Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài nghiên cứu phụ nữ di cư trong nước hành trình gian nan tìm kiếm cơ hội...

Tài liệu đề tài nghiên cứu phụ nữ di cư trong nước hành trình gian nan tìm kiếm cơ hội

.PDF
39
16
89

Mô tả:

PHỤ NỮ DI CƯ TRONG NƯỚC HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM KIẾM CƠ HỘI 2011 Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |1 Phụ nữ Di cư trong nước HÀNH TRÌNH Gian nan Tìm kiếm Cơ hội MỤC LỤC Danh mục các bảng..........................................................................................................................3 Danh mục các biểu đồ......................................................................................................................4 Danh mục các hộp.............................................................................................................................4 Danh mục các từ viết tắt...............................................................................................................5 Lời giới thiệu.......................................................................................................................................6 Lời cảm ơn............................................................................................................................................7 Tóm tắt .................................................................................................................................................9 Chương 1: Tổng quan về nghiên cứu......................................................................................13 1.1 Khái quát về di cư trong nước ở Việt Nam............................................................................15 1.2 Mục tiêu, phạm vi, và phương pháp nghiên cứu...................................................................17 1.2.1 Mục tiêu của nghiên cứu..........................................................................................17 1.2.2 Phạm vi của nghiên cứu..........................................................................................18 1.2.3 Phương pháp nghiên cứu........................................................................................19 Chương 2:Lao động nữ di cư tại Việt Nam: Họ là ai?........................................................21 2.1 Độ tuổi của lao động di cư nữ...............................................................................................23 2.2 Hoàn cảnh hôn nhân và gia đình...........................................................................................24 2.2.1 Tình trạng hôn nhân.................................................................................................24 2.2.2 Số con trong gia đình...............................................................................................25 2.3 Trình độ học vấn....................................................................................................................26 2.4 Đặc điểm về nơi xuất cư.......................................................................................................28 2.5 Đặc điểm về nghề nghiệp......................................................................................................29 Chương 3:Lao động nữ di cư: lực đẩy và lực hút............................................................31 Nội dung: ActionAid Quốc tế tại Việt nam và Công ty Tư vấn Đông Dương IRC Biên tập: ActionAid Quốc tế tại Việt Nam Ảnh: AAV, Nguyễn Hoài Nam, Đặng Mai Thanh, Lưu Trọng Quang Thiết kế & in ấn: Luck House Graphics Xuất bản lần đầu: 2012 Giấy phép xuất: Số.... 3.1 Yếu tố lực đẩy với phụ nữ di cư............................................................................................33 3.1.1 Lực đẩy từ thị trường lao động nơi xuất cư.............................................................33 3.1.2 Lực đẩy từ hoàn cảnh gia đình................................................................................35 3.1.3 Lực đẩy từ các khía cạnh khác................................................................................37 3.2 Yếu tố lực hút........................................................................................................................38 3.2.1 Cơ hội việc làm tại nơi đến......................................................................................38 3.2.2 Thu nhập tại điểm đến cao hơn nơi xuất cư............................................................40 3.2.3 Lực hút từ vốn xã hội: bạn bè/người thân................................................................41 3.3 Các yếu tố khác.....................................................................................................................43 Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |1 Chương 4: Tính dễ bị tổn thương của phụ nữ di cư..........................................................47 Danh mục các bảng 4.1 Tính dễ bị tổn thương trong công việc..................................................................................49 4.1.1 Hợp đồng lao động..................................................................................................49 4.1.2 Công việc không ổn định, cường độ làm việc cao...................................................50 Bảng 2. 1. Phụ nữ di cư theo nhóm tuổi so với kết quả điều tra di cư 2004 (%)...................................16 4.1.3 Chế độ đãi ngộ còn nhiều bất cập...........................................................................53 Bảng 2. 2. Độ tuổi nữ lao động di cư theo nghề nghiệp nơi đến...........................................................17 4.1.4 Đối xử ngược đãi tại nơi làm việc............................................................................54 4.2 Tính dễ bị tổn thương trong tiếp cận dịch vụ công cộng.......................................................55 4.2.1 Tiếp cận với chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.........................................56 4.2.2 Tiếp cận với dịch vụ giáo dục và y tế.......................................................................58 4.3 Tính dễ bị tổn thương trong đời sống sinh hoạt....................................................................59 Bảng 2. 6. Cấp học cao nhất theo nghề nghiệp (%)..............................................................................21 4.3.1 Điều kiện sinh hoạt: nhà ở, sử dụng điện, sử dụng nước.......................................59 Bảng 2. 7. Nghề nghiệp trước lần di cư đầu tiên và nghề nghiệp hiện nay (%)....................................23 4.3.2 Bảng 2. 8. Nghề nghiệp tại nơi đến trong lần di cư đầu tiên và hiện nay(%).........................................23 Hạn chế trong hòa nhập cộng đồng.........................................................................61 Chương 5: Chính sách đối với phụ nữ di cư: thực trạng và một số đề xuất.........63 5.1 Khung pháp lý và chính sách với lao động nữ di cư.............................................................65 5.2 Một số khuyến nghị...............................................................................................................67 Bảng 2. 3. Tình trạng hôn nhân của nữ lao động di cư (%)...................................................................18 Bảng 2. 4. Số con tại thời điểm di cư lần đầu và hiện nay (người).......................................................19 Bảng 2. 5. Cấp học cao nhất của lao động nữ di cư (%).......................................................................20 Bảng 3. 1. Tìm việc trong thời gian nông nhàn (%)................................................................................25 Bảng 3. 2. Đào tạo nghề chưa phù hợp tại nơi xuất cư (%)..................................................................27 Bảng 3. 3. Lực đẩy do kiện tự nhiên khắc nghiệt và cơ sở hạ tầng yếu kém (%)..................................28 Tài liệu tham khảo..........................................................................................................................71 Bảng 3. 4. Dễ tìm việc làm tại nơi đến (%).............................................................................................30 Bảng 3. 5. Thu nhập cao hơn tại nơi đến (%)........................................................................................32 Bảng 4. 1. Ký kết hợp đồng lao động (%)..............................................................................................39 Bảng 4. 2. Thời hạn ký hợp đồng lao động theo địa bàn nghiên cứu....................................................39 Bảng 4. 3. Thời gian làm việc ngày thường và ngày cuối tuần (giờ).....................................................41 Bảng 4. 4. Các hình thức phân biệt đối xử hoặc xúc phạm nhân phẩm................................................44 Bảng 4. 5. Tỷ lệ phụ nữ lao động di cư có BHXH..................................................................................45 Bảng 4. 6. Tỷ lệ phụ nữ lao động di cư có BHYT...................................................................................47 Bảng 4. 7. Loại hình nhà ở của phụ nữ lao động nhập cư (%)..............................................................50 nữ Di cư trong nước: 2| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |3 Danh mục các biểu đồ Biểu đồ 1. 1. Tốc độ tăng dân số nông thôn và thành thị, 1990-2009....................................................12 Danh mục các từ viết tắt AAV Tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam Biểu đồ 2. 1. Tỷ lệ phần trăm về số con tại thời điểm hiện nay (%).......................................................19 BHXH Bảo hiểm xã hội Biểu đồ 2. 2. Cấp học của nữ nhập cư chia theo địa điểm khảo sát (%)..............................................20 BHYT Bảo hiểm y tế Biểu đồ 2. 3. Cấp học của phụ nữ nhập cư chia theo địa điểm khảo sát (%).......................................21 Bộ LĐTB&XH Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội Biểu đồ 2. 4. Nơi xuất cư của phụ nữ nhập cư trong mẫu khảo sát (%)................................................22 Bộ NN&PTNN Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Biểu đồ 3. 1. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn............................................................32 Biểu đồ 3. 2. Có người thân quen ở nơi đến (%)...................................................................................33 Biểu đồ 4. 1. Mức độ tham gia các quan hệ xã hội cộng đồng (%)........................................................51 CEDAW Công ước Xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ CPRGS Chiến lược Toàn diện về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo ILO Tổ Chức Lao Động Quốc Tế IRC Công Ty Nghiên Cứu và Tư Vấn Đông Dương LĐ Lao động MSHGĐ Mức Sống Hộ Gia Đình Danh mục các hộp Hộp 3. 1. Nông nhàn, không có việc làm và sự chán nản......................................................................26 Hộp 3. 2. Các khó khăn của gia đình thúc đẩy phụ nữ di cư.................................................................28 Hộp 3. 3. Cú sốc do thiên tai và sự bấp bênh của nghề nông...............................................................29 Hộp 3. 4. Dễ tìm việc làm tại điểm đến..................................................................................................31 PVS Phỏng vấn sâu TCTK Tổng Cục Thống Kê TLN Thảo luận nhóm UBND Ủy Ban Nhân Dân UN Liên Hợp Quốc WB Ngân Hàng Thế Giới Hộp 3. 5. Di cư vì thu nhập ở nơi đến cao hơn......................................................................................33 Hộp 3. 6. Di cư vì người thân, và họ hàng giới thiệu.............................................................................34 Hộp 3. 7. Di cư vì muốn thay đổi môi trường sống................................................................................35 Hộp 4. 1. Tính không ổn định trong công việc của nữ công nhân nhập cư...........................................40 Hộp 4. 2. Tính không ổn định trong công việc của nữ lao động tự do...................................................41 Hộp 4. 3. Một số bất cập trong chế độ tiền lương..................................................................................42 Hộp 4. 4. Khó khăn và trừ tiền ngày nghỉ phép......................................................................................43 Hộp 4. 5. Thực hiện chính sách thai sản với nữ công nhân di cư..........................................................46 Hộp 4. 6. Khó khăn trong tiếp cận giáo dục với con cái của phụ nữ di cư.............................................48 Hộp 4. 7. Phụ nữ di cư gặp rất nhiều khó khăn về nhà ở......................................................................50 Hộp 4. 8. Nguồn nước sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh......................................................................50 Hộp 4. 9. Các yếu tố cản trở hòa nhập cộng đồng.................................................................................52 nữ Di cư trong nước: 4| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |5 LỜI GIỚI THIỆU D i cư là kết quả tất yếu của công cuộc phát triển. Những đánh giá gần đây nhìn chung xác định một số đặc điểm quan trọng của di cư ở Việt Nam: Mức di cư trong nước đang tăng lên, chủ yếu là di cư nông thôn ra thành thị và là di cư tạm thời. Trong dòng người di cư đó, phụ nữ chiếm tỉ lệ ngày càng cao. Đã có nhiều nghiên cứu về di cư, đa dạng về chủ đề và phạm vi. Kết quả của các nghiên cứu này cho thấy di cư mang lại nhiều giá trị kinh tế cho người di cư, nhưng bên cạnh những lợi ích đó là những khó khăn, thách thức mà người di cư phải đối mặt, đặc biệt là đối với phụ nữ di cư. Bên cạnh những chính sách đảm bảo quyền con người, đặc biệt là quyền của người lao động được Chính phủ Việt Nam cam kết thực hiện, nhiều báo cáo trong nước và nước ngoài cho thấy sự quan tâm của Chính phủ chưa đủ mạnh để các quyền đó được thực thi và bảo vệ, đặc biệt là quyền của những nữ lao động nhập cư, là đối tượng dễ bị tổn thương hơn. Trong bối cảnh đó, tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam (AAV) đã thực hiện nghiên cứu “Di cư trong nước – Phụ nữ và Hành trình Gian nan tìm cơ hội”. Nghiên cứu này là một phần trong các hoạt động của dự án “Thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ nghèo đô thị tại Việt Nam” do Cơ quan Viện trợ Ailen tài trợ năm 2011. Đây là một nỗ lực của AAV nhằm tìm kiếm các thông nữ Di cư trong nước: 6| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội LỜI CẢM ƠN tin thực tế về những vấn đề mà nữ lao động nhập cư đang phải đối diện để các trao đổi, đối thoại với các tác nhân phát triển và các cơ quan quản lý được dựa trên các cơ sở khách quan và khoa học. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ tài chính của Cơ quan Viện trợ Ailen (Irish Aid) đã giúp chúng tôi tiếp tục thực hiện dự án này tại Việt Nam. Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ được cung cấp những thông tin bổ ích trong báo cáo này. Thay mặt tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam (AAV) Hoàng Phương Thảo Trưởng Đại Diện ActionAid Quốc Tế tại Việt Nam N ghiên cứu này được thực hiện với sự hỗ trợ của tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam (AVV). Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn đối với các cán bộ của ActionAid Quốc tế tại Việt Nam đã giúp đỡ nhóm nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Quản lý Chương trình Phát triển và các đối tác khác của AAV tại các tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi xin gửi tới các cán bộ Ban Quản lý dự án tại các tỉnh lời cảm ơn chân thành. Chúng tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới các cán bộ lãnh đạo Liên đoàn Lao động; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Hội Phụ nữ; và các cấp chính quyền quận/phường tại các địa bàn khảo sát ở Hải Phòng, Quảng Ninh và TP. Hồ Chí Minh, về sự hợp tác tích cực và có hiệu quả trong thời gian làm việc tại hiện trường. Đặc biệt, nghiên cứu này nhận được sự hợp tác của phụ nữ di cư tại ba địa bàn nói trên. Nếu không có sự nhiệt tình của họ thì nhóm tư vấn không thể hoàn thành nhiệm vụ. Vì lẽ đó, chúng tôi dành lời cảm ơn đặc biệt đến những phụ nữ di cư - những người vì những lý do khác nhau phải xa quê hương theo một hành trình gian nan để tìm kiếm sinh kế - đã dành thời gian sau những ngày làm việc vất vả để trao đổi cùng với nhóm nghiên cứu. Do hạn chế về thời gian và các nguồn lực, những kết quả phân tích của báo cáo được rút ra từ một đợt khảo sát quy mô nhỏ, vì vậy có thể còn nhiều hạn chế. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ độc giả1. Công ty Cổ phần Nghiên cứu và Tư vấn Đông Dương (IRC) Nhóm tư vấn Nguyễn Trung Kiên, Hoàng Thị Thanh Hoa, Hoàng Bá Thịnh, Lê Thái Thị Băng Tâm Giang Thanh Long, Phạm Thị Bích Ngọc và Phạm Thái Hưng 1 Nghiên cứu này là tài sản của AAV và có sự đóng góp của nhiều tổ chức và cá nhân. Các quan điểm, ý kiến, kết luận và đề xuất trình bày trong nghiên cứu không nhất thiết là quan điểm của AAV hay của các tổ chức, cá nhân được khảo sát trong nghiên cứu này. Các ý kiến đóng góp xin gửi về Hoàng Thị Thanh Hoa, Công ty Nghiên cứu và Tư vấn Đông Dương (IRC) ([email protected]) và/hoặc Đỗ Hạnh Chi, Cán bộ AAV ([email protected]) Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |7 TÓM TẮT D i cư trong nước đã trở thành một vấn đề phát triển, có ý nghĩa kinh tế-xã hội quan trọng đối với cả nông thôn và thành thị trong những năm gần đây ở Việt Nam. Nghiên cứu này tập trung vào phân tích các lý do thúc đẩy và thu hút lao động nữ di cư, và tính dễ bị tổn thương của họ và khả năng tiếp cận các quyền cơ bản tại nơi đến. Kết quả nghiên cứu chính được xây dựng dựa trên một cuộc khảo sát quy mô nhỏ với phụ nữ lao động di cư và một số cơ quan chính quyền/đoàn thể tại TP Uông Bí (Quảng Ninh), quận Dương Kinh (Hải Phòng), và quận Gò Vấp (TP HCM). Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận giới và cách tiếp cận dựa trên quyền là phương pháp tiếp cận để phân tích. Nghiên cứu đưa ra một số kết quả chính sau đây. Lao động nữ di cư: họ là ai? Lao động nữ di cư ở Việt Nam có độ tuổi khá trẻ với hơn 60% phụ nữ lao động di cư có độ tuổi từ 15 đến 29; và 1/3 phụ nữ di cư lần đầu tiên khi còn ở độ tuổi 15-19. Mặc dù vậy, hơn một nửa phụ nữ lao động di cư đã có gia đình, chủ yếu là tại nơi xuất cư. Chính vì vậy, có đến 62% phụ nữ lao động di cư đã có con cái và khoảng 40% đang sống cùng với con cái của họ tại điểm đến. Đáng chú ý là phụ nữ lao động di cư hầu như chưa được qua đào tạo nghề hay chuyên môn nghiệp vụ gì; chỉ có dưới 10% được đào tạo ở bậc trung cấp, số còn lại mới chỉ tốt nghiệp phổ thông. Với đặc thù nữ Di cư trong nước: 8| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội lao động phổ thông, lao động nữ di cư chủ yếu làm các công việc chân tay, không yêu cầu tay nghề cao hay chuyên môn nghiệp vụ gì đáng kể. Một số lao động nữ di cư có được đào tạo tay nghề ngắn hạn tại nơi làm việc nhưng cũng là những hình thức đào tạo rất đơn giản. Lao động nữ di cư: lực đẩy và lực hút Quyết định di cư là kết quả của một quá trình ra quyết định với tương tác của các yếu tố lực đẩy và thu hút. Khó khăn tại thị trường lao động nông thôn là yếu tố lực đẩy cơ bản. Việc làm trong nông nghiệp dù tiếp tục là công việc chính lực lượng lao động nông thôn nhưng tầm quan trọng tương đối đã giảm dần. Thay vào đó, xu hướng tìm việc làm phi nông nghiệp, có thu nhập cao hơn ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ gặp khó khăn trong tìm việc làm ở nông thôn, một số rất lớn không có công việc tạo ra thu nhập trong giai đoạn ‘nông nhàn’, gây áp lực lên xu hướng di cư ra các đô thị để tìm việc làm. Hoàn cảnh gia đình khó khăn do thu nhập từ hoạt động nông nghiệp thấp, do có người đau ốm, thu nhập của hộ gia đình không đáp ứng được yêu cầu chi tiêu là những yếu tố ở cấp hộ gia đình thúc đẩy quyết định di cư. Ngoài ra, hoạt động sinh kế nông nghiệp khó khăn do biến đổi khí hậu, và điều kiện cơ sở hạ tầng nông Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |9 thôn kém phát triển cũng là những yếu tố đóng vai trò là lực đẩy nhiều phụ nữ từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm. di cư gặp nhiều khó khăn do chi phí cao (trong đó có nguyên nhân quan trọng là không có hộ khẩu thường trú). Trong khi nhiều vùng nông thôn ‘dư thừa’ lao động thì nguồn lao động phổ thông này lại rất cần ở các khu vực đô thị: có 88% phụ nữ di cư cho rằng dễ tìm việc làm tại nơi đến là yếu tố thu hút họ di cư; 80% cho rằng thu nhập tại nơi đến cao hơn so với nơi xuất cư. Kết quả khảo sát thu nhập phổ biến của lao động nữ nhập cư là khoảng 2 đến 2,5 triệu đồng/tháng. Đây là mức thu nhập cao hơn đáng kể so với thu nhập ở vùng nông thôn. Gần 80% phụ nữ lao động di cư thuê nhà ở trọ trong nhà tạm, nhà cấp 4 có điều kiện sinh hoạt, vệ sinh tồi tàn. Gần 2/3 số phụ nữ lao động di cư ở trọ nhưng hoàn toàn không có hợp đồng thuê trọ mà chỉ có thỏa thuận miệng. Các chi phí cho sử dụng nước, sử dụng điện đều cao hơn so với mức thông thường. Chất lượng nước sinh hoạt là vấn đề đáng lo ngại. Vốn xã hội là một lực hút quan trọng với lao động nữ di cư. Chỉ có chưa đến ¼ lao động nữ di cư không có họ hàng, bạn bè, hay người quen tại điểm đến. Ở khía cạnh này, quan hệ họ hàng, quan hệ gia đình có ý nghĩa rất quan trọng. Hơn ½ phụ nữ di cư có họ hàng và cha mẹ tại điểm đến. Ngoài những yếu tố lực đẩy và lực hút, một số lao động nữ di cư còn cân nhắc đến một số yếu tố khác. Mong muốn được thay đổi môi trường sống, mong muốn được phát triển các mối quan hệ xã hội (và thậm chí là tìm kiếm bạn đời) cũng là những yếu tố mà phụ nữ di cư cân nhắc. Mong muốn được học hỏi và tìm kiếm cơ hội phát triển bản thân cũng là một động lực để phụ nữ quyết định di cư. Tính dễ bị tổn thương của lao động nữ di cư Phụ nữ di cư mang theo họ những kỳ vọng cải thiện thu nhập, cải thiện cuộc sống. Nhưng hành trình tìm kiếm cơ hội, như phát hiện trong báo cáo này, là một hành trình gian nan. Phụ nữ lao động di cư là đối tượng dễ bị tổn thương tại nơi đến. Lý do của tính dễ bị tổn thương là do các quyền của họ không được đảm bảo. Hợp đồng lao động mới được đảm bảo cho dưới 2/3 lao động nữ, số còn lại hoặc không có hợp đồng, hoặc là hợp đồng ngắn hạn. Trong khi đó, công việc của phụ nữ lao động di cư có cường độ cao, và thường thiếu ổn định. Thời gian làm việc trung bình là 9,6 tiếng/ngày, và hầu như không có ngày nghỉ. Trong khi đó, chế độ đãi ngộ còn nhiều bất cập. Tình trạng chậm trả lương, giữ lại lương, phạt tiền lương khá phổ biến. Đáng lo ngại là gần ½ số phụ nữ lao động di cư bị mắng chửi tại nơi làm việc, gần 38% bị buộc làm thêm ngoài giờ. Gần 60% phụ nữ lao động di cư có BHXH và ½ trong số họ có BHYT. Số còn lại không tham gia bảo hiểm theo quy định vì nhiều lý do: cả do người sử dụng lao động không chấp hành đầy đủ quy định và do người lao động không nhận thức đầy đủ về quyền lợi nên không tham gia bảo hiểm (nhất là với lao động thời vụ). Tiếp cận với dịch vụ giáo dục và y tế cho con cái của phụ nữ lao động nữ Di cư trong nước: 10| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Việc chuyển đến một nơi ở mới tạo ra những thách thức cho những người phụ nữ nhập cư trong việc hòa nhập vào môi trường xã hội và cộng đồng xa lạ đối với họ. Nhưng mức độ hòa nhập của phụ nữ với cộng đồng tại nơi cư trú là rất hạn chế. Phụ nữ lao động di cư hầu như không tham gia vào sinh hoạt tổ dân phố, sinh hoạt hội phụ nữ, đời sống văn hóa tinh thần nghèo nàn. Chính sách đối với lao động nữ di cư: thực trạng Trừ một khung pháp lý chặt chẽ bảo vệ các quyền của người lao động di cư (tương tự như quyền của bất kỳ công dân nào khác), Việt Nam chưa có bất kỳ chính sách đáng kể gì mang tính đặc thù đối với đối tượng di cư trong nước. Vai trò của di cư trong nước như thế nào trong phát triển kinh tế-xã hội còn là một vấn đề đang tiếp tục được xem xét. Đến thời điểm hiện nay, các văn kiện có ý nghĩa chiến lược của quốc gia hoặc là đề cập đến di cư nông thôn-thành thị như một hiện tượng cần kiểm soát, hoặc là không nêu rõ quan điểm về vấn đề di cư. Hệ thống chính sách do các bộ/ngành liên quan cũng ít có những trọng tâm cụ thể vào vấn đề di cư từ nông thôn ra thành thị. Điều đó cũng một phần xuất phát từ thực tế là đối tượng di cư trong nước gần như không thuộc phạm vi quản lý nhà nước của một bộ/ngành cụ thể nào. Chỉ có một số ít địa phương – là các thành phố thu hút lượng di cư lớn có một số chính sách để hỗ trợ (và quản lý) lao động nhập cư. Luật Cư trú 2007 đã có một số bước đổi mới về chế độ hộ khẩu nhưng hộ khẩu vẫn là một loại giấy tờ cần thiết khi thực hiện các thủ tục hành chính, tiếp cận dịch vụ công, thụ hưởng các chương trình/chính sách hỗ trợ và rất nhiều thủ tục khác. Điều này đặt ra khó khăn lớn với phụ nữ di cư vì họ thường không có hộ khẩu thường trú và vì vậy gặp khó khăn trong tiếp cận dịch vụ công. Chính sách đối với lao động nữ di cư: một số đề xuất Mặc dù di cư kéo theo những hệ quả xã hội nhất định nhưng di cư rõ ràng là một vấn đề phát triển trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Vì vậy, di cư trong nước cần phải được công nhận là một vấn đề phát triển (chứ không phải là một hiện tượng cần kiểm soát). Vấn đề này cần được ghi nhận trong các văn kiện chiến lược quốc gia. Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị vẫn hay được coi là ‘phi chính thức’, làm việc trong khu vực ‘phi chính thức’ và không chịu sự quản lý trực tiếp của một cơ quan chức năng cụ thể nào. Ở góc độ này, quản lý nhà nước về lao động di cư cần phải là một chức năng chính thức của một bộ/ngành (phù hợp nhất hiện nay là Bộ LĐTB&XH) Chính quyền các cấp cần quán triệt quan điểm lao động di cư là một luồng lao động bổ sung cho địa phương; di cư là một vấn đề phát triển chứ không phải là một ‘vấn đề xã hội’ hay thậm chí là ‘vấn đề dẫn đến tệ nạn’. Đây là một điều kiện cơ bản để các cấp chính quyền địa phương có thể đưa ra những quyết định chính sách theo hướng ‘vì người lao động di cư’. Sự tồn tại của hạn chế do quy định về hộ khẩu gây ra cho người di cư là kết quả của cách thức quản lý hành chính với một hiện tượng kinh tế. Việc hạn chế di cư bằng các biện pháp hành chính sẽ không giảm được di cư mà chỉ làm tăng tính dễ bị tổn thương của đối tượng đặc biệt này. Vì vậy, cần có sự cải cách triệt để hơn trong hệ thống đăng ký hộ khẩu để chế độ hộ khẩu chỉ là một công cụ quản lý hành chính về biến động dân số, hỗ trợ cho tính toán và quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Vai trò của chính quyền địa phương cũng rất quan trọng vì họ là cấp có quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến lao động nhập cư. Hỗ trợ đào tạo tay nghề, hỗ trợ và tư vấn về thông tin việc làm, hỗ trợ trong chính sách về chỗ ở là những vấn đề chính quyền địa phương có thể cân nhắc thực hiện để hỗ trợ cho lao động nhập cư. Đồng thời, vai trò của các đoàn thể cũng rất quan trọng để đảm bảo tăng tính hòa nhập cộng đồng và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho lao động nhập cư. Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |11 Phần I: TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU nữ Di cư trong nước: 12| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |13 TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU C ùng với tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh chóng, di cư đang trở thành một vấn đề phát triển có ý nghĩa ngày càng quan trọng. Theo kết quả Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, trong giai đoạn mười năm từ 1999 đến 2009 dân di cư giữa các tỉnh tăng từ 2 triệu người lên 3,4 triệu người, trong đó di cư nữ chiếm hơn một nửa số dân di cư. Ở góc độ tích cực, di cư là một nguồn lao động bổ sung quan trọng cho nhiều khu vực đô thị; góp phần cải thiện đời sống của nhiều hộ gia đình ở nông thôn. Nhưng di cư cũng đang là một vấn đề xã hội lớn vì tình trạng ‘trắng’ về chính sách đối với lao động di cư; mức độ ‘quá tải’ của cơ sở hạ tầng và dịch vụ công ở những đô thị tập trung nhiều dân di cư; làm cho tính dễ bị tổn thương của người di cư nhiều hơn, đặc biệt là lao động nữ di cư. các yếu tố tác động đến di cư (cả yếu tố thúc đẩy và yếu tố thu hút), tính dễ bị tổn thương, và tiếp cận về một số quyền cơ bản của phụ nữ di cư. Nghiên cứu được xây dựng dựa chủ yếu vào kết quả khảo sát tại địa bàn của 3 tỉnh/thành phố lớn ở Việt Nam là Hải Phòng, Quảng Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung của chương này sẽ khái quát một số kết quả nghiên cứu trước đây về tình hình di cư trong nước và mô tả vắn tắt về phương pháp tiếp cận của báo cáo này. 1.1 Khái quát về di cư trong nước ở Việt Nam Do số liệu thống kê về di cư ở Việt Nam chưa có hệ thống nên kết quả từ Tổng Điều tra về Dân số và Nhà ở (thực hiện 10 năm một lần) có thể coi là nguồn dữ liệu có tính đại diện cao nhất về tình hình di cư trong nước. Theo kết quả của các cuộc Tổng Điều tra trong thời gian gần đây, hiện có khoảng 6,6 triệu người (tương đương với khoảng 7,7% dân số) từ 5 tuổi trở lên thay đổi nơi cư trú tới địa điểm khác trong thời gian từ năm 2004-2009. Con số này tăng hơn so với con số 2,1 triệu người di cư ghi nhận trong Tổng Điều tra năm 1999. Nếu tách đối tượng thay đổi nơi cư trú trong phạm vi một tỉnh (có thể là thay đổi vì nhiều lý do phi kinh tế), thì số lượng di cư từ tỉnh này sang tỉnh/thành phố khác cũng tăng lên rất đáng kể. Theo số liệu Tổng Điều tra, di cư giữa các tỉnh tăng từ 1,3 triệu người từ năm 1989 lên 2 triệu người năm 1999 và lên 3,4 triệu người năm 2009. Tỷ trọng dân di cư này trong tổng dân số tăng từ 2,5% năm 1989 lên 2,9% năm 1999 và lên 4,3% năm 2009; và theo dự báo có thể lên đến 6,4% dân số vào năm 2019. Đã có một số nghiên cứu gần đây về tình hình di cư ở Việt Nam đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau. Khái quát về xu hướng di cư được đề cập trong một số nghiên cứu như UN Việt Nam (2010a); TCTK (2010). Các khía cạnh về đời sống của người di cư như GSO và UNFPA (2005), Desingkar và cộng sự (2006), Niimi và cộng sự (2009)... Nhiều thảo luận chính sách liên quan đến di cư được tóm tắt trong UNDP Việt Nam (2010b). Trong những nghiên cứu trước đây về di cư, các khía cạnh liên quan đến di cư nữ mới chủ yếu được đề cập thông qua một số phân tích về yếu tố giới trong di cư. Nghiên cứu “phụ nữ và di cư trong nước – hành trình gian nan tìm kiếm cơ hội” này đề cập đến đối tượng lao động nữ di cư trong nước với trọng tâm tập trung vào Biểu đồ 1. 1. Tốc độ tăng dân số nông thôn và thành thị, 1990-2009 5 4 3 2 Vietnam Urban 2009 2008 2007 2006 2005 2004 2003 2002 2001 2000 1999 1998 1997 1996 1995 1994 1993 1992 -1 1991 0 1990 1 Rural Nguồn: Tổng hợp từ các Niên giám Thống kê 2010, 2000, và1996 nữ Di cư trong nước: 14| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |15 Trong dòng di cư có xu hướng tăng nhanh ở Việt Nam trong hai thập kỷ gần đây, di cư từ nông thôn ra thành thị chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn. Dựa trên việc phân tích những số liệu của điều tra nghèo thành thị của UNDP, một báo cáo của IRC (2010a) đã chỉ ra rằng một phần năm tổng dân số của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là người nhập cư trong khi con số này ở Hà Nội là gần 12%. Dù không có số thống kê chính thức nhưng tốc độ gia tăng của di cư từ nông thôn ra thành thị có thể được ước tính qua xem xét tốc độ thay đổi dân số ở thành thị và nông thôn trong thời gian qua. Hình 1.1 cho thấy, tốc độ tăng trưởng của dân số Việt Nam có xu hướng giảm liên tục và dần đều. Đây là kết quả của hai xu hướng trái ngược. Trong khi dân số khu vực thành thị tăng với tốc độ cao thì tốc độ tăng dân số nông thôn giảm mạnh và gần như không thay đổi trong vài năm gần đây. Rõ ràng, di cư từ nông thôn ra thành thị là một yếu tố quan trọng của hai xu hướng trái ngược này. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa ở Việt Nam như thời gian qua, di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới. Đáng lưu ý là phụ nữ chiếm tỷ trọng lớn trong dòng di cư. Theo số liệu từ Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 2009, tỷ lệ nữ đều cao hơn 50% đối với hầu hết các nhóm di cư phân theo phân loại của Tổng Điều tra (gồm di cư giữa các tỉnh, di cư giữa các huyện, và di cư trong phạm vi huyện). Tính riêng di cư giữa các tỉnh, tỷ lệ phụ nữ di cư chiếm khoảng 42% năm 1989 lên đến 50% năm 1999, và gần đây nhất là 54% năm 2009. Xét về độ tuổi, phụ nữ di cư chủ yếu trong nhóm tuổi từ 15 đến 29, trong đó độ tuổi từ 20 đến 24 là phổ biến nhất. Đáng lưu ý rằng trong số lao động di cư ở độ tuổi từ 15 đến nữ Di cư trong nước: 16| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội 29 này thì tỷ lệ di cư là nữ cao hơn hẳn so với di cư là nam giới (TCTK, 2010). Đặc biệt, phụ nữ di cư có xu hướng ‘trẻ hóa’ theo thời gian. So sánh kết của các cuộc Tổng Điều tra từ 1989, 1999, và 2009, độ tuổi phổ biến nhất của phụ nữ di cư giảm tương ứng từ 25 tuổi, xuống 24 tuổi, và gần đây nhất là 23 tuổi. Trong khi các cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở đưa ra con số khái quát về di cư, Điều tra Di cư năm 2004 do TCTK thực hiện là cuộc điều tra quy mô lớn đầu tiên về di cư. Nhiều nghiên cứu sử dụng kết quả của Điều tra Di cư 2004 đã đưa ra một bức tranh khá rõ nét về việc làm và đời sống của người di cư (xem Desingkar và cộng sự 2006, Niimi và cộng sự 2009). Xét về lý do di cư, kết quả điều tra cho thấy cơ hội việc làm và thu nhập là hai yếu tố có sức hút chính đối với quyết định di cư. Trong số đối tượng di cư khảo sát, hầu hết đều có việc làm (gần 90%) nhưng gần ½ đang làm các công việc lao động giản đơn trong khu vực kinh tế phi chính thức. Đặc biệt, người di cư được điều tra cho thấy họ gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống như khó khăn về nhà cửa, tiếp cận nước sinh hoạt, sử dụng điện, và các tiếp cận với dịch vụ công cộng khác. Đáng lưu ý là trên khía cạnh chính sách, người di cư gần như không phải là đối tượng của bất kỳ một chương trình, chính sách hỗ trợ đáng kể nào. Hình thức hỗ trợ duy nhất mà người di cư nhận được là từ họ hàng, bạn bè – là những người cung cấp hỗ trợ về chỗ ở và tìm việc làm (là những yếu tố khó khăn chính đối với người di cư khi bắt đầu đến địa điểm cư trú mới). Bên cạnh Điều tra Di cư 2004, còn có một số khảo sát ở quy mô nhỏ về di cư đến các đô thị lớn. Tương tự như kết quả của Điều tra Di cư 2004, cuộc điều tra quy mô nhỏ trên 917 lao động nữ tại Hà Nội, Đà Nẵng, và TP HCM do Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (2004) thực hiện cho thấy người di cư không khó khăn để tìm được việc làm tại đô thị (với tỷ lệ hoạt động kinh tế rất cao là gần 97%). Tuy nhiên, tính chất công việc chủ yếu ở khu vực tư nhân, không chính thức, việc làm có thu nhập thấp và không ổn định. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng nguồn trợ giúp chính thức từ chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể quần chúng là rất hạn chế. Thay vào đó, mạng lưới hỗ trợ không chính thức đối với lao động di cư thông qua bạn bè, họ hàng, người thân là rất quan trọng. Khảo sát quy mô nhỏ trong nghiên cứu của Nguyễn (2003) tại địa bàn Hà Nội về lao động nhập cư cho thấy về cơ bản, lao động di cư là nam và nữ tại Hà Nội làm những nghề tương tự nhau, chủ yếu là lao động phổ thông nhưng lại có những khác biệt nhất định về cách thức thực hiện. Lao động di cư là nam thường chọn những công việc nặng nhọc, phải đi xa do sức khỏe tốt hơn; trong khi đó nữ giới thường chọn những việc nhẹ nhàng hơn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng người lao động di cư thường phải làm việc trong điều kiện cường độ cao, thời gian lao động trong ngày trung bình từ 9-10 giờ. Trong khi đó, những khó khăn như ế hàng, bị quỵt tiền, trả công thấp, bị bắt làm thêm giờ là những khó khăn phổ biến nhất với đối tượng di cư trong nghiên cứu. Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu khác dựa trên các cuộc điều tra quy mô nhỏ như Đào (2009) điều tra về đối tượng lao động giúp việc; CGFED (2007) về vấn đề sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục của người di cư; Bùi (2009) về các vấn đề sinh hoạt gia đình của nhóm công nhân tại Hà Nội... Dù có phạm vi và trọng tâm khảo sát là khác nhau nhưng đặc điểm chung của những nghiên cứu này là đều chỉ ra những bất lợi mà người lao động di cư gặp phải trong công việc và trong sinh hoạt tại nơi đến. Trên khía cạnh chính sách, các nghiên cứu này đều nhấn mạnh thực trạng ‘trắng’ về chính sách đối với người di cư tại các khu vực đô thị. Chính vì vậy, hầu hết người di cư đều phải dựa vào bạn bè, người thân, và họ hàng như là ‘lưới an toàn’ duy nhất để đối mặt với những khó khăn sau quyết định di cư. 1.2 Mục tiêu, phạm vi, và phương pháp nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu của nghiên cứu Trong bối cảnh chung về di cư ở Việt Nam, nghiên cứu này có mục tiêu tổng thể là xác định hiện trạng di cư trong nước của phụ nữ tại một số địa bàn thu hút nhiều lao động nữ di cư; đề xuất khuyến nghị về chính sách và can thiệp nhằm cải thiện điều kiện sống, việc làm và tăng cơ hội tiếp cận chính sách và dịch vụ công và hòa nhập cộng đồng của phụ nữ di cư tại nơi đến. Các mục tiêu cụ thể của Báo cáo được xác định gồm: • Tìm hiểu thực trạng di dân của phụ nữ trong đó xác định rõ “lực đẩy” – những yếu tố thúc đẩy phụ nữ đi di cư và “lực hút” – những yếu tố lôi kéo, thu hút phụ nữ di cư; Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |17 •  ác định các ảnh hưởng tích cực và tiêu X cực của việc di cư đối với phụ nữ tại nơi đi và nơi đến đặc biệt là tìm hiểu tính dễ bị tổn thương của phụ nữ trong quá trình di cư cũng như các vấn đề bạo lực trên cơ sở giới và bất bình đẳng giới; • Khả năng tiếp cận các cơ hội việc làm, các dịch vụ y tế, giáo dục và các chương trình, chính sách hỗ trợ đối với lao động di cư của phụ nữ di cư; • Đưa ra những khuyến nghị nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ lao động nhập cư tốt hơn và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhóm phụ nữ di cư. 1.2.2 Phạm vi của nghiên cứu Nghiên cứu này sử dụng quan niệm rộng trong đó di cư được hiểu là một hình thái di chuyển không gian từ một đơn vị hành chính này đến một đơn vị hành chính khác, kèm theo sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên của con người. Tuy nhiên, phạm vi của ‘thay đổi nơi cư trú thường xuyên’ trong báo cáo này được giới hạn bởi di chuyển trong nước; ‘con người’ trong báo cáo tập trung vào đối tượng di cư là phụ nữ. Cũng cần nhấn mạnh rằng, đối tượng chính của báo cáo này được xác định là di cư tự do, nghĩa là di cư không có tổ chức, không theo kế hoạch, mang tính tự phát của người di cư.2 Một khái niệm khác sử dụng trong Báo cáo này là việc làm phi chính thức của lao động di cư. Phân định giữa việc làm chính thức và việc làm phi chính thức là một vấn đề phức tạp. Theo cách hiểu thông dụng của ILO thì tất cả các hoạt động kinh tế của người lao động và các đơn vị kinh tế mà không theo luật hoặc thông lệ, không được tổ chức một cách chính thức được coi là các hoạt động kinh tế phi chính thức. Tuy nhiên, việc xác định ranh giới ở các khía cạnh có hay không tuân thủ theo luật hoặc thông lệ trong thực tế là vấn đề khó. Thay vì cách đi sâu vào phân định sự khác biệt giữa lao động chính thức và lao động phi chính thức, nghiên cứu này đưa ra một cách tiếp cận đơn giản, trong đó những lao động di cư làm việc cho các nhà máy, xí nghiệp, đơn vị cung cấp dịch vụ có đăng ký kinh doanh được gọi là ‘nữ di cư lao động chính thức’ (gọi tắt là ‘công nhân’). Ngoài ra, những phụ nữ di cư lao động dưới các hình thức khác được gọi tắt là ‘nữ di cư lao động phi chính thức’ (ngắn gọn là ‘di cư lao động tự do’). 1.2.3 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp tiếp cận Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người và bình đẳng giới là hai phương pháp được sử dụng xuyên suốt trong nghiên cứu này. Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người khẳng định các quyền và lợi ích chính đáng của nữ lao động nhập cư gắn kết với nhau và không thể tách rời. Đảm bảo các quyền cho phụ nữ lao động nhập cư là trách nhiệm của chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, của người sử dụng lao động, của cộng đồng, và của chính người nhập cư. Với cách tiếp cận đó, Báo cáo không chỉ thu thập các thông tin từ phụ nữ lao động nhập cư mà còn từ chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị xã hội liên quan. Báo cáo cũng sử dụng phương pháp tiếp cận về bình đẳng giới để phân tích và làm rõ sự khác biệt trong việc tiếp cận các cơ hội việc làm, điều kiện sống và làm việc của nữ lao động nhập cư so với đối tượng tương tự là nam giới. Với các phương pháp tiếp cận đề cập ở trên, nghiên cứu này thu thập thông tin cả định tính và định lượng. Bên cạnh những chỉ số cụ thể về từng vấn đề nghiên cứu, thông tin định tính giúp cung cấp cái nhìn có chiều sâu về một số vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các công cụ thu thập thông tin được sử dụng gồm: nghiên cứu tài liệu, phỏng vấn sâu cá nhân, thảo luận nhóm tập trung, nghiên cứu trường hợp, quan sát và phỏng vấn bằng bảng hỏi cấu trúc. Địa bàn và mẫu khảo sát Cuộc khảo sát trong nghiên cứu này (sau đây gọi thống nhất là “Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011”) được tiến hành tại 03 tỉnh/thành phố là Hải Phòng, thành phố Uông Bí tại Quảng Ninh và thành phố Hồ Chí Minh.3 Tại mỗi tỉnh/ thành phố, một quận/phường được lựa chọn làm địa bàn khảo sát. Cụ thể, tại Quảng Ninh, khảo 3 Đây là những địa bàn thu hút nhiều lao động nhập cư. Bên cạnh đó, việc lựa chọn 3 tỉnh/thành phố nói trên cũng do Tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam (AAV) – đơn vị tài trợ cho Báo cáo này – đang phối hợp với các đối tác để thực hiện một số can thiệp liên quan đến đảm bảo về quyền cho phụ nữ lao động di cư ở những địa bàn nghiên cứu. sát được thực hiện tại các phường Quang Trung, Yên Thanh, Trưng Vương, Thanh Sơn, Bắc Sơn của thành phố Uông Bí; tại Hải Phòng, thông tin thu thập từ phường Hải Thành, Anh Dũng và Hưng Đạo của quận Dương Kinh; tại TP HCM, mẫu khảo sát được chọn từ phường 14, quận Gò Vấp. Mẫu khảo sát gồm ba đối tượng chính là cán bộ chính quyền, đại diện một số đoàn thể; và nhóm phụ nữ di cư. Việc chọn mẫu được thực hiện với sự hỗ trợ của các cơ quan đối tác của AAV tại địa bàn khảo sát. Với đối tượng cán bộ, 28 cán bộ được phỏng vấn gồm đại diện Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh (UBND tỉnh), Sở Lao động, Thương binh và Xã hội (Sở LĐTB & XH), Liên đoàn Lao động và Hội Phụ nữ. Với đối tượng là lao động nữ di cư, mẫu khảo sát gồm 345 nữ lao động di cư, trong đó có 203 nữ di cư là công nhân và 142 nữ di cư lao động tự do. Trước khi đi sâu vào những kết quả phân tích, một số hạn chế về mẫu khảo sát cần được nhấn mạnh. Trước hết, nghiên cứu này dựa trên khảo sát quy mô nhỏ, những phát hiện được trình bày ở trong các chương sau vì vậy có ý nghĩa tham khảo như là một thực tế tại địa bàn khảo sát nhưng có thể chưa mang tính đại diện quốc gia. Bên cạnh đó, tiếp cận thông tin về nữ di cư lao động tự do còn hạn chế cả về khả năng tiếp cận và thời gian tiếp cận.4 Với đối tượng nữ di cư là công nhân, do hầu hết là lao động theo ca và làm việc toàn thời gian vào ban ngày nên việc tiếp cận cũng gặp nhiều khó khăn. Trong thực tế, các cuộc phỏng vấn và thảo luận nhóm chủ yếu thực hiện vào buổi tối.Ngoài ra, địa bàn xuất cư của lao động nữ di cư trong nghiên cứu này không được đưa vào diện khảo sát nên các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa người di cư và hộ gia đình/cộng đồng tại nơi xuất cư không được đề cập trong báo cáo. 4 Tại địa bàn khảo sát, phụ nữ di cư lao động tự do chủ yếu làm các công việc tự do như buôn bán hàng rong, làm thuê, phụ hồ, nhặt ve chai… nên đều di chuyển liên tục, khó có thể tiếp cận được đầy đủ. 2 Để phân biệt với đối tượng di cư theo kế hoạch từng phổ biến ở Việt Nam trong thập kỷ 80 trong khuôn khổ các chương trình kinh tế mới (xem thêm chi tiết trong UN Việt Nam, 2010a) nữ Di cư trong nước: 18| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |19 Phần 2: LAO ĐỘNG NỮ DI CƯ TẠI VIỆT NAM: HỌ LÀ AI? nữ Di cư trong nước: 20| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |21 LAO ĐỘNG NỮ DI CƯ TẠI VIỆT NAM: HỌ LÀ AI? T rong chương này, báo cáo sẽ tập trung đi sâu phân tích một số đặc điểm của đối tượng nữ lao động di cư dựa trên kết quả khảo sát thực tế. Một số đặc điểm chính được đề cập gồm đặc điểm về độ tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nơi xuất cư và nghề nghiệp của nữ lao động di cư tại nơi đến. Những phân tích này góp phần xây dựng ra một bức tranh toàn cảnh về đối tượng nghiên cứu, phục vụ cho những phân tích sâu hơn ở những chương sau về nguyên nhân di cư, các yếu tố lực đẩy và lực hút ảnh hưởng đến quyết định di cư, tính dễ bị tổn thương mà nữ lao động di cư đang phải đối mặt, để từ đó giúp đưa ra những giải pháp, khuyến nghị phù hợp. Trong chương này, các kết quả điều tra của nghiên cứu sẽ được so sánh với những số liệu sẵn có (khi có thể) từ Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 2009 và Điều tra Di cư 2004. 2.1 Độ tuổi của lao động di cư nữ Nhìn chung nữ lao động di cư trong nghiên cứu này đang ở trong độ tuổi từ 20 đến 29, nhóm phụ nữ di cư trong khoảng 20 đến 24 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất, ở mức 30,4%, tiếp theo đó là nhóm phụ nữ di cư từ 25 đến 29 tuổi (chiếm hơn 22% số phụ nữ lao động di cư được khảo sát). Kết quả này cũng tương đồng với dữ liệu của Điều tra Di cư Việt Nam năm 2004 với hơn 33,5% nữ di cư trong độ tuổi 20-24 và 20% từ 25 đến 29 tuổi (tóm tắt trong cột cuối cùng của Bảng 2.1). Ngoài ra, kết quả gần 60% phụ nữ di cư ở độ tuổi từ 15 đến 29 như chỉ ra trong khảo sát này cũng tương tự như kết quả của Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 2009 (xem thêm TCTK, 2010). Một đặc điểm đáng lưu ý là có sự khác biệt đáng kể giữa độ tuổi hiện nay của nữ lao động di cư với độ tuổi của nữ lao động trong lần di cư đầu tiên. Gần 29% phụ nữ được khảo sát cho biết họ đã di cư lần đầu trong độ tuổi 15-19; nhiều người trong số họ đã di cư trong một khoảng thời gian dài. Tại thời điểm khảo sát, tỷ lệ phụ nữ di cư lao động đang ở độ tuổi 15-19 chỉ là gần 7%. Bảng 2.2 minh hoạ rõ hơn cơ cấu về độ tuổi của phụ nữ di cư được khảo sát giữa lần di cư đầu tiên và độ tuổi hiện nay. Theo đó, độ tuổi trung bình của nữ lao động di cư hiện nay cao hơn độ tuổi trung bình trong lần di cư đầu tiên là 6 tuổi (29,4 so với 23,6). Đây là một tín hiệu khá tích cực vì tính trung Bảng 2. 1. Phụ nữ di cư theo nhóm tuổi so với kết quả điều tra di cư 2004 (%) Độ tuổi Tuổi hiện nay Tuổi trong lần di cư đầu tiên Kết quả điều tra di cư Việt Nam 2004 (GSO) Nhỏ hơn 15 0,00 6,08 0,00 15-19 7,18 29,28 13,3 20-24 30,39 31,49 33,5 25-29 22,10 14,92 20,0 30-34 12,71 8,29 12,8 35-39 14,36 3,87 7,3 40-44 7,73 3,31 6,5 45-49 0,55 1,10 3,9 50-54 3,87 1,10 1,4 55-59 0,55 0,55 1,3 Lớn hơn 59 0,55 0,00 0,00 Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 cho số liệu ở các cột ‘Tuổi hiện nay’ và ‘Tuổi trong lần di cư đầu tiên’; Kết quả Điều tra di cư Việt Nam 2004 trong cột cuối cùng. nữ Di cư trong nước: 22| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |23 Bảng 2. 2. Độ tuổi nữ lao động di cư theo nghề nghiệp nơi đến Công nhân Lao động tự do Bảng 2. 3. Tình trạng hôn nhân của nữ lao động di cư (%) Chung Hiện nay Lần đầu di cư Hiện nay Lần đầu di cư Hiện nay Lần đầu di cư 25,2 21,1 33,6 26,1 29,41 23,6 Tuổi trung vị 24 20 33 24 27 21 Tuổi thấp nhất 17 13 17 9 17 9 Tuổi cao nhất 42 36 60 58 60 58 Tuổi trung bình Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 bình, phụ nữ lao động di cư trong mẫu khảo sát đã có quãng thời gian khá dài (6 năm) di cư để tìm việc làm.5 Như vậy, những phát hiện đề cập trong báo cáo này là dựa trên cơ sở thông tin của nhiều phụ nữ đã có quá trình di cư trung bình khá dài nên cảm nhận của họ về các vấn đề liên quan có thể có tính tin cậy cao. Lưu ý rằng, tuổi trung bình của lao động tự do (ở cả lần di cư đầu tiên và hiện nay) đều cao hơn so với phụ nữ di cư là công nhân. Điều này có thể là do hai nguyên nhân. Thứ nhất, rất nhiều công việc đơn giản mà phụ nữ di cư hay được tuyển dụng là những công việc đòi hỏi sức khỏe và phụ nữ ở độ tuổi chưa có gia đình (thuận lợi hơn cho việc làm thêm, làm ca đêm). Thứ hai, các công việc lao động tự do đòi hỏi phụ nữ phải có sự trải nghiệm nhất định để tự bươn trải kiếm sống tại nơi đến. Kết quả khảo sát cũng cho thấy độ tuổi thấp nhất của phụ nữ lần đầu di cư chỉ là 9 tuổi; trong khi đó độ tuổi cao nhất là 59 tuổi. Thực tế tại địa bàn khảo sát cho thấy hầu hết đối tượng di cư ở tuổi rất trẻ hoặc tuổi đã trên 30 là di cư làm các công việc giúp việc gia đình hoặc có người nhà đã di cư đến nơi đến và kéo theo quyết định di cư của những người ở độ tuổi này. Độ tuổi thấp nhất trong lần di cư đầu tiên phản ảnh một thực trang đáng lo ngại vì quãng tuổi dưới 15 là độ tuổi đi học trung học cơ sở. Như vậy, trong khi rất nhiều bạn bè đồng trang lứa đang ngồi trên ghế nhà trường, thì một số ít các em gái nhỏ đã phải di cư kiếm sống. Rất có thể, đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất do hạn chế về sức lao động, khả năng nhận thức cũng như trình độ học vấn. Họ có nguy cơ trở thành nạn nhân của bóc lột sức lao động trẻ em và những nguy cơ khác như lạm dụng tình dục, bạo lực trẻ em. Kết quả khảo 5 Mặc dù nội dung điều tra không tìm hiểu sâu về tính liên tục giữa lần di cư đầu tiên và lần di cư hiện tại nhưng kết quả trung bình về thời gian giữa lần di cư đầu tiên và thời điểm khảo sát có thể được hiểu theo hai trường hợp. Thứ nhất, quá trình di cư tìm việc làm đã kéo dài nhiều năm. Thứ hai, có thể một số phụ nữ sau lần di cư đầu tiên quay trở về nơi xuất cư rồi lại tiếp tục thực hiện các lần di cư tiếp theo. nữ Di cư trong nước: 24| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội sát định tính tại hiện trường cho thấy phần lớn đối tượng này đã từng làm việc trong các cơ sở có tính rủi ro cao như tiệm cắt tóc, gội đầu, hoặc người giúp việc gia đình. Đây cũng là một gợi ý cho những nghiên cứu sâu hơn về nhóm đối tượng này trong tương lai, làm cơ sở cho những khuyến nghị chính sách phù hợp. 2.2 Hoàn cảnh hôn nhân và gia đình 2.2.1 Tình trạng hôn nhân Theo phân tích ở trên, phần lớn nữ lao động di cư đang nằm trong độ tuổi hôn nhân (20 đến 29 tuổi). Kết quả trong Bảng 2.3 cho thấy hơn 54% số phụ nữ lao động di cư đã có gia đình, 34% hiện đang sống độc thân, chỉ có một tỷ lệ tương đối thập (hơn 11%) ở tình trạng ly thân, ly hôn hoặc góa chồng. Một kết quả đáng quan tâm là sự thay đổi trong tình trạng hôn nhân kể từ lần di cư đầu tiên so với thời điểm hiện nay. Thứ nhất, hơn 20% số phụ nữ được khảo sát cho thấy họ chuyển từ tình trạng ‘độc thân’ sang ‘đã lập gia đình’ giữa lần di cư đầu tiên và thời điểm hiện tại. Kết quả này cũng tương đồng với Điều tra Di cư 2004, trong đó hơn một nửa phụ nữ di cư đã lập gia đình. Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết số phụ nữ di cư lập gia đình với người chồng tại nơi xuất cư và tiếp tục ra thành phố lao động sau khi lập gia đình, chỉ có một số ít có chồng di cư từ điểm xuất cư khác. Thứ hai, tỷ lệ phụ nữ di cư rơi vào tình trạng ly thân, ly hôn có xu hướng tăng trong giai đoạn di cư. Đây cũng có thể là một hệ quả của việc di cư do gia đình không có thời gian đoàn tụ. Điểm quan trọng nhất về mặt chính sách có thể rút ra từ Bảng 2.3 ở trên, đó là hệ quả về tiếp cận giáo dục và chăm sóc y tế. Với đặc thù hơn một nửa phụ nữ lao động di cư đã có gia đình, phần nhiều trong số họ có con cái. Kết quả khảo sát cho thấy hơn 40% nữ lao động di cư trong khảo sát này đang sống cùng với con tại nơi đến. Như vậy, nhu cầu tiếp cận giáo dục các cấp cho con Lần di cư đầu tiên Hiện nay Kết quả điều tra di cư Việt Nam 2004 (GSO) Chưa lập gia đình 55,80 34,25 40,2 Đã lập gia đình 38,67 54,14 55,8 Ly thân, ly hôn, góa 5,52 11,60 4,00 Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011; Điều tra di cư Việt Nam 2004 của Tổng Cục Thống Kê 48,1% tại thời điểm hiện nay. Số phụ nữ có 3 con trở lên cũng tăng nhẹ khoảng 5 điểm phần trăm (từ 7,7% lên 12,9%). Số con trung bình tại thời điểm di cư lần đầu là chưa đến 1 con, trong khi số con trong thời điểm hiện tại là hơn 1 con. cái của phụ nữ di cư là rất đáng kể. Đây sẽ là một thách thức lớn về chính sách trong điều kiện các trường ở bậc giáo dục cơ bản sử dụng hộ khẩu là tiêu chuẩn để phân định học sinh ‘đúng tuyến’ và ‘trái tuyến’. Như đã chỉ ra trong Desingkar và cộng sự (2006), hầu hết đối tượng di cư đều không đăng ký, hoặc chỉ đăng ký tạm trú nên khả năng tiếp cận của họ với các dịch vụ công bị hạn chế và tốn kém chi phí hơn mức bình thường. Vấn đề tương tự cũng được đặt ra trong nghiên cứu của UN Việt Nam (2010a). Ngoài ra, kết quả khảo sát cũng gợi ý rằng hơn một nửa phụ nữ di cư có thể có những yêu cầu về chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục. Điều này cũng đặt ra một thách thức lớn về khả năng đáp ứng của các cơ sở y tế tại nơi đến, và quan trọng hơn là khả năng tiếp cận của phụ nữ với những dịch vụ cơ bản này (sẽ được phân tích kỹ hơn trong chương 4). Ở khía cạnh này, có sự khác biệt đáng kể về mặt địa lý giữa ba tỉnh/thành phố thực hiện khảo sát (xem Biểu đồ 2.1). Trong thời điểm lần đầu tiên di cư, lao động nữ được khảo sát ở Quảng Ninh chưa có con chiếm tỷ lệ cao nhất so với Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh (70% so với 52,5 và 45%). Tuy vậy, đến thời điểm hiện nay, tỷ lệ phụ nữ chưa có con cao nhất là ở Hải Phòng với 37,7%, trong khi Quảng Ninh và thành phố Hồ Chí Minh lần lượt là 31,7 và 30%. Như vậy, sự thay đổi giữa trạng thái ‘chưa có con’ và ‘có từ 1 con trở lên’ ở Quảng Ninh là lớn nhất (chênh lệch gần 38 điểm %), sau đó là Hải Phòng, và cuối cùng là TP HCM. 2.2.2 Số con trong gia đình Kết quả khảo sát ở cả ba tỉnh/thành phố cho thấy thực tế là có 40% phụ nữ di cư đang sống cùng với con cái của họ tại điểm di cư đến. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cần xem xét. Trước hết, như đã nói ở trên, kết quả khảo sát cho thấy hệ quả đa chiều của di cư. Di cư không chỉ là sự di chuyển của lao động mà đi kèm với nó là sự di chuyển của trẻ em phụ thuộc vào người di cư. Ở khía cạnh này, hệ thống giáo dục cơ bản của Một hệ quả của sự thay đổi trong tình trạng hôn nhân như chỉ ra trong Bảng 2.3 là sự thay đổi về số con của phụ nữ di cư như báo cáo trong Bảng 2.4 dưới đây. Kết quả khảo sát cho thấy có tới 59,8% phụ nữ di cư chưa có con trong lần đầu tiên di cư nhưng tỷ lệ này giảm đáng kể chỉ còn 38% trong thời điểm hiện nay. Tỷ lệ phụ nữ có 1-2 con trong lần đầu di cư tăng từ 32,5% lên Bảng 2. 4. Số con tại thời điểm di cư lần đầu và hiện nay (người) Di cư lần đầu Hiện nay Chưa có con 59,8 38 1-2 con 32,5 48,1 3 con trở lên 7,7 12,9 Số con trung bình chung 0,7 1,3 Số con trung bình của công nhân 1,5 1,7 Số con trung bình của lao động tự do 1,7 2,1 4 6 Số con lớn nhất Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |25 Biểu đồ 2. 1. Tỷ lệ phần trăm về số con tại thời điểm hiện nay (%) Chưa có con 100% 13.1 34.4 1 đến 2 con 5 11.5 25 50.8 18.3 50 3 con trở lên Biểu đồ 2. 2. Cấp học của nữ nhập cư chia theo địa điểm khảo sát (%) 100% 4.9 8.3 15 23.3 45 31.7 18.3 36.1 45 50% 25 50% 56.7 50.8 0% Lần đầu Hiện nay Lần đầu Hải Phòng Hiện nay Quảng Ninh Lần đầu 35 Hiện nay Hồ Chí Minh 0% Hải Phòng Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 Tiểu học 2.3 Trình độ học vấn theo bốn nhóm: tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5), trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9), trung học phổ thông (từ lớp 10 đến lớp 12), trung cấp trở lên (gồm trung cấp, cao đẳng và đại học). Kết quả cho thấy cấp học trung học cơ sở là cấp học phổ biến nhất trong nhóm mẫu được khảo sát, chiếm khoảng 47,5%. Tiếp đến là tỷ lệ nữ lao động nhập cư học tới cấp trung học phổ thông, ở mức hơn 33%. Như vậy, phụ nữ di cư hầu hết là biết đọc biết viết nhưng tỷ lệ phụ nữ di cư có tay nghề (được hiểu là có đào tạo từ trung cấp trở lên) là rất thấp. Với trình độ trung bình như vậy, một lựa chọn phổ biến nhất (và có lẽ là duy nhất sẵn có cho họ) là những công việc lao động chân tay, không đòi hỏi đào tạo nhiều như trong các cơ sở gia công may mặc, giầy dép (xem thêm phân tích trong phần 2.5) Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy hầu hết lao động di cư đều là lao động phổ thông, không đòi hỏi tay nghề và trình độ học vấn cao. Kết quả đó cũng được phát hiện trong địa bàn khảo sát của nghiên cứu này. Bảng 2.5 tóm tắt về trình độ học vấn của lao động nữ nhập cư (được đánh giá trên cơ sở trình độ học vấn cao nhất đạt được) Biểu 2.2 minh họa khác biệt giữa trình độ học vấn trung bình của ba tỉnh/thành phố trong diện khảo sát. Quảng Ninh có tỉ lệ phụ nữ di cư tốt nghiệp trung cấp trở lên cao nhất, đạt 15% so với 8,3% và 4,9% ở TP HCM và Hải Phòng. Trong khi đó, TP HCM là địa phương có tỉ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở cao nhất với hơn 56,6%, và hơn 18% Việt Nam đang tạo ra những bất lợi (về tiếp cận và chi phí) đối với con em của đối tượng di cư. Tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với dịch vụ y tế. Thứ hai, kết quả khảo sát cũng cho thấy có đến 60% phụ nữ di cư phải sống xa con cái của họ để lao động tạo thu nhập. Có nhiều lý do của tình trạng này. Một lý do khá phổ biến là do nhiều phụ nữ di cư xác định đi làm trong thời gian ngắn hạn để kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Nhưng phổ biến nhất vẫn là do họ không đủ khả năng trang trải chi phí sinh hoạt và chi phí tiếp cận các dịch vụ cho con cái của họ (gồm chi phí chỗ ở, chi phí sinh hoạt và đặc biệt là chi phí học tập, y tế). Kết quả là số phụ nữ này buộc phải chấp nhận sống xa con cái vì lý do sinh kế. Quảng Ninh THCS THPT Hồ Chí Minh Trung cấp trở lên Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 ở mức trung học phổ thông. Trong khi các tỉ lệ này ở Hải Phòng là 50,8%, 36,1% và ở Quảng Ninh là 35% và 45%. Như vậy, nếu so sánh giữa ba tỉnh/thành phố thuộc diện khảo sát thì phụ nữ di cư tại TP HCM có trình độ học vấn trung bình thấp nhất. Kết quả khảo sát định tính không cung cấp một câu trả lời rõ ràng cho thực trạng này. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng sự khác biệt đó có nguồn gốc từ tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông ở các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng (là nơi xuất cư của rất nhiều phụ nữ di cư đến Hải Phòng và Quảng Ninh) trong thực tế cao hơn mặt bằng chung ở các tỉnh Đồng bằng Sông Mê-Kông (là nơi xuất cư của nhiều phụ nữ di cư đến TP HCM). Biểu 2.3 dưới đây sử dụng kết quả về trình độ học vấn của nữ lao động di cư được khảo sát trong Điều tra Di cư 2004 của TCTK. Về cơ bản, kết quả từ Điều tra Di cư 2004 cũng tương đồng với kết quả khảo sát thực hiện trong nghiên cứu này. Theo đó, trình độ tiểu học và trung học cơ sở chiếm tỉ lệ lớn nhất, ở mức trên 60% trên cả nước và ở hai khu vực kinh tế lớn là thành phố Hồ Chí Minh và khu vực kinh tế Đông Bắc (bao Biểu đồ 2. 3. Cấp học của phụ nữ nhập cư chia theo địa điểm khảo sát (%) 100% 4.3 1.9 35.8 28 TP. Hồ Chí Minh 5.9 30.4 50% Bảng 2. 5. Cấp học cao nhất của lao động nữ di cư (%) Trình độ cao nhất Tỷ lệ % 1 Tiểu học 9,9 2 Trung học cơ sở 47,5 Khu vực kinh tế Đông Bắc 3 Trung học phổ thông 33,1 Tiểu học và THCS THPT 4 Trung cấp trở lên 9,4 Trung cấp trở lên Không biết đọc, biết viết Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 nữ Di cư trong nước: 26| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội 0% Chung cả nước Nguồn: Điều tra di cư Việt Nam năm 2004, Tổng Cục Thống Kê Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |27 Bảng 2. 7. Nghề nghiệp trước lần di cư đầu tiên và nghề nghiệp hiện nay (%) Bảng 2. 6. Cấp học cao nhất theo nghề nghiệp (%) Hiện nay Cấp học cao nhất Nghề nghiệp hiện tại Tiểu học THCS THPT Trên trung cấp Tổng Lao động tự do 16,67 53,57 23,81 5,95 100 Công nhân 4,30 43,01 43,01 9,68 100 Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 gồm Quảng Ninh và Hải Phòng). Trong khi đó, phụ nữ di cư có trình độ trên trung cấp chiếm tỉ lệ rất nhỏ (dưới 6% - so với mức trung bình trong nghiên cứu này là 9,4%). Kết quả điều tra cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa trình độ học vấn trung bình của phụ nữ di cư là công nhân và nhóm phụ nữ di cư là lao động tự do. Bảng 2.6 cho thấy tỉ lệ nữ công nhân có trình độ trên trung cấp cao 1,5 lần so với tỉ lệ này ở nữ lao động tự do (9,68% so với 5,59%) và tỉ lệ nữ công nhân tốt nghiệp THPT cao gần gấp đôi so với lao động tự do (43,01% so với 23,81%). Điều này cũng phù hợp với kết quả quan sát thực tế tại địa bàn khảo sát khi hầu hết đối tượng di cư tự do làm các công việc như buôn bán nhỏ, đồng nát. Quan trọng hơn, kết quả này gợi ý rằng học vấn, dù không phải là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến di cư, nhưng vẫn có ý nghĩa nhất định. Phụ nữ di cư có trình độ học vấn cao hơn thường dễ tìm việc làm hơn. Trong khi đó, phụ nữ di cư lao động tự do là đối tượng có học vấn thấp nhất, và vì vậy có thể là đối tượng dễ bị tổn thương hơn so với phụ nữ di cư lao động là công nhân. Trong phạm vi của khảo sát này, chúng tôi có tìm hiểu về khả năng lao động di cư nữ được học hỏi để nâng cao trình độ học vấn và tay nghề trong công việc. Tuy nhiên, kết quả khảo sát là rất hạn chế. Gần như không có bất kỳ một trường hợp phụ nữ di cư nào cho biết họ có cơ hội được nâng cao trình độ học vấn tại nơi đến. Điều này cũng dễ hiểu vì lý do chính của di cư không phải là để đi học mà là để đi làm kiếm thêm thu nhập. Kết quả mà nhóm khảo sát kỳ vọng là phụ nữ lao động di cư được đào tạo thêm về tay nghề tại nơi làm việc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngay cả việc đào tạo thêm về tay nghề cũng rất hạn chế. Lý do chính là công việc của phụ nữ di cư là công nhân, chỉ đòi hỏi lao động phổ thông với một số kỹ năng rất đơn giản. Vì vậy, số ít phụ nữ có cơ hội đào tạo tay nghề cũng chỉ là những đào tạo rất đơn giản. Phần lớn phụ nữ cải thiện về tay nghề của họ thông qua giai đoạn đầu tiên làm phụ việc trong các dây chuyền sản xuất đơn giản. 2.4 Đặc điểm về nơi xuất cư Như đã phân tích trong chương 1, di cư từ nông thôn đến thành thị có tốc độ tăng nhanh và đang trở thành một dạng di cư có ý nghĩa phát triển quan trọng nhất ở Việt Nam. Nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng phần lớn lao động di cư ở các thành phố và các tỉnh có công nghiệp, dịch vụ phát triển đều có xuất thân từ nông thôn, điều này phản ánh xu hướng của làn sóng di cư ngày càng mạnh mẽ từ nông thôn lên thành thị trong quá trình đô thị hóa tại Việt Nam. Kết quả khảo sát phụ nữ di cư trong nghiên cứu này cũng chỉ ra xu hướng tương tự. Biểu đồ 2.4 cho thấy có đến 71,3% phụ nữ di cư xuất cư từ nông thôn, tiếp đó là 18,5% ra đi từ thị xã, thị trấn, và chỉ có Biểu đồ 2. 4. Nơi xuất cư của phụ nữ nhập cư trong mẫu khảo sát (%) Nghề nghiệp trước lần di cư đầu tiên Công nhân Lao động tự do Đi học Làm nông 40,7 39,6 20 44,4 Công nhân Tự do Chưa làm gì Tổng 11 7,7 1,1 100 3,3 28,9 3,3 100 Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 gần 10% là di cư từ các thành phố. Xét trên khía cạnh địa lý, tỷ lệ phụ nữ lao động di cư xuất cư từ nông thôn chiếm đông nhất là Hải Phòng (hơn 81%), trong khi Quảng Ninh và TP HCM xấp xỉ nhau với lần lượt là 65% và 67,8%. Điểm đáng lưu ý từ kết quả khảo sát này đó là thách thức đặt ra với phụ nữ nông thôn khi di cư đến các đô thị. Rõ ràng, phụ nữ nông thôn di cư ra thành thị sẽ phải trải qua một quá trình điều chỉnh, thích nghi để hòa nhập với tác phong làm việc công nghiệp và cuộc sống với tốc độ nhanh tại nơi đến là các thành phố, trung tâm kinh tế lớn. Với trình độ học vấn ở mức trung bình và thấp (như trên), quá trình điều chỉnh này không phải là dễ dàng. Trong điều kiện đó, đáng lo ngại là hầu hết đối tượng phụ nữ di cư đều không có chuẩn bị gì đáng kể để đối phó với sự thay đổi này. Kết quả khảo sát định tính cho thấy có rất ít phụ nữ di cư có tìm hiểu về thông tin (từ các nguồn khác nhau, kể cả từ bạn bè và người thân) trước khi quyết định di cư. Trong khi đó, phụ nữ di cư, cũng như các đối tượng lao động di cư khác, không hề được tiếp cận với bất kỳ sự trợ giúp chính thức đáng kể nào từ các cấp chính quyền. Điều này làm tăng gánh nặng về tinh thần cho đối tượng này khi họ hoàn toàn thiếu hụt về kỹ năng để hòa nhập. Quan trọng hơn, như đã đề cập ở trên, vì thị trường lao động ở các thành phố lớn có đòi hỏi ngày càng cao đối với lao động phổ thông, những người phụ nữ có xuất thân từ nông thôn có thể sẽ khó tiếp cận hơn với các cơ hội việc làm thuộc khu vực chính thức nếu họ không chuẩn bị đầy đủ cho mình trước khi di cư. 2.5 Đặc điểm về nghề nghiệp Theo kết quả khảo sát, tỷ lệ lao động nữ di cư là công nhân chiếm khoảng 58% mẫu khảo sát, trong khi đó 42% còn lại là lao động nữ di cư làm các công việc tự do. Lao động nữ di cư là công nhân chủ yếu làm việc trong các xí nghiệp gia công may mặc và giày dép; trong khi phụ nữ di cư lao động tự do chủ yếu là buôn bán nhỏ (buôn bán quần áo, giày dép, hoa quả, bán hàng rong), làm thuê trong các cơ sở dịch vụ (cắt tóc, gội đầu). Có hai xu hướng rõ rệt xuất hiện khi xem xét đến nghề nghiệp của công nhân và lao động tự do trước lần di cư đầu tiên so với công việc hiện nay và công việc đầu tiên tại nơi đến. Thứ nhất, có đến gần 80% nữ công nhân di cư trước khi di cư đang đi học tại quê nhà hoặc làm nông (theo Bảng 2.7, hai tỉ lệ này hiện nay đều xấp xỉ ở mức 40%). Trong khi đó, tỷ lệ nữ di cư lao động tự do đi học trước khi thực hiện di cư lần đầu chỉ là 20% (bằng gần ½ so với đối tượng phụ nữ di cư là công nhân). Thứ hai, phần lớn nữ lao động tự do hiện nay có xuất thân từ nông dân hoặc lao động tự do, với hơn 44% lao động tự do hiện nay đã từng làm nông nghiệp trước khi di cư lần đầu tiên và gần 30% đã từng làm nghề tự do trước khi di cư. Điều này cũng phản ánh thực tế về trình độ học vấn trung bình của hai đối tượng này (như đã phân tích trong mục 2.3). Một câu hỏi quan trọng đặt ra là với thời gian trung bình từ lần đầu di cư so với thời điểm hiện nay là khá dài (trung bình là 6 năm – như phân tích ở trên), liệu có sự thay đổi gì đáng kể trong nghề nghiệp của phụ nữ di cư hay không? Với 10.1 Bảng 2. 8. Nghề nghiệp tại nơi đến trong lần di cư đầu tiên và hiện nay(%) 18.5 Hiện nay 71.3 Thành phố Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 nữ Di cư trong nước: 28| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Thị xã, thị trấn Nông thôn Nghề nghiệp tại nơi đến đầu tiên* Công nhân Tự do Đi học Tổng Công nhân 89 9,9 1,1 100 Lao động tự do 4,4 94,4 1,1 100 Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 Ghi chú: *Nghề nghiệp tại nơi đến đầu tiên được nghiên cứu định nghĩa là nghề nghiệp trong thời gian dài nhất của nữ lao động di cư tại nơi đến, bất kể họ đã thay đổi loại hình nghề nghiệp bao nhiêu lần tại nơi đến đầu tiên. Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |29 đặc thù lao động tự do dễ bị tổn thương hơn làm công nhân thì có nhiều phụ nữ lao động di cư sau một thời gian bươn trải có thể tìm được công việc trong các cơ sở sản xuất hay không? Bảng 2.8 dưới đây đưa ra kết quả khảo sát cho những câu hỏi này. Kết quả khảo sát cho thấy câu trả lời tiêu cực cho những câu hỏi ở trên. Nếu so sánh giữa nghề nghiệp trong lần di cư đầu tiên và nghề nghiệp hiện nay của phụ nữ di cư thì gần như không có sự thay đổi đáng kể nào. Cụ thể, theo Bảng 2.8, có hơn 94% nữ lao động tự do hiện nay đã từng làm nghề tự do và 89% nữ công nhân hiện nay đã từng làm công nhân tại nơi đến đầu tiên. Chỉ có một tỉ lệ rất nhỏ nữ lao động chuyển từ công nhân sang lao động tự do và ngược lại có thể vì sở thích và những lí do cá nhân thay vì biểu hiện thành một xu hướng rõ rệt. Điều này có thể xuất phát từ hạn chế về cơ hội học hỏi trong thời gian di cư (như đã nhắc đến ở trên). Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cũng gợi ý rằng phụ nữ di cư gần như phải tự bươn trải kiếm sống, chỉ dựa vào bản thân họ mà rất ít có cơ hội phát triển, cải thiện tài sản con người. nữ Di cư trong nước: 30| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Phần 3: LAO ĐỘNG NỮ DI CƯ: LỰC ĐẨY VÀ LỰC HÚT Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |31 LAO ĐỘNG NỮ DI CƯ: LỰC ĐẨY VÀ LỰC HÚT C hương 3 tập trung vào các kết quả về động cơ di cư. Để bao quát các yếu tố tác động tới quyết định di cư của phụ nữ, báo cáo sẽ tập trung phân tích hai nhóm chính gồm (i) yếu tố lực đẩy – bắt nguồn từ nơi xuất cư và cá nhân người phụ nữ; và (ii) yếu tố lực hút – liên quan đến điều kiện kinh tế-xã hội của nơi đến. Trong thực tế, quyết định di cư của lao động nữ là tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Phần lớn phụ nữ di cư vì mục đích kinh tế, nhưng ngay cả vì mục đích này thì cũng có sự tương tác giữa yếu tố đẩy (ví dụ như do hạn chế về cơ hội việc làm, thu nhập thấp ở nơi xuất cư) và yếu tố kéo (ví dụ như do cầu lao động phổ thông tại nơi đến, cơ hội có thu nhập cao hơn mức trung bình ở nông thôn). Vì vậy, việc phân tách giữa nhóm yếu tố đẩy và yếu tố kéo trong chương này chỉ để thuận tiện cho phân tích. 3.1 Yếu tố lực đẩy với phụ nữ di cư Các nghiên cứu về di cư trước đây không đưa ra một cách phân loại thống nhất nào về nhóm yếu tố ‘lực đẩy’. Trong báo cáo này, việc xác định nhóm ‘lực đẩy’ gồm những yếu tố nào xuất phát từ kết quả khảo sát thực tế. Theo đó, các yếu tố ‘lực đẩy’ tác động đến quyết định di cư của phụ nữ gồm các yếu tố liên quan đến (i) thị trường lao động nơi xuất cư; và (ii) hoàn cảnh gia đình của nữ lao động di cư. 3.1.1 Lực đẩy từ thị trường lao động nơi xuất cư Như đã phân tích trong Chương 2, đối tượng phụ nữ lao động di cư ở địa bàn khảo sát chủ yếu đến từ các vùng nông thôn. Kết quả khảo sát cho thấy những hạn chế của thị trường lao động nông thôn nơi xuất cư là một yếu tố lực đẩy cơ bản với những phụ nữ di cư thuộc dạng này.6 Hầu hết các nghiên cứu về công cuộc Đổi mới ở Việt Nam đều thừa nhận vai trò quan trọng của nông nghiệp trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Phạm và cộng sự (2009) chỉ rõ vai trò của nông nghiệp đối với tạo việc làm cho lực lượng lao động trẻ, tăng trưởng nhanh của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng như trong báo cáo của Van de Walle và Cratty (2003) hay WB (2006), Phạm và cộng sự (2009) chỉ ra vai trò ngày càng giảm của khu vực nông nghiệp đối với tạo việc làm. Sử dụng số liệu tổng hợp từ các cuộc Điều tra MSHGĐ trong giai đoạn 1993-2008, kết quả tính toán cho thấy vào đầu thập kỷ 1990, nông nghiệp tạo ra khoảng 80% lượng 6 Kết quả phân tích trong mục 3.1.1 này chủ yếu áp dụng cho đối tượng phụ nữ di cư từ nông thôn đến thành thị (chiềm 71,3% mẫu khảo sát). Ở một góc độ nhất định, những phân tích này cũng đúng đối với đối tượng phụ nữ di cư từ thị xã/thị trấn ra các thành phổ trong điện khảo sát (chiếm 18,5% mẫu khảo sát). Bảng 3. 1. Tìm việc trong thời gian nông nhàn (%) % đồng ý Trung bình 56,4 Địa điểm Hải Phòng 58,9 Quảng Ninh 56,6 TP Hồ Chí Minh 53,5 Công nhân 56,1 Tự do 56,7 Nghề nghiệp Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước, 2011 nữ Di cư trong nước: 32| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |33 việc làm cho lao động nông thôn. Đến năm 2008, tỷ lệ này giảm xuống còn gần 58%. Thay vào đó, lao động ở nông thôn, nhất là lao động trẻ hoặc phải tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn hoặc phải di cư đến các khu vực đô thị để tìm kiếm việc làm. Đồng quan điểm trên, một số báo cáo nghiên cứu về lịch sử di dân tại Việt Nam cũng ghi nhận xu hướng lao động dịch chuyển từ sản xuất nông nghiệp, sản phẩm truyền thống sang các khu vực sản xuất công nghiệp hóa và dịch vụ, tạo ra luồng di cư theo cấp số nhân tới các khu vực thành thị phát triển có nhiều việc làm (UN Việt Nam, 2010a). Bên cạnh đó, trong nhiều nghiên cứu gần đây, xu hướng di cư này còn được giải thích là nguyên do của sự tìm việc làm phi nông nghiệp trong thời gian “nông nhàn” (UN Việt Nam, 2010a). Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê chính thức thì gần 30% lao động ở nông thôn Việt Nam ở trong tình trạng có việc làm không đầy đủ (được định nghĩa là mặc dù có việc nhưng làm việc dưới 30 giờ một tuần). Tình trạng ‘nông nhàn’ và có việc làm không đầy đủ ở nông thôn có thể là nguyên nhân quan trọng dẫn đến quyết định di cư, đặc biệt là trong ngắn hạn. Kết quả khảo sát trong nghiên cứu này cũng khẳng định đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến quyết định di cư. Bảng 3.1 cho thấy 56,4% phụ nữ di cư từ nông thôn đến địa bàn khảo sát xuất phát từ động cơ tìm việc làm trong thời gian ‘nông nhàn’ để bổ sung thu nhập cho hộ gia đình. Hộp 3. 1. Nông nhàn, không có việc làm và sự chán nản “Lúc đầu là em chỉ muốn đi vì ở nhà mình làm nghề nông rảnh rỗi” (PVS 1.7, công nhân, 21 tuổi)7 “Quê nghèo không có việc gì để làm, ở nhà làm nông nghiệp phụ giúp mẹ, nhưng thấy buồn và chán vì nhiều thời gian rỗi không có việc gì để làm lại không có tiền tiêu” (PVS 1.9, công nhân, 25 tuổi) “Trong đó có các doanh nghiệp liên doanh với ngước ngoài, sản xuất đồ chơi, kéo theo rất nhiều lao động tự do, làm công nhân thời vụ chủ yếu là công nhân nữ. Họ di cư ra thành phố theo mùa vụ, hết việc họ lại về” (TLN, Cán bộ phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, Hải Phòng). “Gia đình khó khăn nhà có 3 chị em, gia đình làm nông nghiệp, ở nhà khó khăn, làm ruộng, ngoài ngày vụ thì không có việc gì để làm” (PVS 1.12, công nhân, 18 tuổi) “Đầu năm vào tháng 2 tháng 3 thời gian này ở quê không có nhiều việc. Nhóm nhập cư theo thời vụ, đơn hàng ít, công nhân giảm trong một tháng họ đã về” (TLN, cán bộ phường Hải Thanh, Quận Dương Kinh, Hải Phòng) Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước, 2011 7 Để đảm bảo tính bảo mật của thông tin phỏng vấn, các ý kiến phỏng vấn hoặc từ các cuộc thảo luận nhóm trích dẫn trong báo cáo này không nêu tên của người đưa ra ý kiến và địa điểm phỏng vấn. Thay vào đó, chúng tôi đánh số hiệu cho các phiếu kết quả phỏng vấn theo ký hiệu thống nhất trong cơ sở dữ liệu khảo sát. nữ Di cư trong nước: 34| Phụ Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội Kết quả khảo sát định tính cũng khẳng định khó khăn trong tìm kiếm việc làm ở nông thôn, tình trạng ‘nông nhàn’ kéo dài cũng là những lý do phổ biến dẫn đến quyết định di cư của phụ nữ từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm việc làm. Hộp 3.1 trên đây ghi nhận một số ý kiến khá phổ biến ghi nhận được trong quá trình Điều tra lý do này. Có rất nhiều ý kiến từ phụ nữ di cư và cả từ phía cán bộ chính quyền tại nơi đến. Trong số những đối tượng này, những đối tượng quyết định di cư vì lý do “nông nhàn” thường tìm kiếm các công việc trong ngắn hạn. Nhưng đối với phụ nữ di cư vì lý do khó khăn trong tìm việc làm tại nông thôn thì thường có xu hướng tìm việc làm trong khoảng thời gian dài hơn. Đáng tiếc là quy mô khảo sát nhỏ trong nghiên cứu này không cho phép sự so sánh sâu hơn giữa hai đối tượng trên. Trong thực tế, di cư ngắn hạn trong giai đoạn “nông nhàn” chỉ mang tính tạm thời và đối tượng di cư theo dạng này có thể không phải là đối tượng di cư chính cần hỗ trợ. Trong khi đó, những phụ nữ di cư trong thời gian dài hơn mới là những đối tượng chịu những bất lợi đáng kể trong công việc và sinh hoạt tại nơi đến, nên sẽ là đối tượng trọng tâm cần phải có những can thiệp về chính sách (trong tương lai). Trong điều kiện có những khó khăn trong tìm kiếm cơ hội công việc ngoài nông nghiệp ở nông thôn, một bất lợi đáng kể khác với lực lượng lao động ở nông thôn là hầu hết mới chỉ tốt nghiệp phổ thông và không được đào tạo nghề. Trong thực tế, khả năng tiếp cận của thanh niên nông thôn, đặc biệt là phụ nữ, đối với các loại hình đào tạo nghề còn rất thấp. Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo Nghị định 1956/QĐ-TTg đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thực hiện trong thời gian hai năm trở lại đây nhưng do thời gian triển khai còn ngắn, lại gặp khá nhiều vướng mắc trong thực hiện nên kết quả mới chỉ là bước đầu. Điều đáng lo ngại là xuất hiện tình trạng đào tạo nghề chưa gắn được với yêu cầu của thị trường lao động. Theo kết quả khảo sát được trình bày trong Bảng 3.2 cho thấy trung bình 39,4% phụ nữ lao động di cư cho biết địa phương họ có một số chương trình đào tạo nghề nhưng không phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương nên một số lao động đã được đào tạo (dù còn ít) nhưng không tìm được việc làm tại nông thôn nên phải chuyển sang các khu vực khác để tìm kiếm việc làm. Tỷ lệ này cao nhất đối với nhóm phụ nữ di cư được khảo sát tại Hải Phòng (gần 54,2%), trong khi đó khoảng 1/3 nhóm phụ nữ di cư tại nơi đến là Quảng Ninh và TP HCM cho biết đào tạo nghề tại nơi xuất cư chưa phù hợp và vì vậy chưa giúp lao động tìm được việc làm. 3.1.2 Lực đẩy từ hoàn cảnh gia đình Yếu tố gia đình luôn luôn là một tác nhân quan trọng ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới chiến lược di cư của phụ nữ. Ở khía cạnh này, các vấn đề gia đình vừa có thể là yếu tố lực đẩy, vừa có thể là yếu tố lực hút. Trong mục này, các vấn đề liên quan đến hoàn cảnh gia đình như điều kiện kinh tế khó khăn; gia đình đông người nhưng không có nhiều người có khả năng lao động; gia đình có người đau ốm, tàn tật không có khả năng lao động là những yếu tố lực đẩy phổ biến liên quan đến hoàn cảnh gia đình dẫn đến quyết định di cư. Theo kết quả khảo sát thực tế, điều kiện kinh tế gia đình gặp khó khăn được xem là một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy phụ nữ phải di cư để tìm kiếm việc làm và tạo thu nhập bổ sung cho gia đình. Có rất nhiều hoàn cảnh cụ thể dẫn đến những khó khăn về kinh tế được ghi nhận trong quá trình thực hiện khảo sát định tính. Hộp 3.2 dưới đây tóm tắt một số ghi nhận phổ biến nhất về khó khăn trong hoàn cảnh gia đình dẫn đến quyết định di cư. Phụ nữ Di cư trong nước: Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội |35
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan