PHỤ NỮ DI CƯ TRONG NƯỚC
HÀNH TRÌNH GIAN NAN
TÌM KIẾM CƠ HỘI
2011
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|1
Phụ nữ Di cư trong nước
HÀNH TRÌNH Gian nan
Tìm kiếm Cơ hội
MỤC LỤC
Danh mục các bảng..........................................................................................................................3
Danh mục các biểu đồ......................................................................................................................4
Danh mục các hộp.............................................................................................................................4
Danh mục các từ viết tắt...............................................................................................................5
Lời giới thiệu.......................................................................................................................................6
Lời cảm ơn............................................................................................................................................7
Tóm tắt .................................................................................................................................................9
Chương 1: Tổng quan về nghiên cứu......................................................................................13
1.1
Khái quát về di cư trong nước ở Việt Nam............................................................................15
1.2 Mục tiêu, phạm vi, và phương pháp nghiên cứu...................................................................17
1.2.1 Mục tiêu của nghiên cứu..........................................................................................17
1.2.2
Phạm vi của nghiên cứu..........................................................................................18
1.2.3
Phương pháp nghiên cứu........................................................................................19
Chương 2:Lao động nữ di cư tại Việt Nam: Họ là ai?........................................................21
2.1 Độ tuổi của lao động di cư nữ...............................................................................................23
2.2
Hoàn cảnh hôn nhân và gia đình...........................................................................................24
2.2.1
Tình trạng hôn nhân.................................................................................................24
2.2.2
Số con trong gia đình...............................................................................................25
2.3
Trình độ học vấn....................................................................................................................26
2.4 Đặc điểm về nơi xuất cư.......................................................................................................28
2.5 Đặc điểm về nghề nghiệp......................................................................................................29
Chương 3:Lao động nữ di cư: lực đẩy và lực hút............................................................31
Nội dung: ActionAid Quốc tế tại Việt nam và Công ty Tư vấn Đông Dương IRC
Biên tập: ActionAid Quốc tế tại Việt Nam
Ảnh: AAV, Nguyễn Hoài Nam, Đặng Mai Thanh, Lưu Trọng Quang
Thiết kế & in ấn: Luck House Graphics
Xuất bản lần đầu: 2012
Giấy phép xuất: Số....
3.1
Yếu tố lực đẩy với phụ nữ di cư............................................................................................33
3.1.1
Lực đẩy từ thị trường lao động nơi xuất cư.............................................................33
3.1.2
Lực đẩy từ hoàn cảnh gia đình................................................................................35
3.1.3
Lực đẩy từ các khía cạnh khác................................................................................37
3.2
Yếu tố lực hút........................................................................................................................38
3.2.1
Cơ hội việc làm tại nơi đến......................................................................................38
3.2.2
Thu nhập tại điểm đến cao hơn nơi xuất cư............................................................40
3.2.3
Lực hút từ vốn xã hội: bạn bè/người thân................................................................41
3.3
Các yếu tố khác.....................................................................................................................43
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|1
Chương 4: Tính dễ bị tổn thương của phụ nữ di cư..........................................................47
Danh mục các bảng
4.1
Tính dễ bị tổn thương trong công việc..................................................................................49
4.1.1
Hợp đồng lao động..................................................................................................49
4.1.2
Công việc không ổn định, cường độ làm việc cao...................................................50
Bảng 2. 1. Phụ nữ di cư theo nhóm tuổi so với kết quả điều tra di cư 2004 (%)...................................16
4.1.3
Chế độ đãi ngộ còn nhiều bất cập...........................................................................53
Bảng 2. 2. Độ tuổi nữ lao động di cư theo nghề nghiệp nơi đến...........................................................17
4.1.4 Đối xử ngược đãi tại nơi làm việc............................................................................54
4.2
Tính dễ bị tổn thương trong tiếp cận dịch vụ công cộng.......................................................55
4.2.1
Tiếp cận với chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.........................................56
4.2.2
Tiếp cận với dịch vụ giáo dục và y tế.......................................................................58
4.3
Tính dễ bị tổn thương trong đời sống sinh hoạt....................................................................59
Bảng 2. 6. Cấp học cao nhất theo nghề nghiệp (%)..............................................................................21
4.3.1 Điều kiện sinh hoạt: nhà ở, sử dụng điện, sử dụng nước.......................................59
Bảng 2. 7. Nghề nghiệp trước lần di cư đầu tiên và nghề nghiệp hiện nay (%)....................................23
4.3.2
Bảng 2. 8. Nghề nghiệp tại nơi đến trong lần di cư đầu tiên và hiện nay(%).........................................23
Hạn chế trong hòa nhập cộng đồng.........................................................................61
Chương 5: Chính sách đối với phụ nữ di cư: thực trạng và một số đề xuất.........63
5.1
Khung pháp lý và chính sách với lao động nữ di cư.............................................................65
5.2 Một số khuyến nghị...............................................................................................................67
Bảng 2. 3. Tình trạng hôn nhân của nữ lao động di cư (%)...................................................................18
Bảng 2. 4. Số con tại thời điểm di cư lần đầu và hiện nay (người).......................................................19
Bảng 2. 5. Cấp học cao nhất của lao động nữ di cư (%).......................................................................20
Bảng 3. 1. Tìm việc trong thời gian nông nhàn (%)................................................................................25
Bảng 3. 2. Đào tạo nghề chưa phù hợp tại nơi xuất cư (%)..................................................................27
Bảng 3. 3. Lực đẩy do kiện tự nhiên khắc nghiệt và cơ sở hạ tầng yếu kém (%)..................................28
Tài liệu tham khảo..........................................................................................................................71
Bảng 3. 4. Dễ tìm việc làm tại nơi đến (%).............................................................................................30
Bảng 3. 5. Thu nhập cao hơn tại nơi đến (%)........................................................................................32
Bảng 4. 1. Ký kết hợp đồng lao động (%)..............................................................................................39
Bảng 4. 2. Thời hạn ký hợp đồng lao động theo địa bàn nghiên cứu....................................................39
Bảng 4. 3. Thời gian làm việc ngày thường và ngày cuối tuần (giờ).....................................................41
Bảng 4. 4. Các hình thức phân biệt đối xử hoặc xúc phạm nhân phẩm................................................44
Bảng 4. 5. Tỷ lệ phụ nữ lao động di cư có BHXH..................................................................................45
Bảng 4. 6. Tỷ lệ phụ nữ lao động di cư có BHYT...................................................................................47
Bảng 4. 7. Loại hình nhà ở của phụ nữ lao động nhập cư (%)..............................................................50
nữ Di cư trong nước:
2| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|3
Danh mục các biểu đồ
Biểu đồ 1. 1. Tốc độ tăng dân số nông thôn và thành thị, 1990-2009....................................................12
Danh mục các từ viết tắt
AAV
Tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam
Biểu đồ 2. 1. Tỷ lệ phần trăm về số con tại thời điểm hiện nay (%).......................................................19
BHXH Bảo hiểm xã hội
Biểu đồ 2. 2. Cấp học của nữ nhập cư chia theo địa điểm khảo sát (%)..............................................20
BHYT Bảo hiểm y tế
Biểu đồ 2. 3. Cấp học của phụ nữ nhập cư chia theo địa điểm khảo sát (%).......................................21
Bộ LĐTB&XH Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội
Biểu đồ 2. 4. Nơi xuất cư của phụ nữ nhập cư trong mẫu khảo sát (%)................................................22
Bộ NN&PTNN Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Biểu đồ 3. 1. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn............................................................32
Biểu đồ 3. 2. Có người thân quen ở nơi đến (%)...................................................................................33
Biểu đồ 4. 1. Mức độ tham gia các quan hệ xã hội cộng đồng (%)........................................................51
CEDAW
Công ước Xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
CPRGS
Chiến lược Toàn diện về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
ILO
Tổ Chức Lao Động Quốc Tế
IRC
Công Ty Nghiên Cứu và Tư Vấn Đông Dương
LĐ
Lao động
MSHGĐ Mức Sống Hộ Gia Đình
Danh mục các hộp
Hộp 3. 1. Nông nhàn, không có việc làm và sự chán nản......................................................................26
Hộp 3. 2. Các khó khăn của gia đình thúc đẩy phụ nữ di cư.................................................................28
Hộp 3. 3. Cú sốc do thiên tai và sự bấp bênh của nghề nông...............................................................29
Hộp 3. 4. Dễ tìm việc làm tại điểm đến..................................................................................................31
PVS
Phỏng vấn sâu
TCTK
Tổng Cục Thống Kê
TLN
Thảo luận nhóm
UBND
Ủy Ban Nhân Dân
UN
Liên Hợp Quốc
WB
Ngân Hàng Thế Giới
Hộp 3. 5. Di cư vì thu nhập ở nơi đến cao hơn......................................................................................33
Hộp 3. 6. Di cư vì người thân, và họ hàng giới thiệu.............................................................................34
Hộp 3. 7. Di cư vì muốn thay đổi môi trường sống................................................................................35
Hộp 4. 1. Tính không ổn định trong công việc của nữ công nhân nhập cư...........................................40
Hộp 4. 2. Tính không ổn định trong công việc của nữ lao động tự do...................................................41
Hộp 4. 3. Một số bất cập trong chế độ tiền lương..................................................................................42
Hộp 4. 4. Khó khăn và trừ tiền ngày nghỉ phép......................................................................................43
Hộp 4. 5. Thực hiện chính sách thai sản với nữ công nhân di cư..........................................................46
Hộp 4. 6. Khó khăn trong tiếp cận giáo dục với con cái của phụ nữ di cư.............................................48
Hộp 4. 7. Phụ nữ di cư gặp rất nhiều khó khăn về nhà ở......................................................................50
Hộp 4. 8. Nguồn nước sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh......................................................................50
Hộp 4. 9. Các yếu tố cản trở hòa nhập cộng đồng.................................................................................52
nữ Di cư trong nước:
4| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|5
LỜI GIỚI THIỆU
D
i cư là kết quả tất yếu của công cuộc phát
triển. Những đánh giá gần đây nhìn chung
xác định một số đặc điểm quan trọng của
di cư ở Việt Nam: Mức di cư trong nước đang
tăng lên, chủ yếu là di cư nông thôn ra thành thị
và là di cư tạm thời. Trong dòng người di cư đó,
phụ nữ chiếm tỉ lệ ngày càng cao.
Đã có nhiều nghiên cứu về di cư, đa dạng về
chủ đề và phạm vi. Kết quả của các nghiên cứu
này cho thấy di cư mang lại nhiều giá trị kinh tế
cho người di cư, nhưng bên cạnh những lợi ích
đó là những khó khăn, thách thức mà người di
cư phải đối mặt, đặc biệt là đối với phụ nữ di
cư. Bên cạnh những chính sách đảm bảo quyền
con người, đặc biệt là quyền của người lao động
được Chính phủ Việt Nam cam kết thực hiện,
nhiều báo cáo trong nước và nước ngoài cho
thấy sự quan tâm của Chính phủ chưa đủ mạnh
để các quyền đó được thực thi và bảo vệ, đặc
biệt là quyền của những nữ lao động nhập cư, là
đối tượng dễ bị tổn thương hơn.
Trong bối cảnh đó, tổ chức ActionAid Quốc tế tại
Việt Nam (AAV) đã thực hiện nghiên cứu “Di cư
trong nước – Phụ nữ và Hành trình Gian nan tìm
cơ hội”. Nghiên cứu này là một phần trong các
hoạt động của dự án “Thúc đẩy bình đẳng giới và
trao quyền cho phụ nữ nghèo đô thị tại Việt Nam”
do Cơ quan Viện trợ Ailen tài trợ năm 2011. Đây
là một nỗ lực của AAV nhằm tìm kiếm các thông
nữ Di cư trong nước:
6| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
LỜI CẢM ƠN
tin thực tế về những vấn đề mà nữ lao động nhập
cư đang phải đối diện để các trao đổi, đối thoại
với các tác nhân phát triển và các cơ quan quản
lý được dựa trên các cơ sở khách quan và khoa
học.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ tài
chính của Cơ quan Viện trợ Ailen (Irish Aid) đã
giúp chúng tôi tiếp tục thực hiện dự án này tại Việt
Nam. Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ được cung cấp
những thông tin bổ ích trong báo cáo này.
Thay mặt tổ chức ActionAid Quốc tế tại
Việt Nam (AAV)
Hoàng Phương Thảo
Trưởng Đại Diện
ActionAid Quốc Tế tại Việt Nam
N
ghiên cứu này được thực hiện với sự hỗ
trợ của tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt
Nam (AVV). Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn
đối với các cán bộ của ActionAid Quốc tế tại Việt
Nam đã giúp đỡ nhóm nghiên cứu trong suốt quá
trình thực hiện.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Quản lý
Chương trình Phát triển và các đối tác khác
của AAV tại các tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh và
thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi xin gửi tới
các cán bộ Ban Quản lý dự án tại các tỉnh lời
cảm ơn chân thành.
Chúng tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới các cán
bộ lãnh đạo Liên đoàn Lao động; Sở Lao động,
Thương binh và Xã hội; Hội Phụ nữ; và các cấp
chính quyền quận/phường tại các địa bàn khảo
sát ở Hải Phòng, Quảng Ninh và TP. Hồ Chí Minh,
về sự hợp tác tích cực và có hiệu quả trong thời
gian làm việc tại hiện trường.
Đặc biệt, nghiên cứu này nhận được sự hợp tác
của phụ nữ di cư tại ba địa bàn nói trên. Nếu
không có sự nhiệt tình của họ thì nhóm tư vấn
không thể hoàn thành nhiệm vụ. Vì lẽ đó, chúng
tôi dành lời cảm ơn đặc biệt đến những phụ nữ di
cư - những người vì những lý do khác nhau phải
xa quê hương theo một hành trình gian nan để
tìm kiếm sinh kế - đã dành thời gian sau những
ngày làm việc vất vả để trao đổi cùng với nhóm
nghiên cứu.
Do hạn chế về thời gian và các nguồn lực,
những kết quả phân tích của báo cáo được
rút ra từ một đợt khảo sát quy mô nhỏ, vì vậy
có thể còn nhiều hạn chế. Chúng tôi rất mong
nhận được ý kiến đóng góp từ độc giả1.
Công ty Cổ phần Nghiên cứu và Tư vấn
Đông Dương (IRC)
Nhóm tư vấn
Nguyễn Trung Kiên, Hoàng Thị Thanh Hoa,
Hoàng Bá Thịnh, Lê Thái Thị Băng Tâm
Giang Thanh Long, Phạm Thị Bích Ngọc
và Phạm Thái Hưng
1
Nghiên cứu này là tài sản của AAV và có sự
đóng góp của nhiều tổ chức và cá nhân. Các quan
điểm, ý kiến, kết luận và đề xuất trình bày trong nghiên
cứu không nhất thiết là quan điểm của AAV hay của
các tổ chức, cá nhân được khảo sát trong nghiên cứu
này. Các ý kiến đóng góp xin gửi về Hoàng Thị Thanh
Hoa, Công ty Nghiên cứu và Tư vấn Đông Dương
(IRC) (
[email protected]) và/hoặc Đỗ Hạnh Chi,
Cán bộ AAV (
[email protected])
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|7
TÓM TẮT
D
i cư trong nước đã trở thành một vấn đề phát
triển, có ý nghĩa kinh tế-xã hội quan trọng đối
với cả nông thôn và thành thị trong những
năm gần đây ở Việt Nam. Nghiên cứu này tập trung
vào phân tích các lý do thúc đẩy và thu hút lao động
nữ di cư, và tính dễ bị tổn thương của họ và khả
năng tiếp cận các quyền cơ bản tại nơi đến. Kết quả
nghiên cứu chính được xây dựng dựa trên một cuộc
khảo sát quy mô nhỏ với phụ nữ lao động di cư và
một số cơ quan chính quyền/đoàn thể tại TP Uông
Bí (Quảng Ninh), quận Dương Kinh (Hải Phòng),
và quận Gò Vấp (TP HCM). Nghiên cứu sử dụng
cách tiếp cận giới và cách tiếp cận dựa trên quyền
là phương pháp tiếp cận để phân tích. Nghiên cứu
đưa ra một số kết quả chính sau đây.
Lao động nữ di cư: họ là ai?
Lao động nữ di cư ở Việt Nam có độ tuổi khá trẻ
với hơn 60% phụ nữ lao động di cư có độ tuổi từ
15 đến 29; và 1/3 phụ nữ di cư lần đầu tiên khi
còn ở độ tuổi 15-19. Mặc dù vậy, hơn một nửa
phụ nữ lao động di cư đã có gia đình, chủ yếu
là tại nơi xuất cư. Chính vì vậy, có đến 62% phụ
nữ lao động di cư đã có con cái và khoảng 40%
đang sống cùng với con cái của họ tại điểm đến.
Đáng chú ý là phụ nữ lao động di cư hầu như chưa
được qua đào tạo nghề hay chuyên môn nghiệp vụ
gì; chỉ có dưới 10% được đào tạo ở bậc trung cấp,
số còn lại mới chỉ tốt nghiệp phổ thông. Với đặc thù
nữ Di cư trong nước:
8| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
lao động phổ thông, lao động nữ di cư chủ yếu làm
các công việc chân tay, không yêu cầu tay nghề
cao hay chuyên môn nghiệp vụ gì đáng kể. Một số
lao động nữ di cư có được đào tạo tay nghề ngắn
hạn tại nơi làm việc nhưng cũng là những hình thức
đào tạo rất đơn giản.
Lao động nữ di cư: lực đẩy và lực hút
Quyết định di cư là kết quả của một quá trình ra
quyết định với tương tác của các yếu tố lực đẩy
và thu hút.
Khó khăn tại thị trường lao động nông thôn là yếu tố
lực đẩy cơ bản. Việc làm trong nông nghiệp dù tiếp
tục là công việc chính lực lượng lao động nông thôn
nhưng tầm quan trọng tương đối đã giảm dần. Thay
vào đó, xu hướng tìm việc làm phi nông nghiệp, có
thu nhập cao hơn ngày càng phổ biến. Tuy nhiên,
nhiều phụ nữ gặp khó khăn trong tìm việc làm ở nông
thôn, một số rất lớn không có công việc tạo ra thu
nhập trong giai đoạn ‘nông nhàn’, gây áp lực lên xu
hướng di cư ra các đô thị để tìm việc làm.
Hoàn cảnh gia đình khó khăn do thu nhập từ
hoạt động nông nghiệp thấp, do có người đau
ốm, thu nhập của hộ gia đình không đáp ứng
được yêu cầu chi tiêu là những yếu tố ở cấp
hộ gia đình thúc đẩy quyết định di cư. Ngoài ra,
hoạt động sinh kế nông nghiệp khó khăn do biến
đổi khí hậu, và điều kiện cơ sở hạ tầng nông
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|9
thôn kém phát triển cũng là những yếu tố đóng
vai trò là lực đẩy nhiều phụ nữ từ nông thôn ra
thành thị tìm việc làm.
di cư gặp nhiều khó khăn do chi phí cao (trong đó
có nguyên nhân quan trọng là không có hộ khẩu
thường trú).
Trong khi nhiều vùng nông thôn ‘dư thừa’ lao động
thì nguồn lao động phổ thông này lại rất cần ở các
khu vực đô thị: có 88% phụ nữ di cư cho rằng dễ
tìm việc làm tại nơi đến là yếu tố thu hút họ di cư;
80% cho rằng thu nhập tại nơi đến cao hơn so với
nơi xuất cư. Kết quả khảo sát thu nhập phổ biến
của lao động nữ nhập cư là khoảng 2 đến 2,5 triệu
đồng/tháng. Đây là mức thu nhập cao hơn đáng kể
so với thu nhập ở vùng nông thôn.
Gần 80% phụ nữ lao động di cư thuê nhà ở trọ
trong nhà tạm, nhà cấp 4 có điều kiện sinh hoạt,
vệ sinh tồi tàn. Gần 2/3 số phụ nữ lao động di cư
ở trọ nhưng hoàn toàn không có hợp đồng thuê
trọ mà chỉ có thỏa thuận miệng. Các chi phí cho
sử dụng nước, sử dụng điện đều cao hơn so với
mức thông thường. Chất lượng nước sinh hoạt
là vấn đề đáng lo ngại.
Vốn xã hội là một lực hút quan trọng với lao động nữ
di cư. Chỉ có chưa đến ¼ lao động nữ di cư không
có họ hàng, bạn bè, hay người quen tại điểm đến. Ở
khía cạnh này, quan hệ họ hàng, quan hệ gia đình
có ý nghĩa rất quan trọng. Hơn ½ phụ nữ di cư có họ
hàng và cha mẹ tại điểm đến.
Ngoài những yếu tố lực đẩy và lực hút, một số lao
động nữ di cư còn cân nhắc đến một số yếu tố khác.
Mong muốn được thay đổi môi trường sống, mong
muốn được phát triển các mối quan hệ xã hội (và
thậm chí là tìm kiếm bạn đời) cũng là những yếu tố
mà phụ nữ di cư cân nhắc. Mong muốn được học
hỏi và tìm kiếm cơ hội phát triển bản thân cũng là một
động lực để phụ nữ quyết định di cư.
Tính dễ bị tổn thương của lao động nữ di cư
Phụ nữ di cư mang theo họ những kỳ vọng cải
thiện thu nhập, cải thiện cuộc sống. Nhưng hành
trình tìm kiếm cơ hội, như phát hiện trong báo
cáo này, là một hành trình gian nan. Phụ nữ lao
động di cư là đối tượng dễ bị tổn thương tại nơi
đến. Lý do của tính dễ bị tổn thương là do các
quyền của họ không được đảm bảo.
Hợp đồng lao động mới được đảm bảo cho dưới
2/3 lao động nữ, số còn lại hoặc không có hợp đồng,
hoặc là hợp đồng ngắn hạn. Trong khi đó, công việc
của phụ nữ lao động di cư có cường độ cao, và
thường thiếu ổn định. Thời gian làm việc trung bình
là 9,6 tiếng/ngày, và hầu như không có ngày nghỉ.
Trong khi đó, chế độ đãi ngộ còn nhiều bất cập. Tình
trạng chậm trả lương, giữ lại lương, phạt tiền lương
khá phổ biến. Đáng lo ngại là gần ½ số phụ nữ lao
động di cư bị mắng chửi tại nơi làm việc, gần 38%
bị buộc làm thêm ngoài giờ.
Gần 60% phụ nữ lao động di cư có BHXH và
½ trong số họ có BHYT. Số còn lại không tham
gia bảo hiểm theo quy định vì nhiều lý do: cả do
người sử dụng lao động không chấp hành đầy đủ
quy định và do người lao động không nhận thức
đầy đủ về quyền lợi nên không tham gia bảo hiểm
(nhất là với lao động thời vụ). Tiếp cận với dịch vụ
giáo dục và y tế cho con cái của phụ nữ lao động
nữ Di cư trong nước:
10| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Việc chuyển đến một nơi ở mới tạo ra những thách
thức cho những người phụ nữ nhập cư trong việc
hòa nhập vào môi trường xã hội và cộng đồng xa lạ
đối với họ. Nhưng mức độ hòa nhập của phụ nữ với
cộng đồng tại nơi cư trú là rất hạn chế. Phụ nữ lao
động di cư hầu như không tham gia vào sinh hoạt
tổ dân phố, sinh hoạt hội phụ nữ, đời sống văn hóa
tinh thần nghèo nàn.
Chính sách đối với lao động nữ di cư: thực trạng
Trừ một khung pháp lý chặt chẽ bảo vệ các
quyền của người lao động di cư (tương tự như
quyền của bất kỳ công dân nào khác), Việt Nam
chưa có bất kỳ chính sách đáng kể gì mang tính
đặc thù đối với đối tượng di cư trong nước. Vai
trò của di cư trong nước như thế nào trong phát
triển kinh tế-xã hội còn là một vấn đề đang tiếp
tục được xem xét. Đến thời điểm hiện nay, các
văn kiện có ý nghĩa chiến lược của quốc gia hoặc
là đề cập đến di cư nông thôn-thành thị như một
hiện tượng cần kiểm soát, hoặc là không nêu rõ
quan điểm về vấn đề di cư.
Hệ thống chính sách do các bộ/ngành liên quan
cũng ít có những trọng tâm cụ thể vào vấn đề di
cư từ nông thôn ra thành thị. Điều đó cũng một
phần xuất phát từ thực tế là đối tượng di cư trong
nước gần như không thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của một bộ/ngành cụ thể nào. Chỉ có một
số ít địa phương – là các thành phố thu hút lượng
di cư lớn có một số chính sách để hỗ trợ (và quản
lý) lao động nhập cư.
Luật Cư trú 2007 đã có một số bước đổi mới về chế
độ hộ khẩu nhưng hộ khẩu vẫn là một loại giấy tờ
cần thiết khi thực hiện các thủ tục hành chính, tiếp
cận dịch vụ công, thụ hưởng các chương trình/chính
sách hỗ trợ và rất nhiều thủ tục khác. Điều này đặt ra
khó khăn lớn với phụ nữ di cư vì họ thường không
có hộ khẩu thường trú và vì vậy gặp khó khăn trong
tiếp cận dịch vụ công.
Chính sách đối với lao động nữ di cư:
một số đề xuất
Mặc dù di cư kéo theo những hệ quả xã hội nhất
định nhưng di cư rõ ràng là một vấn đề phát triển
trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Vì vậy, di cư
trong nước cần phải được công nhận là một vấn đề
phát triển (chứ không phải là một hiện tượng cần
kiểm soát). Vấn đề này cần được ghi nhận trong
các văn kiện chiến lược quốc gia.
Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị vẫn hay
được coi là ‘phi chính thức’, làm việc trong khu vực
‘phi chính thức’ và không chịu sự quản lý trực tiếp
của một cơ quan chức năng cụ thể nào. Ở góc độ
này, quản lý nhà nước về lao động di cư cần phải là
một chức năng chính thức của một bộ/ngành (phù
hợp nhất hiện nay là Bộ LĐTB&XH)
Chính quyền các cấp cần quán triệt quan điểm
lao động di cư là một luồng lao động bổ sung cho
địa phương; di cư là một vấn đề phát triển chứ
không phải là một ‘vấn đề xã hội’ hay thậm chí là
‘vấn đề dẫn đến tệ nạn’. Đây là một điều kiện cơ
bản để các cấp chính quyền địa phương có thể
đưa ra những quyết định chính sách theo hướng
‘vì người lao động di cư’.
Sự tồn tại của hạn chế do quy định về hộ khẩu
gây ra cho người di cư là kết quả của cách thức
quản lý hành chính với một hiện tượng kinh tế.
Việc hạn chế di cư bằng các biện pháp hành
chính sẽ không giảm được di cư mà chỉ làm tăng
tính dễ bị tổn thương của đối tượng đặc biệt này.
Vì vậy, cần có sự cải cách triệt để hơn trong hệ
thống đăng ký hộ khẩu để chế độ hộ khẩu chỉ là
một công cụ quản lý hành chính về biến động dân
số, hỗ trợ cho tính toán và quy hoạch phát triển
kinh tế-xã hội.
Vai trò của chính quyền địa phương cũng rất
quan trọng vì họ là cấp có quyết định ảnh hưởng
trực tiếp đến lao động nhập cư. Hỗ trợ đào tạo
tay nghề, hỗ trợ và tư vấn về thông tin việc làm,
hỗ trợ trong chính sách về chỗ ở là những vấn
đề chính quyền địa phương có thể cân nhắc thực
hiện để hỗ trợ cho lao động nhập cư. Đồng thời,
vai trò của các đoàn thể cũng rất quan trọng để
đảm bảo tăng tính hòa nhập cộng đồng và bảo
vệ quyền lợi chính đáng cho lao động nhập cư.
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|11
Phần I:
TỔNG QUAN
VỀ NGHIÊN CỨU
nữ Di cư trong nước:
12| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|13
TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
C
ùng với tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa
nhanh chóng, di cư đang trở thành một
vấn đề phát triển có ý nghĩa ngày càng
quan trọng. Theo kết quả Tổng Điều tra Dân số
và Nhà ở năm 2009, trong giai đoạn mười năm
từ 1999 đến 2009 dân di cư giữa các tỉnh tăng
từ 2 triệu người lên 3,4 triệu người, trong đó di
cư nữ chiếm hơn một nửa số dân di cư. Ở góc
độ tích cực, di cư là một nguồn lao động bổ sung
quan trọng cho nhiều khu vực đô thị; góp phần
cải thiện đời sống của nhiều hộ gia đình ở nông
thôn. Nhưng di cư cũng đang là một vấn đề xã
hội lớn vì tình trạng ‘trắng’ về chính sách đối với
lao động di cư; mức độ ‘quá tải’ của cơ sở hạ
tầng và dịch vụ công ở những đô thị tập trung
nhiều dân di cư; làm cho tính dễ bị tổn thương
của người di cư nhiều hơn, đặc biệt là lao động
nữ di cư.
các yếu tố tác động đến di cư (cả yếu tố thúc đẩy
và yếu tố thu hút), tính dễ bị tổn thương, và tiếp
cận về một số quyền cơ bản của phụ nữ di cư.
Nghiên cứu được xây dựng dựa chủ yếu vào kết
quả khảo sát tại địa bàn của 3 tỉnh/thành phố lớn
ở Việt Nam là Hải Phòng, Quảng Ninh và thành
phố Hồ Chí Minh. Nội dung của chương này sẽ
khái quát một số kết quả nghiên cứu trước đây
về tình hình di cư trong nước và mô tả vắn tắt về
phương pháp tiếp cận của báo cáo này.
1.1 Khái quát về di cư trong nước ở Việt Nam
Do số liệu thống kê về di cư ở Việt Nam chưa có
hệ thống nên kết quả từ Tổng Điều tra về Dân
số và Nhà ở (thực hiện 10 năm một lần) có thể
coi là nguồn dữ liệu có tính đại diện cao nhất
về tình hình di cư trong nước. Theo kết quả của
các cuộc Tổng Điều tra trong thời gian gần đây,
hiện có khoảng 6,6 triệu người (tương đương với
khoảng 7,7% dân số) từ 5 tuổi trở lên thay đổi nơi
cư trú tới địa điểm khác trong thời gian từ năm
2004-2009. Con số này tăng hơn so với con số
2,1 triệu người di cư ghi nhận trong Tổng Điều
tra năm 1999. Nếu tách đối tượng thay đổi nơi
cư trú trong phạm vi một tỉnh (có thể là thay đổi vì
nhiều lý do phi kinh tế), thì số lượng di cư từ tỉnh
này sang tỉnh/thành phố khác cũng tăng lên rất
đáng kể. Theo số liệu Tổng Điều tra, di cư giữa
các tỉnh tăng từ 1,3 triệu người từ năm 1989 lên 2
triệu người năm 1999 và lên 3,4 triệu người năm
2009. Tỷ trọng dân di cư này trong tổng dân số
tăng từ 2,5% năm 1989 lên 2,9% năm 1999 và
lên 4,3% năm 2009; và theo dự báo có thể lên
đến 6,4% dân số vào năm 2019.
Đã có một số nghiên cứu gần đây về tình hình
di cư ở Việt Nam đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau. Khái quát về xu hướng di cư được
đề cập trong một số nghiên cứu như UN Việt
Nam (2010a); TCTK (2010). Các khía cạnh về
đời sống của người di cư như GSO và UNFPA
(2005), Desingkar và cộng sự (2006), Niimi và
cộng sự (2009)... Nhiều thảo luận chính sách liên
quan đến di cư được tóm tắt trong UNDP Việt
Nam (2010b). Trong những nghiên cứu trước đây
về di cư, các khía cạnh liên quan đến di cư nữ
mới chủ yếu được đề cập thông qua một số phân
tích về yếu tố giới trong di cư. Nghiên cứu “phụ
nữ và di cư trong nước – hành trình gian nan tìm
kiếm cơ hội” này đề cập đến đối tượng lao động
nữ di cư trong nước với trọng tâm tập trung vào
Biểu đồ 1. 1. Tốc độ tăng dân số nông thôn và thành thị, 1990-2009
5
4
3
2
Vietnam
Urban
2009
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2002
2001
2000
1999
1998
1997
1996
1995
1994
1993
1992
-1
1991
0
1990
1
Rural
Nguồn: Tổng hợp từ các Niên giám Thống kê 2010, 2000, và1996
nữ Di cư trong nước:
14| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|15
Trong dòng di cư có xu hướng tăng nhanh ở Việt
Nam trong hai thập kỷ gần đây, di cư từ nông
thôn ra thành thị chiếm một tỷ trọng ngày càng
lớn. Dựa trên việc phân tích những số liệu của
điều tra nghèo thành thị của UNDP, một báo cáo
của IRC (2010a) đã chỉ ra rằng một phần năm
tổng dân số của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
là người nhập cư trong khi con số này ở Hà Nội
là gần 12%. Dù không có số thống kê chính thức
nhưng tốc độ gia tăng của di cư từ nông thôn
ra thành thị có thể được ước tính qua xem xét
tốc độ thay đổi dân số ở thành thị và nông thôn
trong thời gian qua. Hình 1.1 cho thấy, tốc độ
tăng trưởng của dân số Việt Nam có xu hướng
giảm liên tục và dần đều. Đây là kết quả của hai
xu hướng trái ngược. Trong khi dân số khu vực
thành thị tăng với tốc độ cao thì tốc độ tăng dân
số nông thôn giảm mạnh và gần như không thay
đổi trong vài năm gần đây. Rõ ràng, di cư từ nông
thôn ra thành thị là một yếu tố quan trọng của hai
xu hướng trái ngược này. Với tốc độ tăng trưởng
kinh tế và đô thị hóa ở Việt Nam như thời gian
qua, di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ tiếp tục
tăng mạnh trong thời gian tới.
Đáng lưu ý là phụ nữ chiếm tỷ trọng lớn trong dòng
di cư. Theo số liệu từ Tổng Điều tra Dân số và
Nhà ở 2009, tỷ lệ nữ đều cao hơn 50% đối với hầu
hết các nhóm di cư phân theo phân loại của Tổng
Điều tra (gồm di cư giữa các tỉnh, di cư giữa các
huyện, và di cư trong phạm vi huyện). Tính riêng di
cư giữa các tỉnh, tỷ lệ phụ nữ di cư chiếm khoảng
42% năm 1989 lên đến 50% năm 1999, và gần
đây nhất là 54% năm 2009. Xét về độ tuổi, phụ nữ
di cư chủ yếu trong nhóm tuổi từ 15 đến 29, trong
đó độ tuổi từ 20 đến 24 là phổ biến nhất. Đáng lưu
ý rằng trong số lao động di cư ở độ tuổi từ 15 đến
nữ Di cư trong nước:
16| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
29 này thì tỷ lệ di cư là nữ cao hơn hẳn so với di
cư là nam giới (TCTK, 2010). Đặc biệt, phụ nữ di
cư có xu hướng ‘trẻ hóa’ theo thời gian. So sánh
kết của các cuộc Tổng Điều tra từ 1989, 1999, và
2009, độ tuổi phổ biến nhất của phụ nữ di cư giảm
tương ứng từ 25 tuổi, xuống 24 tuổi, và gần đây
nhất là 23 tuổi.
Trong khi các cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà
ở đưa ra con số khái quát về di cư, Điều tra Di
cư năm 2004 do TCTK thực hiện là cuộc điều tra
quy mô lớn đầu tiên về di cư. Nhiều nghiên cứu
sử dụng kết quả của Điều tra Di cư 2004 đã đưa
ra một bức tranh khá rõ nét về việc làm và đời
sống của người di cư (xem Desingkar và cộng sự
2006, Niimi và cộng sự 2009). Xét về lý do di cư,
kết quả điều tra cho thấy cơ hội việc làm và thu
nhập là hai yếu tố có sức hút chính đối với quyết
định di cư. Trong số đối tượng di cư khảo sát,
hầu hết đều có việc làm (gần 90%) nhưng gần ½
đang làm các công việc lao động giản đơn trong
khu vực kinh tế phi chính thức. Đặc biệt, người di
cư được điều tra cho thấy họ gặp rất nhiều khó
khăn trong đời sống như khó khăn về nhà cửa,
tiếp cận nước sinh hoạt, sử dụng điện, và các tiếp
cận với dịch vụ công cộng khác. Đáng lưu ý là trên
khía cạnh chính sách, người di cư gần như không
phải là đối tượng của bất kỳ một chương trình, chính
sách hỗ trợ đáng kể nào. Hình thức hỗ trợ duy nhất
mà người di cư nhận được là từ họ hàng, bạn bè –
là những người cung cấp hỗ trợ về chỗ ở và tìm việc
làm (là những yếu tố khó khăn chính đối với người di
cư khi bắt đầu đến địa điểm cư trú mới).
Bên cạnh Điều tra Di cư 2004, còn có một số
khảo sát ở quy mô nhỏ về di cư đến các đô thị
lớn. Tương tự như kết quả của Điều tra Di cư
2004, cuộc điều tra quy mô nhỏ trên 917 lao động
nữ tại Hà Nội, Đà Nẵng, và TP HCM do Viện
Nghiên cứu Phát triển Xã hội (2004) thực hiện cho
thấy người di cư không khó khăn để tìm được việc
làm tại đô thị (với tỷ lệ hoạt động kinh tế rất cao là
gần 97%). Tuy nhiên, tính chất công việc chủ yếu
ở khu vực tư nhân, không chính thức, việc làm
có thu nhập thấp và không ổn định. Nghiên cứu
này cũng chỉ ra rằng nguồn trợ giúp chính thức
từ chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể
quần chúng là rất hạn chế. Thay vào đó, mạng
lưới hỗ trợ không chính thức đối với lao động di
cư thông qua bạn bè, họ hàng, người thân là rất
quan trọng.
Khảo sát quy mô nhỏ trong nghiên cứu của Nguyễn
(2003) tại địa bàn Hà Nội về lao động nhập cư cho
thấy về cơ bản, lao động di cư là nam và nữ tại Hà
Nội làm những nghề tương tự nhau, chủ yếu là
lao động phổ thông nhưng lại có những khác biệt
nhất định về cách thức thực hiện. Lao động di cư
là nam thường chọn những công việc nặng nhọc,
phải đi xa do sức khỏe tốt hơn; trong khi đó nữ giới
thường chọn những việc nhẹ nhàng hơn. Nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng người lao động di cư thường
phải làm việc trong điều kiện cường độ cao, thời
gian lao động trong ngày trung bình từ 9-10 giờ.
Trong khi đó, những khó khăn như ế hàng, bị quỵt
tiền, trả công thấp, bị bắt làm thêm giờ là những
khó khăn phổ biến nhất với đối tượng di cư trong
nghiên cứu.
Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu khác dựa trên
các cuộc điều tra quy mô nhỏ như Đào (2009)
điều tra về đối tượng lao động giúp việc; CGFED
(2007) về vấn đề sức khỏe sinh sản, sức khỏe
tình dục của người di cư; Bùi (2009) về các vấn
đề sinh hoạt gia đình của nhóm công nhân tại Hà
Nội... Dù có phạm vi và trọng tâm khảo sát là khác
nhau nhưng đặc điểm chung của những nghiên
cứu này là đều chỉ ra những bất lợi mà người lao
động di cư gặp phải trong công việc và trong sinh
hoạt tại nơi đến. Trên khía cạnh chính sách, các
nghiên cứu này đều nhấn mạnh thực trạng ‘trắng’
về chính sách đối với người di cư tại các khu vực
đô thị. Chính vì vậy, hầu hết người di cư đều phải
dựa vào bạn bè, người thân, và họ hàng như là
‘lưới an toàn’ duy nhất để đối mặt với những khó
khăn sau quyết định di cư.
1.2 Mục tiêu, phạm vi, và phương pháp
nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu của nghiên cứu
Trong bối cảnh chung về di cư ở Việt Nam,
nghiên cứu này có mục tiêu tổng thể là xác định
hiện trạng di cư trong nước của phụ nữ tại một số
địa bàn thu hút nhiều lao động nữ di cư; đề xuất
khuyến nghị về chính sách và can thiệp nhằm
cải thiện điều kiện sống, việc làm và tăng cơ hội
tiếp cận chính sách và dịch vụ công và hòa nhập
cộng đồng của phụ nữ di cư tại nơi đến.
Các mục tiêu cụ thể của Báo cáo được xác định
gồm:
• Tìm hiểu thực trạng di dân của phụ nữ
trong đó xác định rõ “lực đẩy” – những
yếu tố thúc đẩy phụ nữ đi di cư và “lực
hút” – những yếu tố lôi kéo, thu hút phụ
nữ di cư;
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|17
•
ác định các ảnh hưởng tích cực và tiêu
X
cực của việc di cư đối với phụ nữ tại nơi
đi và nơi đến đặc biệt là tìm hiểu tính dễ
bị tổn thương của phụ nữ trong quá trình
di cư cũng như các vấn đề bạo lực trên
cơ sở giới và bất bình đẳng giới;
• Khả năng tiếp cận các cơ hội việc làm,
các dịch vụ y tế, giáo dục và các chương
trình, chính sách hỗ trợ đối với lao động
di cư của phụ nữ di cư;
• Đưa ra những khuyến nghị nhằm bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ lao động nhập cư
tốt hơn và góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống cho nhóm phụ nữ di cư.
1.2.2 Phạm vi của nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng quan niệm rộng trong đó
di cư được hiểu là một hình thái di chuyển không
gian từ một đơn vị hành chính này đến một đơn vị
hành chính khác, kèm theo sự thay đổi nơi cư trú
thường xuyên của con người. Tuy nhiên, phạm vi
của ‘thay đổi nơi cư trú thường xuyên’ trong báo
cáo này được giới hạn bởi di chuyển trong nước;
‘con người’ trong báo cáo tập trung vào đối tượng di
cư là phụ nữ. Cũng cần nhấn mạnh rằng, đối tượng
chính của báo cáo này được xác định là di cư tự
do, nghĩa là di cư không có tổ chức, không theo kế
hoạch, mang tính tự phát của người di cư.2
Một khái niệm khác sử dụng trong Báo cáo này
là việc làm phi chính thức của lao động di cư.
Phân định giữa việc làm chính thức và việc làm
phi chính thức là một vấn đề phức tạp. Theo cách
hiểu thông dụng của ILO thì tất cả các hoạt động
kinh tế của người lao động và các đơn vị kinh tế
mà không theo luật hoặc thông lệ, không được tổ
chức một cách chính thức được coi là các hoạt
động kinh tế phi chính thức. Tuy nhiên, việc xác
định ranh giới ở các khía cạnh có hay không tuân
thủ theo luật hoặc thông lệ trong thực tế là vấn
đề khó. Thay vì cách đi sâu vào phân định sự
khác biệt giữa lao động chính thức và lao động
phi chính thức, nghiên cứu này đưa ra một cách
tiếp cận đơn giản, trong đó những lao động di cư
làm việc cho các nhà máy, xí nghiệp, đơn vị cung
cấp dịch vụ có đăng ký kinh doanh được gọi là ‘nữ
di cư lao động chính thức’ (gọi tắt là ‘công nhân’).
Ngoài ra, những phụ nữ di cư lao động dưới các
hình thức khác được gọi tắt là ‘nữ di cư lao động
phi chính thức’ (ngắn gọn là ‘di cư lao động tự do’).
1.2.3 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận
Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người
và bình đẳng giới là hai phương pháp được sử
dụng xuyên suốt trong nghiên cứu này. Phương
pháp tiếp cận dựa trên quyền con người khẳng
định các quyền và lợi ích chính đáng của nữ lao
động nhập cư gắn kết với nhau và không thể tách
rời. Đảm bảo các quyền cho phụ nữ lao động
nhập cư là trách nhiệm của chính quyền, các
tổ chức chính trị xã hội, của người sử dụng lao
động, của cộng đồng, và của chính người nhập
cư. Với cách tiếp cận đó, Báo cáo không chỉ thu
thập các thông tin từ phụ nữ lao động nhập cư
mà còn từ chính quyền các cấp, các tổ chức
chính trị xã hội liên quan. Báo cáo cũng sử dụng
phương pháp tiếp cận về bình đẳng giới để phân
tích và làm rõ sự khác biệt trong việc tiếp cận các
cơ hội việc làm, điều kiện sống và làm việc của
nữ lao động nhập cư so với đối tượng tương tự
là nam giới.
Với các phương pháp tiếp cận đề cập ở trên,
nghiên cứu này thu thập thông tin cả định tính
và định lượng. Bên cạnh những chỉ số cụ thể về
từng vấn đề nghiên cứu, thông tin định tính giúp
cung cấp cái nhìn có chiều sâu về một số vấn đề
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các công cụ thu
thập thông tin được sử dụng gồm: nghiên cứu
tài liệu, phỏng vấn sâu cá nhân, thảo luận nhóm
tập trung, nghiên cứu trường hợp, quan sát và
phỏng vấn bằng bảng hỏi cấu trúc.
Địa bàn và mẫu khảo sát
Cuộc khảo sát trong nghiên cứu này (sau đây
gọi thống nhất là “Điều tra Phụ nữ và Di cư trong
nước 2011”) được tiến hành tại 03 tỉnh/thành
phố là Hải Phòng, thành phố Uông Bí tại Quảng
Ninh và thành phố Hồ Chí Minh.3 Tại mỗi tỉnh/
thành phố, một quận/phường được lựa chọn làm
địa bàn khảo sát. Cụ thể, tại Quảng Ninh, khảo
3
Đây là những địa bàn thu hút nhiều lao động
nhập cư. Bên cạnh đó, việc lựa chọn 3 tỉnh/thành phố
nói trên cũng do Tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt
Nam (AAV) – đơn vị tài trợ cho Báo cáo này – đang
phối hợp với các đối tác để thực hiện một số can thiệp
liên quan đến đảm bảo về quyền cho phụ nữ lao động
di cư ở những địa bàn nghiên cứu.
sát được thực hiện tại các phường Quang Trung,
Yên Thanh, Trưng Vương, Thanh Sơn, Bắc Sơn
của thành phố Uông Bí; tại Hải Phòng, thông tin
thu thập từ phường Hải Thành, Anh Dũng và
Hưng Đạo của quận Dương Kinh; tại TP HCM,
mẫu khảo sát được chọn từ phường 14, quận
Gò Vấp.
Mẫu khảo sát gồm ba đối tượng chính là cán bộ
chính quyền, đại diện một số đoàn thể; và nhóm
phụ nữ di cư. Việc chọn mẫu được thực hiện với
sự hỗ trợ của các cơ quan đối tác của AAV tại địa
bàn khảo sát. Với đối tượng cán bộ, 28 cán bộ
được phỏng vấn gồm đại diện Uỷ ban Nhân dân
cấp tỉnh (UBND tỉnh), Sở Lao động, Thương binh
và Xã hội (Sở LĐTB & XH), Liên đoàn Lao động
và Hội Phụ nữ. Với đối tượng là lao động nữ di
cư, mẫu khảo sát gồm 345 nữ lao động di cư,
trong đó có 203 nữ di cư là công nhân và 142 nữ
di cư lao động tự do.
Trước khi đi sâu vào những kết quả phân tích,
một số hạn chế về mẫu khảo sát cần được nhấn
mạnh. Trước hết, nghiên cứu này dựa trên khảo
sát quy mô nhỏ, những phát hiện được trình bày
ở trong các chương sau vì vậy có ý nghĩa tham
khảo như là một thực tế tại địa bàn khảo sát
nhưng có thể chưa mang tính đại diện quốc gia.
Bên cạnh đó, tiếp cận thông tin về nữ di cư lao
động tự do còn hạn chế cả về khả năng tiếp cận
và thời gian tiếp cận.4 Với đối tượng nữ di cư là
công nhân, do hầu hết là lao động theo ca và làm
việc toàn thời gian vào ban ngày nên việc tiếp
cận cũng gặp nhiều khó khăn. Trong thực tế, các
cuộc phỏng vấn và thảo luận nhóm chủ yếu thực
hiện vào buổi tối.Ngoài ra, địa bàn xuất cư của
lao động nữ di cư trong nghiên cứu này không
được đưa vào diện khảo sát nên các vấn đề liên
quan đến mối quan hệ giữa người di cư và hộ gia
đình/cộng đồng tại nơi xuất cư không được đề
cập trong báo cáo.
4
Tại địa bàn khảo sát, phụ nữ di cư lao động
tự do chủ yếu làm các công việc tự do như buôn bán
hàng rong, làm thuê, phụ hồ, nhặt ve chai… nên đều
di chuyển liên tục, khó có thể tiếp cận được đầy đủ.
2
Để phân biệt với đối tượng di cư theo kế
hoạch từng phổ biến ở Việt Nam trong thập kỷ 80 trong
khuôn khổ các chương trình kinh tế mới (xem thêm chi
tiết trong UN Việt Nam, 2010a)
nữ Di cư trong nước:
18| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|19
Phần 2:
LAO ĐỘNG NỮ
DI CƯ TẠI VIỆT NAM:
HỌ LÀ AI?
nữ Di cư trong nước:
20| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|21
LAO ĐỘNG NỮ DI CƯ TẠI
VIỆT NAM: HỌ LÀ AI?
T
rong chương này, báo cáo sẽ tập trung đi
sâu phân tích một số đặc điểm của đối tượng
nữ lao động di cư dựa trên kết quả khảo sát
thực tế. Một số đặc điểm chính được đề cập gồm
đặc điểm về độ tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ
học vấn, nơi xuất cư và nghề nghiệp của nữ lao
động di cư tại nơi đến. Những phân tích này góp
phần xây dựng ra một bức tranh toàn cảnh về đối
tượng nghiên cứu, phục vụ cho những phân tích
sâu hơn ở những chương sau về nguyên nhân di
cư, các yếu tố lực đẩy và lực hút ảnh hưởng đến
quyết định di cư, tính dễ bị tổn thương mà nữ lao
động di cư đang phải đối mặt, để từ đó giúp đưa
ra những giải pháp, khuyến nghị phù hợp. Trong
chương này, các kết quả điều tra của nghiên cứu
sẽ được so sánh với những số liệu sẵn có (khi có
thể) từ Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 2009 và
Điều tra Di cư 2004.
2.1 Độ tuổi của lao động di cư nữ
Nhìn chung nữ lao động di cư trong nghiên cứu
này đang ở trong độ tuổi từ 20 đến 29, nhóm phụ
nữ di cư trong khoảng 20 đến 24 tuổi chiếm tỉ lệ
cao nhất, ở mức 30,4%, tiếp theo đó là nhóm phụ
nữ di cư từ 25 đến 29 tuổi (chiếm hơn 22% số
phụ nữ lao động di cư được khảo sát). Kết quả
này cũng tương đồng với dữ liệu của Điều tra Di
cư Việt Nam năm 2004 với hơn 33,5% nữ di cư
trong độ tuổi 20-24 và 20% từ 25 đến 29 tuổi (tóm
tắt trong cột cuối cùng của Bảng 2.1). Ngoài ra,
kết quả gần 60% phụ nữ di cư ở độ tuổi từ 15 đến
29 như chỉ ra trong khảo sát này cũng tương tự
như kết quả của Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở
2009 (xem thêm TCTK, 2010).
Một đặc điểm đáng lưu ý là có sự khác biệt đáng
kể giữa độ tuổi hiện nay của nữ lao động di cư
với độ tuổi của nữ lao động trong lần di cư đầu
tiên. Gần 29% phụ nữ được khảo sát cho biết họ
đã di cư lần đầu trong độ tuổi 15-19; nhiều người
trong số họ đã di cư trong một khoảng thời gian
dài. Tại thời điểm khảo sát, tỷ lệ phụ nữ di cư lao
động đang ở độ tuổi 15-19 chỉ là gần 7%. Bảng
2.2 minh hoạ rõ hơn cơ cấu về độ tuổi của phụ
nữ di cư được khảo sát giữa lần di cư đầu tiên và
độ tuổi hiện nay. Theo đó, độ tuổi trung bình của
nữ lao động di cư hiện nay cao hơn độ tuổi trung
bình trong lần di cư đầu tiên là 6 tuổi (29,4 so với
23,6). Đây là một tín hiệu khá tích cực vì tính trung
Bảng 2. 1. Phụ nữ di cư theo nhóm tuổi so với kết quả điều tra di cư 2004 (%)
Độ tuổi
Tuổi hiện nay
Tuổi trong lần di cư đầu
tiên
Kết quả điều tra di cư Việt Nam 2004
(GSO)
Nhỏ hơn 15
0,00
6,08
0,00
15-19
7,18
29,28
13,3
20-24
30,39
31,49
33,5
25-29
22,10
14,92
20,0
30-34
12,71
8,29
12,8
35-39
14,36
3,87
7,3
40-44
7,73
3,31
6,5
45-49
0,55
1,10
3,9
50-54
3,87
1,10
1,4
55-59
0,55
0,55
1,3
Lớn hơn 59
0,55
0,00
0,00
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011 cho số liệu ở các cột ‘Tuổi hiện nay’ và ‘Tuổi trong lần di cư đầu
tiên’; Kết quả Điều tra di cư Việt Nam 2004 trong cột cuối cùng.
nữ Di cư trong nước:
22| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|23
Bảng 2. 2. Độ tuổi nữ lao động di cư theo nghề nghiệp nơi đến
Công nhân
Lao động tự do
Bảng 2. 3. Tình trạng hôn nhân của nữ lao động di cư (%)
Chung
Hiện nay
Lần đầu di cư
Hiện nay
Lần đầu di cư
Hiện nay
Lần đầu di cư
25,2
21,1
33,6
26,1
29,41
23,6
Tuổi trung vị
24
20
33
24
27
21
Tuổi thấp nhất
17
13
17
9
17
9
Tuổi cao nhất
42
36
60
58
60
58
Tuổi trung bình
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011
bình, phụ nữ lao động di cư trong mẫu khảo sát đã
có quãng thời gian khá dài (6 năm) di cư để tìm việc
làm.5 Như vậy, những phát hiện đề cập trong báo
cáo này là dựa trên cơ sở thông tin của nhiều phụ
nữ đã có quá trình di cư trung bình khá dài nên cảm
nhận của họ về các vấn đề liên quan có thể có tính
tin cậy cao. Lưu ý rằng, tuổi trung bình của lao động
tự do (ở cả lần di cư đầu tiên và hiện nay) đều cao
hơn so với phụ nữ di cư là công nhân. Điều này có
thể là do hai nguyên nhân. Thứ nhất, rất nhiều công
việc đơn giản mà phụ nữ di cư hay được tuyển
dụng là những công việc đòi hỏi sức khỏe và phụ
nữ ở độ tuổi chưa có gia đình (thuận lợi hơn cho
việc làm thêm, làm ca đêm). Thứ hai, các công việc
lao động tự do đòi hỏi phụ nữ phải có sự trải nghiệm
nhất định để tự bươn trải kiếm sống tại nơi đến.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy độ tuổi thấp nhất
của phụ nữ lần đầu di cư chỉ là 9 tuổi; trong khi
đó độ tuổi cao nhất là 59 tuổi. Thực tế tại địa
bàn khảo sát cho thấy hầu hết đối tượng di cư ở
tuổi rất trẻ hoặc tuổi đã trên 30 là di cư làm các
công việc giúp việc gia đình hoặc có người nhà
đã di cư đến nơi đến và kéo theo quyết định di cư
của những người ở độ tuổi này. Độ tuổi thấp nhất
trong lần di cư đầu tiên phản ảnh một thực trang
đáng lo ngại vì quãng tuổi dưới 15 là độ tuổi đi
học trung học cơ sở. Như vậy, trong khi rất nhiều
bạn bè đồng trang lứa đang ngồi trên ghế nhà
trường, thì một số ít các em gái nhỏ đã phải di cư
kiếm sống. Rất có thể, đây là nhóm đối tượng dễ
bị tổn thương nhất do hạn chế về sức lao động,
khả năng nhận thức cũng như trình độ học vấn.
Họ có nguy cơ trở thành nạn nhân của bóc lột
sức lao động trẻ em và những nguy cơ khác như
lạm dụng tình dục, bạo lực trẻ em. Kết quả khảo
5
Mặc dù nội dung điều tra không tìm hiểu sâu
về tính liên tục giữa lần di cư đầu tiên và lần di cư hiện
tại nhưng kết quả trung bình về thời gian giữa lần di cư
đầu tiên và thời điểm khảo sát có thể được hiểu theo
hai trường hợp. Thứ nhất, quá trình di cư tìm việc làm
đã kéo dài nhiều năm. Thứ hai, có thể một số phụ nữ
sau lần di cư đầu tiên quay trở về nơi xuất cư rồi lại tiếp
tục thực hiện các lần di cư tiếp theo.
nữ Di cư trong nước:
24| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
sát định tính tại hiện trường cho thấy phần lớn
đối tượng này đã từng làm việc trong các cơ sở
có tính rủi ro cao như tiệm cắt tóc, gội đầu, hoặc
người giúp việc gia đình. Đây cũng là một gợi
ý cho những nghiên cứu sâu hơn về nhóm đối
tượng này trong tương lai, làm cơ sở cho những
khuyến nghị chính sách phù hợp.
2.2 Hoàn cảnh hôn nhân và gia đình
2.2.1 Tình trạng hôn nhân
Theo phân tích ở trên, phần lớn nữ lao động di
cư đang nằm trong độ tuổi hôn nhân (20 đến 29
tuổi). Kết quả trong Bảng 2.3 cho thấy hơn 54%
số phụ nữ lao động di cư đã có gia đình, 34%
hiện đang sống độc thân, chỉ có một tỷ lệ tương
đối thập (hơn 11%) ở tình trạng ly thân, ly hôn
hoặc góa chồng. Một kết quả đáng quan tâm là
sự thay đổi trong tình trạng hôn nhân kể từ lần di
cư đầu tiên so với thời điểm hiện nay. Thứ nhất,
hơn 20% số phụ nữ được khảo sát cho thấy họ
chuyển từ tình trạng ‘độc thân’ sang ‘đã lập gia
đình’ giữa lần di cư đầu tiên và thời điểm hiện tại.
Kết quả này cũng tương đồng với Điều tra Di cư
2004, trong đó hơn một nửa phụ nữ di cư đã lập
gia đình. Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết số
phụ nữ di cư lập gia đình với người chồng tại nơi
xuất cư và tiếp tục ra thành phố lao động sau khi
lập gia đình, chỉ có một số ít có chồng di cư từ
điểm xuất cư khác. Thứ hai, tỷ lệ phụ nữ di cư rơi
vào tình trạng ly thân, ly hôn có xu hướng tăng
trong giai đoạn di cư. Đây cũng có thể là một hệ
quả của việc di cư do gia đình không có thời gian
đoàn tụ.
Điểm quan trọng nhất về mặt chính sách có thể
rút ra từ Bảng 2.3 ở trên, đó là hệ quả về tiếp cận
giáo dục và chăm sóc y tế. Với đặc thù hơn một
nửa phụ nữ lao động di cư đã có gia đình, phần
nhiều trong số họ có con cái. Kết quả khảo sát
cho thấy hơn 40% nữ lao động di cư trong khảo
sát này đang sống cùng với con tại nơi đến. Như
vậy, nhu cầu tiếp cận giáo dục các cấp cho con
Lần di cư đầu
tiên
Hiện nay
Kết quả điều tra di cư Việt Nam
2004 (GSO)
Chưa lập gia đình
55,80
34,25
40,2
Đã lập gia đình
38,67
54,14
55,8
Ly thân, ly hôn, góa
5,52
11,60
4,00
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011; Điều tra di cư Việt Nam 2004 của Tổng Cục Thống Kê
48,1% tại thời điểm hiện nay. Số phụ nữ có 3 con
trở lên cũng tăng nhẹ khoảng 5 điểm phần trăm
(từ 7,7% lên 12,9%). Số con trung bình tại thời
điểm di cư lần đầu là chưa đến 1 con, trong khi
số con trong thời điểm hiện tại là hơn 1 con.
cái của phụ nữ di cư là rất đáng kể. Đây sẽ là một
thách thức lớn về chính sách trong điều kiện các
trường ở bậc giáo dục cơ bản sử dụng hộ khẩu
là tiêu chuẩn để phân định học sinh ‘đúng tuyến’
và ‘trái tuyến’. Như đã chỉ ra trong Desingkar
và cộng sự (2006), hầu hết đối tượng di cư đều
không đăng ký, hoặc chỉ đăng ký tạm trú nên khả
năng tiếp cận của họ với các dịch vụ công bị hạn
chế và tốn kém chi phí hơn mức bình thường.
Vấn đề tương tự cũng được đặt ra trong nghiên
cứu của UN Việt Nam (2010a). Ngoài ra, kết quả
khảo sát cũng gợi ý rằng hơn một nửa phụ nữ
di cư có thể có những yêu cầu về chăm sóc sức
khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục. Điều này cũng
đặt ra một thách thức lớn về khả năng đáp ứng
của các cơ sở y tế tại nơi đến, và quan trọng hơn
là khả năng tiếp cận của phụ nữ với những dịch
vụ cơ bản này (sẽ được phân tích kỹ hơn trong
chương 4).
Ở khía cạnh này, có sự khác biệt đáng kể về
mặt địa lý giữa ba tỉnh/thành phố thực hiện khảo
sát (xem Biểu đồ 2.1). Trong thời điểm lần đầu
tiên di cư, lao động nữ được khảo sát ở Quảng
Ninh chưa có con chiếm tỷ lệ cao nhất so với Hải
Phòng và thành phố Hồ Chí Minh (70% so với
52,5 và 45%). Tuy vậy, đến thời điểm hiện nay, tỷ
lệ phụ nữ chưa có con cao nhất là ở Hải Phòng
với 37,7%, trong khi Quảng Ninh và thành phố
Hồ Chí Minh lần lượt là 31,7 và 30%. Như vậy,
sự thay đổi giữa trạng thái ‘chưa có con’ và ‘có
từ 1 con trở lên’ ở Quảng Ninh là lớn nhất (chênh
lệch gần 38 điểm %), sau đó là Hải Phòng, và
cuối cùng là TP HCM.
2.2.2 Số con trong gia đình
Kết quả khảo sát ở cả ba tỉnh/thành phố cho
thấy thực tế là có 40% phụ nữ di cư đang sống
cùng với con cái của họ tại điểm di cư đến. Điều
này đặt ra nhiều vấn đề cần xem xét. Trước hết,
như đã nói ở trên, kết quả khảo sát cho thấy hệ
quả đa chiều của di cư. Di cư không chỉ là sự di
chuyển của lao động mà đi kèm với nó là sự di
chuyển của trẻ em phụ thuộc vào người di cư.
Ở khía cạnh này, hệ thống giáo dục cơ bản của
Một hệ quả của sự thay đổi trong tình trạng hôn
nhân như chỉ ra trong Bảng 2.3 là sự thay đổi
về số con của phụ nữ di cư như báo cáo trong
Bảng 2.4 dưới đây. Kết quả khảo sát cho thấy
có tới 59,8% phụ nữ di cư chưa có con trong lần
đầu tiên di cư nhưng tỷ lệ này giảm đáng kể chỉ
còn 38% trong thời điểm hiện nay. Tỷ lệ phụ nữ
có 1-2 con trong lần đầu di cư tăng từ 32,5% lên
Bảng 2. 4. Số con tại thời điểm di cư lần đầu và hiện nay (người)
Di cư lần đầu
Hiện nay
Chưa có con
59,8
38
1-2 con
32,5
48,1
3 con trở lên
7,7
12,9
Số con trung bình chung
0,7
1,3
Số con trung bình của công nhân
1,5
1,7
Số con trung bình của lao động
tự do
1,7
2,1
4
6
Số con lớn nhất
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|25
Biểu đồ 2. 1. Tỷ lệ phần trăm về số con tại thời điểm hiện nay (%)
Chưa có con
100%
13.1
34.4
1 đến 2 con
5
11.5
25
50.8
18.3
50
3 con trở lên
Biểu đồ 2. 2. Cấp học của nữ nhập cư chia theo địa điểm khảo sát (%)
100%
4.9
8.3
15
23.3
45
31.7
18.3
36.1
45
50%
25
50%
56.7
50.8
0%
Lần đầu
Hiện nay
Lần đầu
Hải Phòng
Hiện nay
Quảng Ninh
Lần đầu
35
Hiện nay
Hồ Chí Minh
0%
Hải Phòng
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011
Tiểu học
2.3 Trình độ học vấn
theo bốn nhóm: tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5),
trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9), trung học
phổ thông (từ lớp 10 đến lớp 12), trung cấp trở
lên (gồm trung cấp, cao đẳng và đại học). Kết
quả cho thấy cấp học trung học cơ sở là cấp học
phổ biến nhất trong nhóm mẫu được khảo sát,
chiếm khoảng 47,5%. Tiếp đến là tỷ lệ nữ lao
động nhập cư học tới cấp trung học phổ thông, ở
mức hơn 33%. Như vậy, phụ nữ di cư hầu hết là
biết đọc biết viết nhưng tỷ lệ phụ nữ di cư có tay
nghề (được hiểu là có đào tạo từ trung cấp trở
lên) là rất thấp. Với trình độ trung bình như vậy,
một lựa chọn phổ biến nhất (và có lẽ là duy nhất
sẵn có cho họ) là những công việc lao động chân
tay, không đòi hỏi đào tạo nhiều như trong các cơ
sở gia công may mặc, giầy dép (xem thêm phân
tích trong phần 2.5)
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy hầu hết
lao động di cư đều là lao động phổ thông, không
đòi hỏi tay nghề và trình độ học vấn cao. Kết quả
đó cũng được phát hiện trong địa bàn khảo sát
của nghiên cứu này. Bảng 2.5 tóm tắt về trình độ
học vấn của lao động nữ nhập cư (được đánh giá
trên cơ sở trình độ học vấn cao nhất đạt được)
Biểu 2.2 minh họa khác biệt giữa trình độ học vấn
trung bình của ba tỉnh/thành phố trong diện khảo
sát. Quảng Ninh có tỉ lệ phụ nữ di cư tốt nghiệp
trung cấp trở lên cao nhất, đạt 15% so với 8,3%
và 4,9% ở TP HCM và Hải Phòng. Trong khi đó,
TP HCM là địa phương có tỉ lệ tốt nghiệp trung
học cơ sở cao nhất với hơn 56,6%, và hơn 18%
Việt Nam đang tạo ra những bất lợi (về tiếp cận
và chi phí) đối với con em của đối tượng di cư.
Tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với dịch vụ
y tế. Thứ hai, kết quả khảo sát cũng cho thấy
có đến 60% phụ nữ di cư phải sống xa con cái
của họ để lao động tạo thu nhập. Có nhiều lý do
của tình trạng này. Một lý do khá phổ biến là do
nhiều phụ nữ di cư xác định đi làm trong thời
gian ngắn hạn để kiếm thêm thu nhập cho gia
đình. Nhưng phổ biến nhất vẫn là do họ không
đủ khả năng trang trải chi phí sinh hoạt và chi
phí tiếp cận các dịch vụ cho con cái của họ (gồm
chi phí chỗ ở, chi phí sinh hoạt và đặc biệt là chi
phí học tập, y tế). Kết quả là số phụ nữ này buộc
phải chấp nhận sống xa con cái vì lý do sinh kế.
Quảng Ninh
THCS
THPT
Hồ Chí Minh
Trung cấp trở lên
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011
ở mức trung học phổ thông. Trong khi các tỉ lệ
này ở Hải Phòng là 50,8%, 36,1% và ở Quảng
Ninh là 35% và 45%. Như vậy, nếu so sánh giữa
ba tỉnh/thành phố thuộc diện khảo sát thì phụ nữ
di cư tại TP HCM có trình độ học vấn trung bình
thấp nhất. Kết quả khảo sát định tính không cung
cấp một câu trả lời rõ ràng cho thực trạng này.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng sự khác biệt đó
có nguồn gốc từ tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông ở các
tỉnh Đồng bằng Sông Hồng (là nơi xuất cư của
rất nhiều phụ nữ di cư đến Hải Phòng và Quảng
Ninh) trong thực tế cao hơn mặt bằng chung ở
các tỉnh Đồng bằng Sông Mê-Kông (là nơi xuất
cư của nhiều phụ nữ di cư đến TP HCM).
Biểu 2.3 dưới đây sử dụng kết quả về trình độ
học vấn của nữ lao động di cư được khảo sát
trong Điều tra Di cư 2004 của TCTK. Về cơ bản,
kết quả từ Điều tra Di cư 2004 cũng tương đồng
với kết quả khảo sát thực hiện trong nghiên cứu
này. Theo đó, trình độ tiểu học và trung học cơ
sở chiếm tỉ lệ lớn nhất, ở mức trên 60% trên cả
nước và ở hai khu vực kinh tế lớn là thành phố
Hồ Chí Minh và khu vực kinh tế Đông Bắc (bao
Biểu đồ 2. 3. Cấp học của phụ nữ nhập cư chia theo địa điểm khảo sát (%)
100%
4.3
1.9
35.8
28
TP. Hồ Chí Minh
5.9
30.4
50%
Bảng 2. 5. Cấp học cao nhất của lao động nữ di cư (%)
Trình độ cao nhất
Tỷ lệ %
1
Tiểu học
9,9
2
Trung học cơ sở
47,5
Khu vực kinh tế
Đông Bắc
3
Trung học phổ thông
33,1
Tiểu học và THCS
THPT
4
Trung cấp trở lên
9,4
Trung cấp trở lên
Không biết đọc, biết viết
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011
nữ Di cư trong nước:
26| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
0%
Chung cả nước
Nguồn: Điều tra di cư Việt Nam năm 2004, Tổng Cục Thống Kê
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|27
Bảng 2. 7. Nghề nghiệp trước lần di cư đầu tiên và nghề nghiệp hiện nay (%)
Bảng 2. 6. Cấp học cao nhất theo nghề nghiệp (%)
Hiện nay
Cấp học cao nhất
Nghề nghiệp hiện tại
Tiểu học
THCS
THPT
Trên trung
cấp
Tổng
Lao động tự do
16,67
53,57
23,81
5,95
100
Công nhân
4,30
43,01
43,01
9,68
100
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011
gồm Quảng Ninh và Hải Phòng). Trong khi đó,
phụ nữ di cư có trình độ trên trung cấp chiếm tỉ
lệ rất nhỏ (dưới 6% - so với mức trung bình trong
nghiên cứu này là 9,4%).
Kết quả điều tra cho thấy có sự khác biệt đáng kể
giữa trình độ học vấn trung bình của phụ nữ di cư
là công nhân và nhóm phụ nữ di cư là lao động tự
do. Bảng 2.6 cho thấy tỉ lệ nữ công nhân có trình
độ trên trung cấp cao 1,5 lần so với tỉ lệ này ở nữ
lao động tự do (9,68% so với 5,59%) và tỉ lệ nữ
công nhân tốt nghiệp THPT cao gần gấp đôi so
với lao động tự do (43,01% so với 23,81%). Điều
này cũng phù hợp với kết quả quan sát thực tế tại
địa bàn khảo sát khi hầu hết đối tượng di cư tự do
làm các công việc như buôn bán nhỏ, đồng nát.
Quan trọng hơn, kết quả này gợi ý rằng học vấn,
dù không phải là yếu tố quan trọng nhất quyết
định đến di cư, nhưng vẫn có ý nghĩa nhất định.
Phụ nữ di cư có trình độ học vấn cao hơn thường
dễ tìm việc làm hơn. Trong khi đó, phụ nữ di cư
lao động tự do là đối tượng có học vấn thấp nhất,
và vì vậy có thể là đối tượng dễ bị tổn thương hơn
so với phụ nữ di cư lao động là công nhân.
Trong phạm vi của khảo sát này, chúng tôi có tìm
hiểu về khả năng lao động di cư nữ được học hỏi
để nâng cao trình độ học vấn và tay nghề trong
công việc. Tuy nhiên, kết quả khảo sát là rất hạn
chế. Gần như không có bất kỳ một trường hợp
phụ nữ di cư nào cho biết họ có cơ hội được nâng
cao trình độ học vấn tại nơi đến. Điều này cũng
dễ hiểu vì lý do chính của di cư không phải là
để đi học mà là để đi làm kiếm thêm thu nhập.
Kết quả mà nhóm khảo sát kỳ vọng là phụ nữ lao
động di cư được đào tạo thêm về tay nghề tại nơi
làm việc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngay cả việc
đào tạo thêm về tay nghề cũng rất hạn chế. Lý
do chính là công việc của phụ nữ di cư là công
nhân, chỉ đòi hỏi lao động phổ thông với một số
kỹ năng rất đơn giản. Vì vậy, số ít phụ nữ có cơ
hội đào tạo tay nghề cũng chỉ là những đào tạo rất
đơn giản. Phần lớn phụ nữ cải thiện về tay nghề
của họ thông qua giai đoạn đầu tiên làm phụ việc
trong các dây chuyền sản xuất đơn giản.
2.4 Đặc điểm về nơi xuất cư
Như đã phân tích trong chương 1, di cư từ nông
thôn đến thành thị có tốc độ tăng nhanh và đang
trở thành một dạng di cư có ý nghĩa phát triển
quan trọng nhất ở Việt Nam. Nhiều nghiên cứu
trước đây đã chỉ ra rằng phần lớn lao động di cư
ở các thành phố và các tỉnh có công nghiệp, dịch
vụ phát triển đều có xuất thân từ nông thôn, điều
này phản ánh xu hướng của làn sóng di cư ngày
càng mạnh mẽ từ nông thôn lên thành thị trong
quá trình đô thị hóa tại Việt Nam. Kết quả khảo
sát phụ nữ di cư trong nghiên cứu này cũng chỉ
ra xu hướng tương tự. Biểu đồ 2.4 cho thấy có
đến 71,3% phụ nữ di cư xuất cư từ nông thôn,
tiếp đó là 18,5% ra đi từ thị xã, thị trấn, và chỉ có
Biểu đồ 2. 4. Nơi xuất cư của phụ nữ nhập cư trong mẫu khảo sát (%)
Nghề nghiệp trước lần di cư đầu tiên
Công nhân
Lao động tự do
Đi học
Làm nông
40,7
39,6
20
44,4
Công nhân
Tự do
Chưa làm gì
Tổng
11
7,7
1,1
100
3,3
28,9
3,3
100
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011
gần 10% là di cư từ các thành phố. Xét trên khía
cạnh địa lý, tỷ lệ phụ nữ lao động di cư xuất cư
từ nông thôn chiếm đông nhất là Hải Phòng (hơn
81%), trong khi Quảng Ninh và TP HCM xấp xỉ
nhau với lần lượt là 65% và 67,8%.
Điểm đáng lưu ý từ kết quả khảo sát này đó là
thách thức đặt ra với phụ nữ nông thôn khi di cư
đến các đô thị. Rõ ràng, phụ nữ nông thôn di cư
ra thành thị sẽ phải trải qua một quá trình điều
chỉnh, thích nghi để hòa nhập với tác phong làm
việc công nghiệp và cuộc sống với tốc độ nhanh
tại nơi đến là các thành phố, trung tâm kinh tế
lớn. Với trình độ học vấn ở mức trung bình và
thấp (như trên), quá trình điều chỉnh này không
phải là dễ dàng. Trong điều kiện đó, đáng lo ngại
là hầu hết đối tượng phụ nữ di cư đều không có
chuẩn bị gì đáng kể để đối phó với sự thay đổi
này. Kết quả khảo sát định tính cho thấy có rất
ít phụ nữ di cư có tìm hiểu về thông tin (từ các
nguồn khác nhau, kể cả từ bạn bè và người thân)
trước khi quyết định di cư. Trong khi đó, phụ nữ
di cư, cũng như các đối tượng lao động di cư
khác, không hề được tiếp cận với bất kỳ sự trợ
giúp chính thức đáng kể nào từ các cấp chính
quyền. Điều này làm tăng gánh nặng về tinh thần
cho đối tượng này khi họ hoàn toàn thiếu hụt về
kỹ năng để hòa nhập. Quan trọng hơn, như đã đề
cập ở trên, vì thị trường lao động ở các thành phố
lớn có đòi hỏi ngày càng cao đối với lao động phổ
thông, những người phụ nữ có xuất thân từ nông
thôn có thể sẽ khó tiếp cận hơn với các cơ hội
việc làm thuộc khu vực chính thức nếu họ không
chuẩn bị đầy đủ cho mình trước khi di cư.
2.5 Đặc điểm về nghề nghiệp
Theo kết quả khảo sát, tỷ lệ lao động nữ di cư
là công nhân chiếm khoảng 58% mẫu khảo sát,
trong khi đó 42% còn lại là lao động nữ di cư làm
các công việc tự do. Lao động nữ di cư là công
nhân chủ yếu làm việc trong các xí nghiệp gia
công may mặc và giày dép; trong khi phụ nữ di
cư lao động tự do chủ yếu là buôn bán nhỏ (buôn
bán quần áo, giày dép, hoa quả, bán hàng rong),
làm thuê trong các cơ sở dịch vụ (cắt tóc, gội
đầu). Có hai xu hướng rõ rệt xuất hiện khi xem
xét đến nghề nghiệp của công nhân và lao động
tự do trước lần di cư đầu tiên so với công việc
hiện nay và công việc đầu tiên tại nơi đến. Thứ
nhất, có đến gần 80% nữ công nhân di cư trước
khi di cư đang đi học tại quê nhà hoặc làm nông
(theo Bảng 2.7, hai tỉ lệ này hiện nay đều xấp xỉ ở
mức 40%). Trong khi đó, tỷ lệ nữ di cư lao động
tự do đi học trước khi thực hiện di cư lần đầu chỉ
là 20% (bằng gần ½ so với đối tượng phụ nữ di
cư là công nhân). Thứ hai, phần lớn nữ lao động
tự do hiện nay có xuất thân từ nông dân hoặc lao
động tự do, với hơn 44% lao động tự do hiện nay
đã từng làm nông nghiệp trước khi di cư lần đầu
tiên và gần 30% đã từng làm nghề tự do trước
khi di cư. Điều này cũng phản ánh thực tế về
trình độ học vấn trung bình của hai đối tượng này
(như đã phân tích trong mục 2.3).
Một câu hỏi quan trọng đặt ra là với thời gian
trung bình từ lần đầu di cư so với thời điểm hiện
nay là khá dài (trung bình là 6 năm – như phân
tích ở trên), liệu có sự thay đổi gì đáng kể trong
nghề nghiệp của phụ nữ di cư hay không? Với
10.1
Bảng 2. 8. Nghề nghiệp tại nơi đến trong lần di cư đầu tiên và hiện nay(%)
18.5
Hiện nay
71.3
Thành phố
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011
nữ Di cư trong nước:
28| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Thị xã, thị trấn
Nông thôn
Nghề nghiệp tại nơi đến đầu tiên*
Công nhân
Tự do
Đi học
Tổng
Công nhân
89
9,9
1,1
100
Lao động tự do
4,4
94,4
1,1
100
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước 2011
Ghi chú: *Nghề nghiệp tại nơi đến đầu tiên được nghiên cứu định nghĩa là nghề nghiệp trong thời gian dài nhất của
nữ lao động di cư tại nơi đến, bất kể họ đã thay đổi loại hình nghề nghiệp bao nhiêu lần tại nơi đến đầu tiên.
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|29
đặc thù lao động tự do dễ bị tổn thương hơn làm
công nhân thì có nhiều phụ nữ lao động di cư
sau một thời gian bươn trải có thể tìm được công
việc trong các cơ sở sản xuất hay không? Bảng
2.8 dưới đây đưa ra kết quả khảo sát cho những
câu hỏi này.
Kết quả khảo sát cho thấy câu trả lời tiêu cực cho
những câu hỏi ở trên. Nếu so sánh giữa nghề
nghiệp trong lần di cư đầu tiên và nghề nghiệp
hiện nay của phụ nữ di cư thì gần như không có
sự thay đổi đáng kể nào. Cụ thể, theo Bảng 2.8,
có hơn 94% nữ lao động tự do hiện nay đã từng
làm nghề tự do và 89% nữ công nhân hiện nay
đã từng làm công nhân tại nơi đến đầu tiên. Chỉ
có một tỉ lệ rất nhỏ nữ lao động chuyển từ công
nhân sang lao động tự do và ngược lại có thể
vì sở thích và những lí do cá nhân thay vì biểu
hiện thành một xu hướng rõ rệt. Điều này có thể
xuất phát từ hạn chế về cơ hội học hỏi trong thời
gian di cư (như đã nhắc đến ở trên). Bên cạnh
đó, kết quả khảo sát cũng gợi ý rằng phụ nữ di
cư gần như phải tự bươn trải kiếm sống, chỉ dựa
vào bản thân họ mà rất ít có cơ hội phát triển, cải
thiện tài sản con người.
nữ Di cư trong nước:
30| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Phần 3:
LAO ĐỘNG NỮ DI CƯ:
LỰC ĐẨY VÀ LỰC HÚT
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|31
LAO ĐỘNG NỮ DI CƯ:
LỰC ĐẨY VÀ LỰC HÚT
C
hương 3 tập trung vào các kết quả về động
cơ di cư. Để bao quát các yếu tố tác động
tới quyết định di cư của phụ nữ, báo cáo
sẽ tập trung phân tích hai nhóm chính gồm (i) yếu
tố lực đẩy – bắt nguồn từ nơi xuất cư và cá nhân
người phụ nữ; và (ii) yếu tố lực hút – liên quan
đến điều kiện kinh tế-xã hội của nơi đến. Trong
thực tế, quyết định di cư của lao động nữ là tổng
hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Phần lớn phụ
nữ di cư vì mục đích kinh tế, nhưng ngay cả vì
mục đích này thì cũng có sự tương tác giữa yếu
tố đẩy (ví dụ như do hạn chế về cơ hội việc làm,
thu nhập thấp ở nơi xuất cư) và yếu tố kéo (ví dụ
như do cầu lao động phổ thông tại nơi đến, cơ
hội có thu nhập cao hơn mức trung bình ở nông
thôn). Vì vậy, việc phân tách giữa nhóm yếu tố
đẩy và yếu tố kéo trong chương này chỉ để thuận
tiện cho phân tích.
3.1 Yếu tố lực đẩy với phụ nữ di cư
Các nghiên cứu về di cư trước đây không đưa ra
một cách phân loại thống nhất nào về nhóm yếu tố
‘lực đẩy’. Trong báo cáo này, việc xác định nhóm
‘lực đẩy’ gồm những yếu tố nào xuất phát từ kết quả
khảo sát thực tế. Theo đó, các yếu tố ‘lực đẩy’ tác
động đến quyết định di cư của phụ nữ gồm các yếu
tố liên quan đến (i) thị trường lao động nơi xuất cư;
và (ii) hoàn cảnh gia đình của nữ lao động di cư.
3.1.1 Lực đẩy từ thị trường lao động nơi xuất cư
Như đã phân tích trong Chương 2, đối tượng
phụ nữ lao động di cư ở địa bàn khảo sát chủ
yếu đến từ các vùng nông thôn. Kết quả khảo sát
cho thấy những hạn chế của thị trường lao động
nông thôn nơi xuất cư là một yếu tố lực đẩy cơ
bản với những phụ nữ di cư thuộc dạng này.6
Hầu hết các nghiên cứu về công cuộc Đổi mới ở
Việt Nam đều thừa nhận vai trò quan trọng của
nông nghiệp trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
giảm nghèo. Phạm và cộng sự (2009) chỉ rõ vai trò
của nông nghiệp đối với tạo việc làm cho lực lượng
lao động trẻ, tăng trưởng nhanh của Việt Nam. Tuy
nhiên, cũng như trong báo cáo của Van de Walle
và Cratty (2003) hay WB (2006), Phạm và cộng sự
(2009) chỉ ra vai trò ngày càng giảm của khu vực
nông nghiệp đối với tạo việc làm. Sử dụng số liệu
tổng hợp từ các cuộc Điều tra MSHGĐ trong giai
đoạn 1993-2008, kết quả tính toán cho thấy vào đầu
thập kỷ 1990, nông nghiệp tạo ra khoảng 80% lượng
6
Kết quả phân tích trong mục 3.1.1 này chủ
yếu áp dụng cho đối tượng phụ nữ di cư từ nông thôn
đến thành thị (chiềm 71,3% mẫu khảo sát). Ở một góc
độ nhất định, những phân tích này cũng đúng đối với
đối tượng phụ nữ di cư từ thị xã/thị trấn ra các thành
phổ trong điện khảo sát (chiếm 18,5% mẫu khảo sát).
Bảng 3. 1. Tìm việc trong thời gian nông nhàn (%)
% đồng ý
Trung bình
56,4
Địa điểm
Hải Phòng
58,9
Quảng Ninh
56,6
TP Hồ Chí Minh
53,5
Công nhân
56,1
Tự do
56,7
Nghề nghiệp
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước, 2011
nữ Di cư trong nước:
32| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|33
việc làm cho lao động nông thôn. Đến năm 2008, tỷ
lệ này giảm xuống còn gần 58%. Thay vào đó, lao
động ở nông thôn, nhất là lao động trẻ hoặc phải
tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn hoặc
phải di cư đến các khu vực đô thị để tìm kiếm việc
làm. Đồng quan điểm trên, một số báo cáo nghiên
cứu về lịch sử di dân tại Việt Nam cũng ghi nhận
xu hướng lao động dịch chuyển từ sản xuất nông
nghiệp, sản phẩm truyền thống sang các khu vực
sản xuất công nghiệp hóa và dịch vụ, tạo ra luồng di
cư theo cấp số nhân tới các khu vực thành thị phát
triển có nhiều việc làm (UN Việt Nam, 2010a).
Bên cạnh đó, trong nhiều nghiên cứu gần đây, xu
hướng di cư này còn được giải thích là nguyên do
của sự tìm việc làm phi nông nghiệp trong thời gian
“nông nhàn” (UN Việt Nam, 2010a). Bên cạnh đó,
theo số liệu thống kê chính thức thì gần 30% lao
động ở nông thôn Việt Nam ở trong tình trạng có
việc làm không đầy đủ (được định nghĩa là mặc dù
có việc nhưng làm việc dưới 30 giờ một tuần). Tình
trạng ‘nông nhàn’ và có việc làm không đầy đủ ở
nông thôn có thể là nguyên nhân quan trọng dẫn
đến quyết định di cư, đặc biệt là trong ngắn hạn. Kết
quả khảo sát trong nghiên cứu này cũng khẳng định
đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến quyết
định di cư. Bảng 3.1 cho thấy 56,4% phụ nữ di cư từ
nông thôn đến địa bàn khảo sát xuất phát từ động
cơ tìm việc làm trong thời gian ‘nông nhàn’ để bổ
sung thu nhập cho hộ gia đình.
Hộp 3. 1. Nông nhàn, không có việc làm và sự chán nản
“Lúc đầu là em chỉ muốn đi vì ở nhà mình làm nghề nông rảnh rỗi” (PVS 1.7, công nhân, 21 tuổi)7
“Quê nghèo không có việc gì để làm, ở nhà làm nông nghiệp phụ giúp mẹ, nhưng thấy buồn và chán
vì nhiều thời gian rỗi không có việc gì để làm lại không có tiền tiêu” (PVS 1.9, công nhân, 25 tuổi)
“Trong đó có các doanh nghiệp liên doanh với ngước ngoài, sản xuất đồ chơi, kéo theo rất nhiều
lao động tự do, làm công nhân thời vụ chủ yếu là công nhân nữ. Họ di cư ra thành phố theo mùa
vụ, hết việc họ lại về” (TLN, Cán bộ phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, Hải Phòng).
“Gia đình khó khăn nhà có 3 chị em, gia đình làm nông nghiệp, ở nhà khó khăn, làm ruộng, ngoài
ngày vụ thì không có việc gì để làm” (PVS 1.12, công nhân, 18 tuổi)
“Đầu năm vào tháng 2 tháng 3 thời gian này ở quê không có nhiều việc. Nhóm nhập cư theo thời
vụ, đơn hàng ít, công nhân giảm trong một tháng họ đã về” (TLN, cán bộ phường Hải Thanh,
Quận Dương Kinh, Hải Phòng)
Nguồn: Điều tra Phụ nữ và Di cư trong nước, 2011
7
Để đảm bảo tính bảo mật của thông tin phỏng vấn, các ý kiến phỏng vấn hoặc từ các cuộc thảo luận nhóm
trích dẫn trong báo cáo này không nêu tên của người đưa ra ý kiến và địa điểm phỏng vấn. Thay vào đó, chúng tôi
đánh số hiệu cho các phiếu kết quả phỏng vấn theo ký hiệu thống nhất trong cơ sở dữ liệu khảo sát.
nữ Di cư trong nước:
34| Phụ
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
Kết quả khảo sát định tính cũng khẳng định khó
khăn trong tìm kiếm việc làm ở nông thôn, tình
trạng ‘nông nhàn’ kéo dài cũng là những lý do
phổ biến dẫn đến quyết định di cư của phụ nữ
từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm việc làm.
Hộp 3.1 trên đây ghi nhận một số ý kiến khá phổ
biến ghi nhận được trong quá trình Điều tra lý do
này. Có rất nhiều ý kiến từ phụ nữ di cư và cả
từ phía cán bộ chính quyền tại nơi đến. Trong
số những đối tượng này, những đối tượng quyết
định di cư vì lý do “nông nhàn” thường tìm kiếm
các công việc trong ngắn hạn. Nhưng đối với
phụ nữ di cư vì lý do khó khăn trong tìm việc làm
tại nông thôn thì thường có xu hướng tìm việc
làm trong khoảng thời gian dài hơn. Đáng tiếc
là quy mô khảo sát nhỏ trong nghiên cứu này
không cho phép sự so sánh sâu hơn giữa hai đối
tượng trên. Trong thực tế, di cư ngắn hạn trong
giai đoạn “nông nhàn” chỉ mang tính tạm thời và
đối tượng di cư theo dạng này có thể không phải
là đối tượng di cư chính cần hỗ trợ. Trong khi đó,
những phụ nữ di cư trong thời gian dài hơn mới
là những đối tượng chịu những bất lợi đáng kể
trong công việc và sinh hoạt tại nơi đến, nên sẽ là
đối tượng trọng tâm cần phải có những can thiệp
về chính sách (trong tương lai).
Trong điều kiện có những khó khăn trong tìm kiếm
cơ hội công việc ngoài nông nghiệp ở nông thôn,
một bất lợi đáng kể khác với lực lượng lao động
ở nông thôn là hầu hết mới chỉ tốt nghiệp phổ
thông và không được đào tạo nghề. Trong thực
tế, khả năng tiếp cận của thanh niên nông thôn,
đặc biệt là phụ nữ, đối với các loại hình đào tạo
nghề còn rất thấp. Đề án “Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020” theo Nghị định
1956/QĐ-TTg đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt thực hiện trong thời gian hai năm trở
lại đây nhưng do thời gian triển khai còn ngắn, lại
gặp khá nhiều vướng mắc trong thực hiện nên
kết quả mới chỉ là bước đầu. Điều đáng lo ngại
là xuất hiện tình trạng đào tạo nghề chưa gắn
được với yêu cầu của thị trường lao động. Theo
kết quả khảo sát được trình bày trong Bảng 3.2
cho thấy trung bình 39,4% phụ nữ lao động di cư
cho biết địa phương họ có một số chương trình
đào tạo nghề nhưng không phù hợp với tình hình
thực tế tại địa phương nên một số lao động đã
được đào tạo (dù còn ít) nhưng không tìm được
việc làm tại nông thôn nên phải chuyển sang các
khu vực khác để tìm kiếm việc làm. Tỷ lệ này cao
nhất đối với nhóm phụ nữ di cư được khảo sát
tại Hải Phòng (gần 54,2%), trong khi đó khoảng
1/3 nhóm phụ nữ di cư tại nơi đến là Quảng Ninh
và TP HCM cho biết đào tạo nghề tại nơi xuất cư
chưa phù hợp và vì vậy chưa giúp lao động tìm
được việc làm.
3.1.2 Lực đẩy từ hoàn cảnh gia đình
Yếu tố gia đình luôn luôn là một tác nhân quan
trọng ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới chiến lược
di cư của phụ nữ. Ở khía cạnh này, các vấn đề gia
đình vừa có thể là yếu tố lực đẩy, vừa có thể là yếu
tố lực hút. Trong mục này, các vấn đề liên quan đến
hoàn cảnh gia đình như điều kiện kinh tế khó khăn;
gia đình đông người nhưng không có nhiều người
có khả năng lao động; gia đình có người đau ốm,
tàn tật không có khả năng lao động là những yếu
tố lực đẩy phổ biến liên quan đến hoàn cảnh gia
đình dẫn đến quyết định di cư. Theo kết quả khảo
sát thực tế, điều kiện kinh tế gia đình gặp khó khăn
được xem là một trong những nguyên nhân chính
thúc đẩy phụ nữ phải di cư để tìm kiếm việc làm
và tạo thu nhập bổ sung cho gia đình. Có rất nhiều
hoàn cảnh cụ thể dẫn đến những khó khăn về kinh
tế được ghi nhận trong quá trình thực hiện khảo
sát định tính. Hộp 3.2 dưới đây tóm tắt một số ghi
nhận phổ biến nhất về khó khăn trong hoàn cảnh
gia đình dẫn đến quyết định di cư.
Phụ nữ Di cư trong nước:
Hành trình Gian nan Tìm kiếm Cơ hội
|35