân hàng thương mại nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cụ thể mức dự trữ này tăng lên 50 điểm (0.5%) và có hiệu lực vào ngày 29-10-2010 có nghĩa là các ngân hàng thương mại phải chuyển thêm 0,5% vốn huy động vào tài khoản lợi suất thấp tại NHTW. Mục tiêu của đợt điều chỉnh này một mặt nhằm hạn chế lạm phát trong lúc chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,4% trong 12 tháng tính đến tháng 10/2010, tăng trưởng nguồn cung tiền trong 2 năm gần nhất đạt 54%. Dự kiến, với việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc này, thanh khoản sẽ giảm khoảng 300 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 44,8 tỷ USD). Mặt khác, động thái này là để hạ giá đồng nhân dân tệ nhằm hạn chế ảnh hưởng từ chương trình 600 tỷ USD của FED công bố vào ngày 5-11 . Phần dự trữ này sẽ là khoản tiền để NHTW TQ mua thêm USD, Euro và một số loại tiền tệ khác và giảm đáng kể áp lực từ chính sách mua trái phiếu Bộ tài chính của FED. Chính phủ Bắc Kinh, cho đến nay vốn luôn phản đối áp lực từ phía Mỹ về việc nâng giá đồng nhân dân tệ, phản pháo rằng chính sách tiền tệ dễ dãi của FED khiến đồng USD hạ giá mạnh. Tuy nhiên khi công bố chính sách này Trung Quốc không hề đề cập tới FED, đây là một nước cờ rất khôn ngoan giảm bớt căng thăng khi hai bên liên tục chỉ trích nhau trong thời gian vừa qua. Lượng đô la Mỹ dự định mua vào không quá lớn và mục tiêu đưa ra là hợp lý để ổn định kinh tế vĩ mô trong nước. Tuy nhiên, thời gian từ nay cho đến 6-2011 ( 600 tỷ đôla bơm vào thị trường ), chúng ta sẽ trông chờ vào những động thái tiếp theo của Trung Quốc. Thực chất Trung Quốc sẽ không chịu nhượng phần bánh ngon trong cán cân vãng lai của mình bởi vì nền kinh tến Trung Quốc đang tăng trưởng và phát triển trên đà rất tốt. Khi xuất khẩu giảm sút thì hoàn cảnh sẽ rất tồi tệ khi mà hàng triệu người dân trong các nhà máy xí nghiệp mất việc. 2.4.3.3. Nhận xét Sự ổn định của đồng Nhân dân tệ đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tác động của khủng hoảng tài chính, góp phần đáng kể vào sự hồi phục kinh tế châu Á và thế giới, cũng như thể hiện nỗ lực của Trung Quốc trong việc tái cân bằng toàn cầu. Reuters bình luận, nếu ai đó còn nghi ngờ về vai trò đầu tàu phục hồi kinh tế thế giới của Trung Quốc, thì mối nghi ngờ này đã bị phá tan khi chứng kiến ảnh hưởng đối với thị trường toàn cầu từ việc nước này tăng lãi suất ngày 19/10. Giá vàng và dầu thô 12 đồng loạt sụt giảm mạnh trong phiên sau đó, các thị trường chứng khoán cũng lao dốc, trong khi tỷ giá USD tăng vọt. 2.5. BOJ: 2.5.1. Khái quát Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) được thành lập theo Đạo luật Ngân hàng Nhật Bản (ban hành trong 6/1882) và bắt đầu hoạt động vào ngày 10-10-1882 như ngân hàng Trung ương của quốc gia. Ngân hàng được tổ chức lại vào ngày 01 Tháng Năm 1942 để phù hợp với Luật Ngân hàng Nhật Bản, ban hành vào tháng Hai năm 1942. Đạo luật năm 1942 đã được sửa đổi hoàn toàn vào tháng Sáu năm 1997 theo hai nguyên tắc "độc lập" và "minh bạch". Các hành động chỉnh sửa (Đạo luật) có hiệu lực vào ngày 1/4/1998. 2.5.2. Tác động Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Sadakazu Tanigaki đã tuyên bố rằng ông sẽ thực hiện các biện pháp kiên quyết để tránh những tác động xấu của việc đồng yên tăng giá lên nền kinh tế. Đồng yên hiện nay vẫn đang tiếp tục tăng giá cho dù BOJ đã nỗ lực để giảm giá đồng nội tệ. Trong tháng 9, BOJ đã phải bán ra một số lượng đồng yên tương đương với 40 tỷ USD nhằm giảm giá đồng nội tệ. Nền kinh tế Nhật Bản là nền kinh tế định hướng xuất khẩu nên bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tăng giá của đồng yên. Các nhà kinh tế cho rằng giảm giá đồng yên là cách tốt nhất kéo nền kinh tế khỏi cuộc suy thoái. Chính phủ Nhật Bản đã hy vọng có thể giữ được đồng yên ở mức 130 yên ăn 1 USD nhưng thực tế việc các công ty bắt đầu phục hồi lại làm cho thị trường chứng khoán sôi động trở lại và các nhà đầu tư quay trở lại Nhật. Những yếu tố này lại làm cho đồng yên tăng giá. Ông Tanigaki, Bộ trưởng Tài chính vừa được Thủ tướng Koizumi bổ nhiệm vào tháng trước vẫn chưa tiết lộ quan điểm của mình về hiện tượng đồng yên lên giá nhưng ông cũng đã nói rằng ông sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách can thiệp của nhà nước giống như người tiền nhiệm của ông từng làm. Tuy nhiên quyết định này đi ngược lại với tuyên bố tháng trước của nhóm G7 là để thị trường tự do điều chỉnh. Các động thái can thiệp thị trường của Nhật trong thời gian qua: Giới chuyên gia lo ngại hành động can thiệp này có thể gây ra “hiệu ứng domino” về tỷ giá hối đoái trên toàn thế giới. Trong ngày 15/9, sau khi Bộ Tài chính Nhật Bản công bố chính sách can thiệp thị trường ngoại hối, Ngân hàng Trung ương Colombia đã tung tiền ra mua 20 triệu USD nhằm giảm bớt đà tăng giá của đồng peso, còn Bộ trưởng Tài chính Brazil Guido Mantega “đang theo dõi các diễn biến” và sẽ không khoanh tay đứng nhìn nếu các nước khác cũng can thiệp nhằm giảm giá đồng nội tệ. Tại Thái Lan, giới chủ doanh nghiệp đang kêu gọi các nhà hoạch định chính sách tìm cách kiềm giá đồng baht để tránh tác động tới lĩnh vực công nghiệp. Giới chuyên gia lo ngại có thể xảy ra “hiệu ứng domino” khi Thái Lan và các nước châu Á khác “noi gương” Nhật Bản. Sự can thiệp của Tokyo vào thị trường ngoại hối không có gì là bất ngờ. Đồng yên đã lên giá cao kỷ lục trong vòng 15 năm qua, đe dọa sự phục hồi của đất nước Mặt trời 13 mọc. Hơn nữa, giới chức Nhật Bản cũng đã nói tới khả năng can thiệp này từ vài tuần trước. Thời điểm Tokyo tiến hành can thiệp tiền tệ – ngay trước thềm cuộc họp giữa Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Washington vào đầu tháng 10 và Hội nghị thượng đỉnh G-20 tại Hàn Quốc đầu tháng 11 – càng khiến cho làn sóng phẫn nộ gia tăng. Trước đây, khi thỏa thuận can thiệp tỷ giá, nhóm G7 đã quyết định trên cơ sở đồng thuận và phản đối các hành động đơn phương (như hành động vừa qua của Nhật Bản) vì lo ngại việc này có thể dẫn tới một cuộc chạy đua phá giá các đồng nội tệ. Tuy nhiên, theo ông Desmond Lachman - thành viên Viện Doanh nghiệp Mỹ tại Washington, giới chức Nhật Bản có lý khi lo ngại về mức giá quá cao của đồng yên vốn nổi tiếng là “thiên đường an toàn”. Theo ông, đồng yên tăng giá một phần do các nhà đầu tư toàn cầu hùn vốn vào ngoại tệ này khi lãi suất ở Mỹ quá thấp và trước nguy cơ Mỹ và châu Âu có thể nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ, một khi đà phục hồi kinh tế bị chững lại Mới đây, Thượng viện Nhật Bản đã thông qua một gói kích thích kinh tế trị giá 62 tỷ USD với nỗ lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp của quốc gia này và cải thiện tình trạng xuất khẩu yếu kém. Khoảng 3100 tỷ yên sẽ được cấp cho các nền KT khu vực và doanh nghiệp nhỏ. Gói cứu trợ cũng dành 1 phần tiền để chi cho việc tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên liệu kim loại hiếm sử dụng trong sản xuất ôtô và máy tính sau khi Nhật tuyên bố Trung Quốc đã ngừng chuyển hàng vì tranh cãi lãnh thổ. Gói kích cầu này ước tính sẽ giúp nền tổng sản lượng KT Nhật tăng thêm 0,6% và tạo thêm 450.000500.000 việc làm theo tuyên bố của Bộ tài chính. Bộ trưởng tài chính Mỹ Timothy F.Geithner cũng nhận định rằng Nhật không hề gây căng thẳng tiền tệ thế giới khi tiến hành can thiệp nhằm ghìm giá đồng yên. Nhật hiện đang vật lộn với tình trạng đồng Yên giá trị cao, nguyên nhân khiến xuất khẩu đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng nước ngoài. Những số liệu đưa ra gần đây cho thấy tăng trưởng xuất khẩu sụt giảm trong 8 tháng liên tiếp. Theo các nhà phân tích, xuất khẩu yếu kém hơn có thể khiến nhu cầu tiêu dùng tiếp tục giảm. “Tăng trưởng xuất khẩu yếu kém có thể ảnh hưởng xấu tới lợi nhuận doanh nghiệp, kéo theo giảm bớt thu nhập hộ gia đình và giảm nhu cầu tiêu dùng” - ông Matsumoto cho biết. Do đó, BOJ sẽ tiếp tục can thiệp để làm yếu đồng yên. Cụ thể: BOJ không rút tiền ra khỏi hệ thống ngân hàng trong nước. Theo đó, lượng tiền gửi của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng này lên mức cao nhất trong tháng 9/2010 sau lần đầu can thiệp vào thị trường ngoại hối của BOJ từ năm 2004. Ngân hàng Trung ương Nhật công bố lượng tiền gửi tăng thêm 2 nghìn tỷ yên tương đương 23,4 tỷ USD lên mức 17,1 nghìn tỷ yên. Ông Junko Nishioka, chuyên gia kinh tế trưởng tại công ty chứng khoán thuộc Ngân hàng Hoàng gia Scotland (RBS), tính toán rằng chính phủ Nhật vào ngày 15/09/2010 nhiều khả năng đã bán ra tới 1,8 nghìn tỷ yên để làm yếu đồng yên sau khi đồng tiền này lên mức cao nhất trong 15 năm so với đồng USD. Ông cũng dự báo khả năng BOJ tiếp tục can thiệp để làm yếu đồng yên rất lớn. BOJ đã bán ra đồng yên sau khi đồng tiền này lên mức 82,88 yên/USD, mức cao nhất từ tháng 5/1995. Lo lắng về khả năng tăng giá, BOJ tiếp tục can thiệp đã giúp đồng yên rơi xuống mức 85,93 yên/USD. Thành viên thuộc ban đứng đầu BOJ cho biết ngân hàng này có thể sẽ sử dụng biện tháp can thiệp để cung cấp thêm thanh khoản. 14 Bên cạnh đó, đứng trước mối lo lắng về những tác động của một đồng Yên mạnh tới nền kinh tế, BOJ đã quyết định cắt giảm lãi suất xuống gần 0% so với mức 0,1% trước đó và cam kết duy trì chính sách “nới lỏng tiền tệ toàn diện” cho tới khi giá cả bình ổn. Đây là lần đầu tiên BOJ hạ lãi suất cơ bản đồng Yên về 0% kể từ tháng 7/2006. Ngoài việc cắt giảm lãi suất , BOJ cho biết sẽ thành lập một quỹ trị giá 35.000 tỷ Yên (419 tỷ USD) để mua lại các tài sản khác nhau, bao gồm trái phiếu chính phủ Nhật Bản, nợ của các công ty, các quỹ giao dịch ngoại hối và bất động sản đầu tư ủy thác của Nhật Bản. Khoản tiền này cũng sẽ được sử dụng để thực hiện hoạt động cung cấp vốn với lãi suất cố định. Tuy nhiên, thời hạn và chi tiết của quỹ này vẫn chưa được xác định. Chương trình này tương đồng với chính sách “nới lỏng định lượng” được áp dụng tại Hoa Kỳ và một số nước Châu Âu. Có ít cơ hội cho một sự giảm lãi suất hơn nữa trong ngắn hạn, vì vậy BOJ thông báo “sẽ khuyến khích hạ lãi suất trong dài hạn cũng như các loại phí bảo hiểm rủi ro nhằm củng cố chính sách tiền tệ”. Đây là một “nỗ lực phi thường” của BOJ để thúc đẩy hạ thấp các phí bảo hiểm rủi ro. BOJ cũng cho rằng trong khi nền kinh tế Nhật Bản đang cho thấy những dấu hiệu của một sự hồi phục, tốc độ phục hồi đang yếu dần, “một phần do sự chậm lại của các nền kinh tế nước ngoài và tác động của đồng Yên tới tâm lý kinh doanh”. Tỷ lệ tăng trưởng chắc chắn sẽ chậm hơn dự báo triển vọng vào tháng 7. Động thái của BOJ được coi là “quyết liệt hơn kỳ vọng, nhưng không có sức tác động lớn tới thị trường”, các nhà phân tích của Action Economics cho biết. Sau thông báo, đồng USD tăng lên mức 83,9 Yên/USD trong khi trái phiếu 10 năm của chính phủ Nhật Bản tăng nhẹ. Dự báo đồng Yên sẽ hạ nhiệt, nhưng chỉ trong ngắn hạn do có những thông tin về việc FED sẽ thực hiện nới lỏng chính sách trong thời gian tới đây. 2.6. Liên minh Châu Âu EU 2.6.1. Khái quát Liên minh châu Âu (EU) là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên chủ yếu thuộc châu Âu. EU được thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC). Với hơn 500 triệu dân, EU chiếm 30% (18,4 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP danh nghĩa và khoảng 22% (15,2 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP sức mua tương đương của thế giới. EU đã phát triển một thị trường chung bằng một hệ thống luật tiêu chuẩn áp dụng cho tất cả các nước thành viên nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do của người dân, hàng hóa, dịch vụ và vốn. EU duy trì các chính sách chung về thương mại, nông nghiệp, ngư nghiệp và phát triển địa phương. 16 nước thành viên đã chấp nhận đồng tiền chung, đồng Euro, tạo nên khu vực đồng Euro. EU đã phát triển một vai trò nhất định trong chính 15 sách đối ngoại, có đại diện trong Tổ chức Thương mại Thế giới, G8, G-20 và Liên hiệp quốc. 2.6.2. Cơ chế hoạt động Là một tổ chức quốc tế, EU hoạt động thông qua một hệ thống siêu quốc gia và liên chính phủ hỗn hợp. Trong những lĩnh vực nào đó, quyết định được đưa ra thông qua thỏa thuận giữa các nước thành viên; trong khi ở những lĩnh vực khác, những cơ quan siêu quốc gia độc lập chịu trách nhiệm thực hiện mà không cần có một sự nhất trí giữa các nước thành viên. Những cơ quan quan trọng của EU bao gồm Ủy ban châu Âu, Hội đồng Liên minh châu Âu, Tòa án Tư pháp châu Âu, Nghị viện châu Âu và Ngân hàng Trung ương châu Âu. Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB): là một trong những ngân hàng quan trọng nhất trên thế giới, chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ của các quốc gia trong khu vực đồng Euro. Tổ chức của ngân hàng Trung ương châu Âu ECB theo mô hình của Ngân hàng Trung ương Đức. 2.6.3. EU và chiến tranh tiền tệ 2.6.3.1. Khủng hoảng nợ ở Châu Âu Nợ công là sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia: nguồn thu ngân sách không đáp ứng được nhu cầu chi phát sinh quá nhiều; do đó chính phủ thông qua nhiều hình thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… nhằm huy động tiền vay để trang trải cho các khoản chi khổng lồ, từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm thì "lãi mẹ đẻ lãi con" và ngày càng chồng chất thêm. Mặc dù cả thế giới đang đối mặt với nợ nần nhưng có lẽ không nơi nào rơi vào khủng hoảng nợ nghiêm trọng như ở Châu Âu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ. Ở mỗi nước và tùy từng thời kỳ lại có những nguyên nhân khác nhau, song tình trạng nợ công hiện nay ở nhiều nước đều có chung một số nguyên nhân cơ bản. a. Nguyên nhân: Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước như lương và chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước ở các cấp có xu hướng ngày càng phình to, các chương trình kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng không ngừng tăng …, đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục. Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước, cũng trở thành nguyên nhân không kém phần quan trọng. 16 b. Diễn biến: Thế giới bắt đầu chấn động với khủng hoảng nợ ở Châu Âu khi chính phủ của Hy Lạp công bố mức thâm hụt ngân sách 12,7% GDP, gấp đôi so với ước tính thâm hụt ngân sách 2009 và gấp 4 lần mức cho phép của khối Eurozone vào ngày 5/11/2009. Tổng số nợ công của Hy Lạp lên đến 300 tỷ Euro chiếm 124% GDP năm 2009. Mức độ tín nhiệm tài chính của nước này đã bị tụt xuống hạng BBB-, điều này đồng nghĩa với khả năng đi vay tiền từ bên ngoài trở nên khó khăn. Trong khi đó, đến cuối năm 2010, Hy Lạp cần có tiền để trả nợ và nếu không trả được, Hy Lạp sẽ trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới bị vỡ nợ. Theo quy định, tỷ lệ nợ công tối đa đối với một quốc gia thành viên của khối sử dụng đồng euro là 60% GDP trong khi thâm hụt ngân sách hàng năm không được vượt quá 3%. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ có 2 trong số 16 quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung đáp ứng đầy đủ những tiêu chí này là Phần Lan và Luxembourg. Một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Iceland, Ireland cũng đang lâm tình cảnh nợ lần bi đát. Các nước này đều có tỷ lệ nợ gần ngang, thậm chí còn lớn hơn GDP và thâm hụt ngân sách vượt xa mức quy định -3% của EU, trong khi triển vọng tăng trưởng kinh tế là rất ảm đạm. Trường hợp Tây Ban Nha rất đáng lo ngại và đã được nhiều chuyên gia cảnh báo là "con bài domino” lớn kế tiếp Hy Lạp bởi ngân sách bị thâm hụt ngang mức 11,4% GDP, tổng nợ công và tư tương đương 300% GDP - những con số này trầm trọng hơn của Hy Lạp rất nhiều. Trong khi đó, thất nghiệp của Tây Ban Nha cũng rất cao, tới 20% (4,5 triệu người) và nhất là hệ thống ngân hàng thì quá mong manh… Italy bị xem là một “chúa chổm” nữa ở châu Âu, với khoản nợ trên 2.000 tỷ USD. Tuy nhiên, nước này được đánh giá cao hơn Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vì nền kinh tế được dự báo tăng trưởng 0,9% trong năm nay và 1% trong năm tới. Ngoài ra, thâm hụt ngân sách của Italy cũng không quá cao, và được dự báo vào khoảng 5,4% trong năm nay. Chính sự vượt rào “tập thể” này là một nguyên nhân quan trọng khiến châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ hiện nay. 2.6.3.2. Nợ công châu Âu và vấn đề tỷ giá Khi khu vực đồng euro lâm vào khó khăn do sự lây lan của “virus” nợ Hy Lạp, euro ngày càng mất giá và ghi vào lịch sử mức giảm tệ hại nhất trong bốn năm vào ngày 17/5 vừa qua (1euro quy đổi 1,2144 USD). Lý giải cho sự trượt dốc không phanh này, một số nhà phân tích tài chính cho rằng, nhà đầu tư vẫn hoài nghi về mức độ thành công của giải pháp ngăn ngừa cuộc khủng hoảng nợ lan rộng ra khu vực đồng tiền chung này. Tuy nhiên nhiều chuyên gia cho rằng nguyên nhân sâu xa chính là sự chênh lệch trình độ phát triển của các nước trong khối EU. Hiện Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland, Italy bắt đầu rớt lại phía sau. Tuy nhiên, nếu Đức và Pháp không dừng lại cõng những "chúa chổm" bị rớt lại này thì đồng euro sẽ sụp đổ. Còn nếu dừng lại thì khu vực các nước sử dụng đồng euro sẽ bị trì trệ bởi chính những quốc gia này. Tuy nhiên đồng Euro giảm giá dường như là ánh sáng hy vọng cho liên minh EU. Khi bong bóng nợ của nền kinh tế ngày càng căng phồng thì một dấu hiệu gần đây nhất cho thấy Mỹ đang bắt tay với châu Âu, dùng chính sách phi lãi suất để ngăn chặn lạm 17 phát. Tại châu Âu, vấn đề nợ của Hy Lạp cũng như của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đang trở thành một vấn đề nóng bỏng không phải vì cuộc khủng hoảng nợ nghiêm trọng, mà còn là do Mỹ, Âu muốn nhân việc này để đạt được mục đích “áp chế đồng EUR, lôi kéo đồng USD” một cách “có kiểm soát” bởi giá hàng hóa quốc tế thường dùng đồng USD để trao đổi thanh toán, đồng USD tăng giá có thể khống chế giá hàng hóa tăng một cách hiệu quả, còn đồng EUR mất giá lại có thể nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu của các quốc gia khu vực đồng tiền chung châu Âu Eurozone. Hay nói cách khác, Đức, Pháp, ECB và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF có những hành động hy vọng đồng EUR mất giá, đồng USD tăng giá, nhưng lại không mong muốn thị trường biểu hiện thái quá bởi không muốn các nhà đầu tư mất đi lòng tin vào Châu Âu cũng như đồng tiền chung Euro. Trong khi đó, Công ty Chứng khoán Evolution Securities tại London vừa qua đã lên tiếng cảnh báo, hệ thống ngân hàng châu Âu có thể rơi vào tình trạng phá sản nếu đồng EUR bị phá giá so với 16 đồng tiền khác. Ông Arturo de Frías, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu ngân hàng tại Evolution cho rằng: “Nếu đồng EUR suy yếu mạnh, chúng ta sẽ thấy các đồng tiền như lira, peseta, escudo, drachma… quay trở lại”. Theo ông, đồng EUR bị phá giá đồng nghĩa với việc toàn bộ hệ thống ngân hàng châu Âu sẽ bị phá sản. Trong bối cảnh u ám về tương lai đồng Euro dù EU liên tiếp có những động thái nhằm thúc đẩy đồng tiền này thì đầu tháng 12/2010, đồng euro có dấu hiệu hồi phục sau những chuỗi ngày giảm giá trầm trọng. Cụ thể: đồng euro tăng lên mức 1.3116 USD ngày 2/12/2010 mang theo hy vọng khủng hoảng nợ tại Châu Âu sẽ tìm thấy lối thoát. Trước tín hiệu khả quan này, một quan chức kinh tế Mỹ phát biểu với Reuters cho biết chính phủ Mỹ đã sẵn sàng hỗ trợ châu Âu mở rộng Kênh bình ổn tài chính châu Âu (EFSF) thông qua cam kết yêu cầu IMF bơm thêm tiền. Thị trường kỳ vọng các nhà hoạch định chính sách Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ có những bước tiến mới trong nỗ lực ngăn chặn sự lây lan của cuộc khủng hoảng nợ trong khu vực. 2.6.3.3. Động thái của ECB và liên minh Châu Âu Chương 3: ECB duy trì lãi suất 1%/ tháng thứ 20 liên tiếp. Mới đây, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) quyết định duy trì lãi suất thấp kỷ lục 1%. Lãi suất này có thể sẽ duy trì đến hết quý 4/2010. - ECB không giới hạn thanh khoản, mua thêm trái phiếu Ngày 2-12, Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) tiếp tục cung cấp các nguồn thanh khoản không giới hạn dưới hình thức các khoản vay. - Kết thúc cuộc họp ngày 16/11, tại Brussels, Bỉ, các bộ trưởng tài chính của Liên minh châu Âu (EU) đã nhất trí kế hoạch thành lập ba cơ quan mới vào tháng 1/2011 để giám sát các ngân hàng, các hãng bảo hiểm và các thị trường nhằm điều chỉnh những sai lầm gây ra cuộc khủng hoảng tài chính. - EU sẽ thành lập một cơ quan mới trực thuộc ECB để đánh giá những rủi ro mang tính hệ thống đối với châu Âu nhằm phát hiện những nguy cơ nghiêm trọng hơn từ việc chuyển sang giai đoạn bất ổn tiếp theo với tình trạng bong bóng trên thị trường bất động sản. 18 - Châu Âu cuối cùng cũng đã chính thức thống nhất về cơ chế mới ngăn khủng hoảng. Cơ chế mới sẽ chính thức được áp dụng từ năm 2013. Chính phủ Đức và Pháp đã đạt thỏa thuận về cơ chế ngăn khủng hoảng tương lai trong khu vực đồng tiền chung châu Âu. Chương trình này sẽ chính thức được áp dụng vào năm 2013. Chi tiết chính của thỏa thuận mới sẽ sớm được công bố sau khi EU và IMF thông qua gói giải cứu tài chính dành cho Ireland và gia hạn thời gian trả nợ cho Hy Lạp. Các Bộ trưởng Tài chính châu Âu phát đi tín hiệu cho thấy họ sẽ bàn đến nhiều biện pháp quy mô lớn hơn để bình ổn khu vực đồng tiền chung châu Âu, thay cho cơ chế tạm thời được đưa ra vào tháng 5/2010. Kênh bình ổn tài chính châu Âu, được đưa ra vào tháng 5/2010 để hỗ trợ cho các nước khu vực đồng tiền chung châu Âu để giải quyết khủng hoảng nợ sau khi Hy Lạp rơi vào khủng hoảng, cần được thay thế bởi cơ chế bền vững thực hiện từ năm 2013. Cơ chế bền vững cần tính đến sự tham gia của các cổ đông tư nhân bao gồm ngân hàng, quỹ hưu trí và nhiều loại hình quỹ đầu tư khác, nhóm cổ đông cũng sẽ phải chịu phần nào thiệt hại nếu một nước vỡ nợ hay tiến hành tái cơ cấu các khoản nợ. 3.1.1. Đánh giá về những giải pháp của ECB cũng như của các nước châu Âu Từ nhiều tháng nay, các chính phủ thành viên Eurozone đã và đang cố gắng cứu vãn đồng tiền chung, nhưng hiểm họa vẫn còn rình rập. Không những thế, các cuộc họp xử lý khủng hoảng liên tiếp diễn ra và hàng tỷ euro của quĩ khẩn cấp lại được tung ra để chữa cháy. Có thể nói rằng, người ta chưa thấy “ánh sáng cuối đường hầm” của cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu. ECB đã phá vỡ những điều cấm kị, khi tung cả núi tiền mua trái phiếu của các nền kinh tế thành viên ốm yếu nhằm bình ổn giá. Thế nhưng, tẩt cả các biện pháp chỉ là những giải pháp tạm thời và chỉ kéo dài đến khi một cuộc khủng hoảng nữa nổ ra. Trước đây là cuộc khủng hoảng Hy Lạp, bây giờ là khủng hoảng Ireland và sắp tới có thể là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... Mỗi tin xấu mới sẽ khiến cho người ta càng tin rằng những vấn đề của châu Âu không thể được giải quyết bằng các biện pháp thông thường và càng không phải bằng cách mua nợ. Ngày càng có nhiều lo ngại rằng cuộc khủng hoảng nợ công này có thể làm biến dạng nhiều nước thành viên và thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của Eurozone. 3.1.2. Một số quốc gia Nam Mỹ * Brazil “Chúng ta đang ở giữa một cuộc chiến tranh tiền tệ quốc tế, ai cũng muốn phá giá đồng tiền. Chúng tôi bị đe dọa vì hàng hóa mất sức cạnh tranh.” – ông Guido Mantega, Bộ trưởng Bộ tài chính Brazil đã nói như vậy khi đôla Mỹ đã mất giá 25% so với đồng real của Brazil vào tháng 09/2010. Nếu cách đây 1 – 2 năm việc đồng real của Brazil tăng là điều đáng mừng nhưng với thời điểm hiện tại, Brazil chẳng có gì vui vẻ với điều đó vì việc đồng real tăng trưởng gây khó khăn cho hàng hóa của Brazil ở thị trường những nước khác, chính vì vậy Brazil đã có những hành động như: 19 - Mua vào hơn một tỷ đôla Mỹ trong tháng 9/2010. - Brazil áp thuế lên một số khoản đầu tư trái phiếu: Chính phủ Braxin đã tăng thuế đối với vốn đầu tư nước ngoài vào chứng khoán mang lại thu nhập cố định từ 4% lên 6%. Thuế áp dụng đối với tiền mang vào Braxin để mở tài khoản ký quỹ đối với giao dịch trên thị trường tương lai cũng được tăng lên mức 6% từ mức 0,38%. Tuy nhiên những biện pháp của Brazil dường như không mang lại hiệu quả như mong muốn. Đồng tiền của Brazil vẫn tăng. Đồng real đã tăng giá hơn 30% so với đồng USD kể từ năm ngoái. Nguyên nhân chủ yếu là do Chính phủ Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản vẫn giữ những quan điểm của mình và đồng thời làm giảm giá trị đồng tiền của chính họ; vì vậy những nỗ lực của Brazil dường như là vô vọng khi các nhà đầu tư đang đổ vốn sang các thị trường có lãi suất tương đối cao. Cho nên ngày 19/10/2010 Chính phủ Brazil kêu gọi chấm dứt cuộc chiến tranh tiền tệ này. Bên cạnh Brazil, một số nước như Colombia và Peru cũng đã can thiệp để ghìm giá đồng tiền xuống. 3.1.3. Một số định chế tài chính đang phát triển hoặc phát triển mạnh ở Châu Á 3.1.3.1. Hàn Quốc Là một nước phát triển mạnh cho nên chiến tranh tiền tệ đã tác động mạnh mẽ với Hàn Quốc, cuốn nước này vào vòng xoáy của cuộc chiến. Hiện nay mức độ phụ thuộc của kinh tế Hàn Quốc vào Trung Quốc gấp hai lần so với Mỹ. Kim ngạch buôn bán với Trung Quốc chiếm 20% tổng kim ngạch buôn bán của Hàn Quốc. Cho nên những chính sách của Trung Quốc đã có tác động mạnh đến nền kinh tế của Hàn Quốc. Có thể thấy điều này khi trong 3 tháng 8, 9, 10 của năm 2010 đồng won đã tăng 7,6 % so với USD. Đây là một khó khăn cho một nước có kim ngạch xuất khẩu cao như Hàn Quốc. Chính vì vậy cho nên Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc BOK đã có những biện pháp nhằm ngăn chặn đà gia tăng của đồng won như bán đồng won. Ngày 14/10, BOK tuyên bố giữ nguyên lãi suất, đây là mức lãi suất mà BOK đã giữ trong 3 tháng liên tiếp. Đây được đánh giá là một bước đi thận trọng trước những chuyển biến khó nắm bắt của thị trường tài chính thế giới. Đồng thời BOK lo ngại lãi suất cao sẽ khiến dòng vốn ngoại ồ ạt chảy vào gây sức ép lên đồng won. Bên cạnh đó, BOK còn đánh thuế vào các dòng vốn đầu tư nước ngoài như dự định đánh thuế 14% vào trái phiếu nắm giữ. Đây là động thái nhằm ngăn dòng vốn đầu tư chảy vào Hàn Quốc gây áp lực tăng giá của đồng won. Mặc dù đồng won tăng giá so với USD, nhưng đồng tiền này vẫn yếu so với đồng Yên Nhật, cho nên BOJ đã lên tiếng chỉ trích BOK. Thủ tướng Naoto Kan của Nhật Bản nói: “Sức cạnh tranh của Hàn Quốc là rất cao và việc nước này ghìm giá đồng nội tệ ở mức thấp không còn nằm trong tinh thần hợp tác G-20. Tôi muốn Seoul phải hành động có trách nhiệm trong khuôn khổ những nguyên tắc chung”. Bên cạnh đó những tháng cuối 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan