Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài nghiên cứu khoa học vai trò của an sinh xã hội đối với người cao tuổi...

Tài liệu đề tài nghiên cứu khoa học vai trò của an sinh xã hội đối với người cao tuổi

.PDF
22
413
113

Mô tả:

1. Lí do chọn đề tài. Ở Việt Nam, ASXH là một trong những trụ cột cơ bản trong hệ thống các chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng. ASXH là nhân tố đảm bảo công bằng xã hội. Thực tiễn phát triển đã cho thấy ASXH có vai trò rất lớn trong việc khắc phục những hệ lụy của phân hóa xã hội, tăng cường gắn kết xã hội, sự đồng thuận và đảm bảo ổn định chính trị. Như chúng ta đều biết, đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, chúng ta hướng mục tiêu trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa để có thể sánh vai với các nước phát triển trên thế giới. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế - xã hội thì chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nảy sinh từ mặt trái của quá trình phát triển kinh tế - xã hội như phân tầng xã hội, quá trình đô thị hóa không đồng bộ, môi trường bị xuống cấp, thất nghiệp, tệ nạn ma túy,người già neo đơn... Dân số nước ta ngày càng già đi, quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh chóng kéo theo đó là số lượng người cao tuổi ngày càng tăng lên gây sực ép đối với nền kinh tê - xã hội. Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng em đã chọn đề tài: "Vai trò của ASXH đối với người cao tuổi " để làm đề tài nghiên cứu, từ đó đưa ra thực trạng, nguyên nhân của công tác ASXH đối với người cao tuổi và từ đó đưa ra giải pháp phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người cao tuổi có cuộc sống ổn định và tốt đẹp hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu . Nghiên cứu vai trò của ASXH đối với người cao tuổi để hiểu biết, xem xét,đánh giá, nhận xét, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác ASXH đối với cộng đồng nói chung và người cao tuổi nói riêng. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Phân tích cơ sở lí luận thực tiễn về ASXH và vai trò của ASXH đối với người cao tuổi. - Nêu và phân tích thực trạng ASXH đối với người cao tuổi. - Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác ASXH đối với người lao động. 4. Phạm vi nghiên cứu. Do thời gian có hạn nên nhóm tập trung vào nghiên cứu vai trò của ASXH đối với người cao tuổi ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp thu thập thông tin. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp so sánh phân tích. 6. Ý nghĩa, đóng góp của đề tài. - Về lí luận: Vấn đề nghiên cứu giúp chúng ta hiểu biết về ASXH nói chung và tầm quan trọng của ASXH đối với các đối tượng trong xã hội và người cao tuổi nói riêng. - Về thực tiễn: Vấn đề giúp chúng ta nhận thấy rõ thực trạng về công tác ASXH đói với người cao tuổi hiện nay, nguyên nhân do đâu để từ đó đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện hơn về công tác ASXH đối với người cao tuổi, đảm bảo cuộc sống cho người cao tuổi. 7. Kết cấu của đề tài. Chương 1: Tổng quan về vai trò của an sinh xã hội đối với người cao tuổi Chương 2: Thực trạng vai trò an sinh xã hội đối với người cao tuổi Chương 3: Giải pháp nâng cao vai trò của asxh đối với người cao tuổi Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI 1.1. Một số khái niệm có liên quan 1.1.1.Khái niệm An sinh xã hội Theo tổ chức LĐQT (ILO) : ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong ; sự cung cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền trợ cấp giúp cho các gia đình đông con. Hiện nay ASXH được hiểu là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình không may lâm vào hoàn cảnh yếu thế trong xã hội thông qua biện pháp cân đối lại tiền bạc và của cải xã hội. Bản chất của ASXH là tạo ra mạng lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay khi gặp những rủi ro xã hội khác. Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội do đó vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội và nhân đạo sâu sắc. 1.1.2. Khái niệm về người cao tuổi Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi. Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn liền với việc suy giảm các chức năng của cơ thể Theo WHO: Người cao tuổi phải từ 70 tuổi trở lên. Một số nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ… lại quy định người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện về già của người dân ở các nước đó khác nhau. Những nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của người dân cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi già thường đến muộn hơn. Vì vậy, quy định về tuổi của các nước đó cũng khác nhau. Về mặt pháp luật: Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2010 quy định: Người cao tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”. Theo luật lao động: Người cao tuổi là những người từ 60 tuổi trở lên (với nam), từ 55 tuổi trở lên (với nữ) Tuy nhiên quan niệm này có thể thay đổi theo thời gian khi điều kiện về kinh tế và tuổi thọ trung bình thay đổi. 1.1.1 Một số khái niệm có liên quan. - Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. - Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiềm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe không vì lợi ích lợi nhuận do nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng đóng góp theo quy định của bảo hiểm y tế. - Trợ cấp xã hội là sự giúp đỡ thêm của nhà nước dành cho các nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nhằm hướng tới bảo đảm các nhu cầu tối thiểu giúp họ phát huy được khả năng tự lo liệu cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ 1.4 Sự cần thiết của An sinh xã hội đối với người cao tuổi Thứ nhất, Tỷ lệ người cao tuổi ngày càng gia tăng tạo nên gánh nặng cho quỹ hưu trí. Khi dân số cao tuổi chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số cũng đồng nghĩa với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có xu hướng giảm đi và số người sau 60 tuổi sẽ tăng lên và sống lâu hơn. Như vậy, số người làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ có xu hướng giảm đi và số người thụ hưởng sẽ có xu hướng gia tăng. Điều này ở một khía cạnh nào cũng sẽ tạo ra “gánh nặng” cho quỹ hưu trí quốc gia khi phải chi trả lương hưu nhiều hơn và dài thời gian hơn, trong khi đó số người đóng góp có xu hướng giảm đi tương đối so với số người thụ hưởng (do hệ quả của mức sinh thấp. Thứ hai, Chi phí y tế dành cho người cao tuổi cao Theo quy luật chung, tuổi càng cao, sức khỏe càng giảm. Dù muốn hay không, con người vẫn đối mặt với tình trạng bệnh tật, sức khỏe của mình khi tuổi ngày càng cao trong vòng đời Sinh- Lão- Bệnh- Tử. Khi đã ngoài 60 tuổi, quá trình đồng hóa giảm đi, quá trình dị hóa tăng lên, quá trình lão hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, đồng thời phát sinh những loại bệnh tật đặc trưng của tuổi già. Mặc dù, nhờ những thành tựu trong phát triển kinh tế cũng như trong tiến bộ của y học, nhưng cơ cấu bệnh tật của dân số nước ta nói chung và của người cao tuổi nói riêng đang chuyển dần từ mô hình bệnh tật của những nước đang phát triển sang của nước phát triển. Cơ cấu bệnh tật hiện nay của nước ta chuyển từ không nhiễm trùng, không lây nhiễm sang các bệnh chủ yếu như cao huyết áp, đột quỵ, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa… (Giang Thanh Long, 2011). Như vậy, cùng với tuổi tác, cơ cấu chi tiêu của người cao tuổi đã thay đổi nhiều, chi phí cho khám, chữa bệnh có xu hướng tăng lên. Người già lại hay bị những loại bệnh đòi hỏi chi phí y tế cao như huyết áp, đột quỵ, tim mạch…Theo PGS-TS Phạm Thắng- Viện Lão khoa quốc gia, nhu cầu chăm sóc người cao tuổi (y tế, xã hội, tài chính) sẽ là một thách thức lớn đối với xã hội và gia đình. Người cao tuổi có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn, trong khi chi phí cho đối tượng này cũng cao gấp 7-8 lần so với trẻ em. Chi phí này hoặc là gia đình phải tự chi hoặc là hệ thống BHYT chi trả (đối với những người tham gia BHXH hoặc đối tượng thụ hưởng BHXH, BHYT). Thứ ba, Tỷ lệ hưởng BHXH hưu trí của những người cao tuổi ở khu vực nông thôn còn thấp. Đối với một nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam, cho đến nay, về cơ bản nước ta vẫn là nước nông nghiệp với trên 70% số dân và cũng khoảng 70% số lao động đang sống ở và lao động ở nông thôn, trong đó khoảng 50% làm các nghề nông nghiệp. Trong khi đó số lao động tham gia hệ thống BHXH chỉ chiếm khoảng 10% -20% tổng lực lượng lao động và chủ yếu ở khu vực thành thị. Như vậy, đa số người lao động nông thôn khi trở thành người cao tuổi (60 tuổi trở lên) sẽ không được hưởng lương hưu từ hệ thống BHXH. Để tiếp tục cuộc sống, những người cao tuổi này buộc phải tự lao động kiếm sống hoặc nhờ sự hỗ trợ của con cháu, hoặc nhờ sự trợ giúp của cộng đồng. Thứ tư, nước ta trải qua các cuộc chiến tranh kéo dài với rất nhiều thế hệ người lính phải sống và chiến đấu ở những vùng ác liệt, nhiều nơi bị nhiễm chất độc da cam… Đến nay, đa phần họ đã thuộc nhóm người cao tuổi. Ngoài những loại bệnh của người già, không ít trong số họ mắc những bệnh đặc trưng của chiến tranh, trong khi đó, đa phần trong số họ sau chiến tranh về quê nhà sinh sống, họ không có lương hưu. Điều này, đòi hỏi cần có những chính sách ASXH đặc thù cho nhóm người này. Thứ năm,Người lao động ở Việt Nam “ già khi chưa giàu” Cũng là đặc thù của nền kinh tế Việt Nam khi thu nhập của người lao động thấp, thu nhập chỉ đủ trang trải (thậm chí không đủ) cho những chi tiêu trước mắt, không có và không thể có cho tích tũy trong tương lai. Điều này là nguy cơ tiềm năng khi người lao động không làm việc được nữa, họ sẽ không có khoản tích lũy để chi dùng khi trở thành người cao tuổi. Một số nhà phân tích đã nêu, người lao động Việt Nam “già khi chưa giàu”. Đối với một người “già khi chưa giàu” sẽ tạo áp lực cho con cái, nhưng đối với một xã hội “già hóa” và xã hội “già” thì áp lực này sẽ chuyển sang hệ thống ASXH. Qua những phân tích trên cho thấy giữa già hóa dân số, dân số già và ASXH có mối quan hệ “nhân- quả”. Điều này cho thấy, một mặt phải điều chỉnh chính sách dân số sao cho quá trình già hóa dân số diễn ra chậm hơn và quá trình chuyển từ dân số già hóa sang dân số già diễn ra với thời gian lâu hơn; mặt khác, cần phải có chiến lược ASXH ứng phó phù hợp. Chính sách ASXH đối với người cao tuổi không nên chung cho mọi nhóm bởi người cao tuổi không phải là nhóm dân số đồng nhất. Người cao tuổi cũng có người giàu, người nghèo; có người khỏe mạnh và người ốm yếu; có người được sống cùng con cháu, nhưng có người chỉ sống một mình… Vì vậy, nên phân nhóm đối tượng để có chính sách ASXH ứng phó phù hợp. Phải xây dựng và phát triển các dịch vụ xã hội đối với người cao tuổi, đặc biệt là đối với người cao tuổi ở nông thôn. BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân là hướng đi và là giải pháp tích cực, chủ động trong chính sách ASXH của mỗi quốc gia. Sinh- Lão– Bệnh– Tử là quy luật của cuộc sống loài người. Ai sinh ra rồi cũng phải già và chết. Do vậy, ASXH đối với người cao tuổi hiện tại cũng chính là đảm bảo ASXH tương lai cho người lao động hiện tại. Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI 2.1 Thực trạng An sinh xã hội đối với người cao tuổi trên Thế giới. Theo thống kê, thế giới hiện có 497 triệu, chiếm gần 2/3 NCT sống ở các nước nghèo và khoảng hơn 180 triệu người sống trong cảnh nghèo khó. Theo dự báo, đến năm 2045, số người trên 60 tuổi trên thế giới sẽ nhiều hơn số trẻ em dưới 14 tuổi. Ở các nước trung bình và kém phát triển, hơn 50% người trên 60 tuổi vẫn làm việc, chủ yếu ở các thành phần phi chính thức. Thế giới cũng đang chứng kiến ¾ người cao tuổi sống trong các khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai và biến đổi khí hậu; 2/3 số NCT bị bệnh kinh niên sống ở các nước tủng binh và kém phát triển. Ở nhiều nước Châu Phi, NCT là người chắm sóc chủ yếu đối với 40% người bị HIV/AIDS hoặc trẻ em bị mồ côi do AIDS. Trong những thế kỷ qua, sự gia tăng người cao tuổi trong tổng số dân số toàn cầu là vấn đề đáng quan tâm. Trong thế kỷ này, nó đặt ra những thách thức lớn nhưng cũng không ít cơ hội. Hàng triệu người cao tuổi ở các nước phát triển trung bình và thu nhập thấp đang đối mặt với những vấn đề về nghèo đói và bệnh tật. Tuy vậy, các chính sách phát triển quốc tế và các hoạt động thường không bao gồm người cao tuổi. Chương trình phát triển Thiên niên kỷ không trực tiếp liên quan đến tuổi già. Trong khi cam kết giảm tỷ lệ người cực nghèo xuống 50% vào năm 2015, người cao tuổi hầu như dùng lại ở nửa còn lại của người nghèo. Khi nói về chăm sóc sức khoẻ, người cao tuổi vừa là người tự chăm sóc mình, lại vừa là những người chăm sóc người khác. Sự gia tăng “người cao tuổi già” là thách thức lớn, đặc biệt đối với gia đình và cộng đồng. Đồng thời, nhiều người cao tuổi phải chăm sóc cháu do bố mẹ các em ra thành thị làm việc kiếm tiền hoăc bệnh tật-chết do HIV/AIDS hay các bệnh liên quan. Ở các nước có thu nhập trung bình và thấp, hàng triệu người cao tuổi sống dưới mức nghèo đói, phần lớn họ không có nghỉ hưu. Họ không có cả lương hưu tối thiểu, phải làm việc để đảm bảo cuộc sống và thường làm những công việc không an toàn, được trả công thấp đến khi họ không thể làm việc được nữa hoặc bệnh tật, ốm đau. Những người không làm việc được phải sống trong cảnh bần cùng. Khủng hoảng kinh tế thế giới, dẫn đến sự tăng giá cả sinh hoạt, thức ăn, giao thông và nhà ở…làm tồi tệ thêm cuộc sống của họ. Các hộ gia đình nghèo ảnh hưởng nhiều nhất đến người già và trẻ em trong gia đình. Những người cao tuổi trong gia đình phải chăm sóc trẻ em mà cha mẹ các em di cư ra thành thị kiếm tiền. Những người cao tuổi ở các nước có thu nhập trung bình và thấp không có cơ hội cải thiện cuộc sống. Vai trò của họ đối với gia đình và cộng đồng thường không được biết đến và đánh giá đúng mức. Đặc biệt, đối với những người sống ở các địa phương nghèo hoặc bị tác động xấu của môi trường thường có nguy cơ cao chịu ảnh hưởng của các cuộc xung đột hoặc các nguyên nhân khác về chính trị, môi trường không ổn định tạo ra sự thiếu an toàn cho họ. 2.2 Vai trò của an sinh xã hội đối với người cao tuổi ở Việt Nam. 2.2.1 Thực trạng. Hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi ở Việt Nam đã được mở rộng trong những năm vừa qua. Cho đến nay đã có nhiều chính sách, chương trình dành cho người cao tuổi theo các nhóm đối tượng khác nhau, nhưng tập trung lại thì có các nhóm chính sách về bảo hiểm xã hội (cụ thể là hưu trí và tử tuất), bảo hiểm y tế và trợ cấp xã hội.  Về hệ thống BHXH (hưu trí và tử tuất) Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn “già hóa dân số” với tỷ lệ người cao tuổi (NCT) từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% dân số. Trong bối cảnh đó, tuổi thọ của người dân được nâng cao, tiềm lực kinh tế của đất nước được cải thiện, chế độ trợ giúp thường xuyên cho NCT cũng được điều chỉnh, bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, hướng đến mục tiêu bù đắp để đảm bảo mức sống tối thiểu cho đối tượng. Theo dự báo dân số của Tổng cục Thống kê (GSO) cho thấy dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ chưa từng có. Số người cao tuổi sẽ tăng gấp ba vào năm 2050 và như vậy sẽ tăng từ 9% đến 26% dân số. Với mức lương hưu hiện nay là rất thấp, phần lớn người cao tuổi đều sống dựa vào người thân trong gia đình. Ngay từ những năm 1960, chính phủ đã xây dựng hệ thống bảo hiểm BHXH cho người lao động, đặc biệt là bảo hiểm hưu trí, để đảm bảo cuộc sống của họ khi về già yếu, hết tuổi lao động. Sau hơn 40 năm, hệ thống hưu trí đã có sự thay đổi đáng kể để phù hợp với sự biến đổi kinh tế, xã hội, đặc biệt là sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp của chính phủ sang cơ chế đóng góp của người lao động. Đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành cho các chế độ BHXH nhưng văn bản cao nhất là Luật Bảo hiểm Xã hội đã được Quốc hội thông qua ngày 26/9/2006 và chính thức có hiệu lực từ 1/1/2007. Sau khi có sự ra đời của Luật BHXH, hàng loạt các văn bản khác cũng được ban hành để triển khai thực hiện Luật, nhằm đảm bảo hiệu quả thực thi các chế độ BHXH cho các đối tượng, trong đó có người cao tuổi, như Nghị định 68/2007/ NĐ-CP ngày 19/4/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một điều Luật BHXH; Nghị định số 184/2007/ NĐ-CP ngày 17/12/2007 của Chính phủ về việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc; Nghị định số 83/2008/NĐ-CP ngày 31/07/2008 của Chính phủ về việc điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH đối với người lao động thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định… Tất cả những chính sách đó nhằm khuyến khích sự tham gia của người lao động đối với hệ thống BHXH và đảm bảo đời sống cho các đối tượng thụ hưởng, trong đó có người cao tuổi. Mặt khác, trong xu thế phát triển chung, số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội bắt buộc tiếp tục tăng nhanh. Điều này có nghĩa là số NCT có lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng cũng tăng nhanh trong những năm tới đây (số người nghỉ hưởng chế độ hưu trí từ nguồn quỹ bảo hiểm xã hội tăng từ 596,4 ngàn người năm 2006 lên trên 1 triệu người năm 2011). Thực tế này góp phần làm giảm gánh nặng ngân sách chi thực hiện an sinh xã hội cho NCT và tạo điều kiện để mở rộng đối tượng là NCT được hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng với mức chuẩn trợ cấp ngày càng đảm bảo hơn cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của họ. Trong các chế độ BHXH thì chế độ hưu trí là chế độ an sinh xã hội dài hạn, có tác động mạnh nhất đến hệ thống BHXH về mặt tài chính. Theo quy định hiện nay, nam giới từ 60 tuổi trở lên và nữ giới từ 55 tuổi trở lên có thể nhận lương hưu khi thỏa mãn một số điều kiện về thời gian đóng góp. Hệ thống hưu trí của Việt Nam hiện nay vận hành theo cơ chế thực thanh thực chi với mức hưởng được xác định trước (PAYG DB). Tuy nhiên, với việc thiết kế và thực hiện như hiện nay, hệ thống hưu trí Việt Nam sẽ không đáp ứng được các tiêu chí về bền vững tài chính và công bằng trong điều kiện dân số già hóa, thậm chí người cao tuổi có thể không được đảm bảo an ninh thu nhập từ hệ thống hưu trí này.  Về hệ thống Bảo hiểm y tế. Văn bản pháp lý đầu tiên quy định về BHYT của Việt Nam là Nghị định 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban kèm theo Điều lệ BHYT và sau đó Nghị định này được thay bằng Nghị định 58/1998/NĐ-CP nhằm điều chỉnh một số quy định cho phù hợp với những thay đổi kinh tế-xã hội. Trong quá trình đó, Chính phủ cũng ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật cụ thể khác có liên quan đến chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thông qua BHYT như Nghị định số 95/CP ngày 27/8/1994 với quy định người già cô đơn thuộc diện trợ cấp xã hội được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế và không phải trả tiền khi khám chữa bệnh tại các cơ sở công lập, hoặc chỉ trả một phần viện phí do cơ quan bảo hiểm y tế trả cho cơ sở khám chữa bệnh; Pháp lệnh Người cao tuổi ngày 28/4/2000 quy định rõ việc khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa và không có nguồn thu nhập; Nghị định 30/2002/NĐ- CP ngày 26/3/2002 quy định người cao tuổi trên 100 tuổi được cấp thẻ BHYT mệnh giá 50.000 đồng hoặc được khám chữa bệnh miễn phí theo phương pháp thực thanh thực chi; Quyết định 139/2002/QĐTTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về khám chữa bệnh cho người nghèo là đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội theo Nghị định 07/2000/NĐ-CP, trong đó có người cao tuổi; Khoản 9, Điều 3 của Nghị định 63/2005/ NĐ-CP ngày 16/5/2005 quy định rõ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa, thuộc hộ nghèo là một trong 14 nhóm đối tượng tham gia BHYT bắt buộc… Luật Bảo hiểm Y tế - là văn bản pháp luật cao nhất về bảo hiểm y tế - được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14/11/2008 có quy định một số điều liên quan đến các đối tượng ưu tiên BHYT, trong đó có người cao tuổi.  Về hệ thống trợ cấp xã hội. Trong những năm qua, tuổi để hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đối với NCT từng bước được điều chỉnh. Nếu năm 2007 thực hiện theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP, quy định người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội được hưởng mức 120.000 đồng/tháng thì giai đoạn 20072009 bình quân hàng năm Nhà nước đã trợ cấp cho hơn 600 ngàn NCT. Từ năm 2010, thực hiện Nghị định số 13/2010/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 67/2007 NĐCP đã nâng mức chuẩn trợ cấp lên 180.000 đồng/tháng, tuy không điều chỉnh độ tuổi nhưng tổng số NCT được hưởng đã tăng lên 948 ngàn người. Đặc biệt, kể từ khi Luật Người cao tuổi có hiệu lực (01/7/2010) và Nghị định số 06/2011/NĐCP hướng dẫn thực hiện Luật được ban hành đã quy định điều chỉnh giảm độ tuổi hưởng trợ cấp xuống 80 tuổi (mặc dù không tăng mức chuẩn trợ cấp) thì cả nước đã có hơn 1,3 triệu NCT được hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng. Đến nay, Nghị định số 136/2013/NĐ-CP đã ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 đã tăng mức trợ cấp lên 270.000đ/tháng nhưng do điều kiện kinh tếxã hội, ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn nên bắt đầu từ ngày 1/1/2015, việc tăng mức trợ cấp lên 270.000 đồng/tháng mới được triển khai áp dụng đối với nhóm hộ nghèo. Việc thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng đã góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của NCT, nhất là những NCT có hoàn cảnh khó khăn. Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, một số địa phương có điều kiện ngân sách đã nâng mức trợ cấp xã hội lên cao hơn mức quy định chung của Nhà nước như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Quảng Ninh, Bà Rịa- Vũng Tàu. Riêng tỉnh Bắc Ninh đã hạ tuổi hưởng chế độ trợ cấp xuống tuổi 75 để NCT từ 75-79 được hưởng mức trợ cấp bằng 50% so với mức trợ cấp qui định chung. Đây có thể coi là những bước đi thử nghiệm để tiếp tục thực hiện mở rộng đối tượng hưởng để phù hợp với xu hướng già hóa dân số và khả năng ngân sách của Nhà nước, hướng đến mục tiêu bảo đảm mức sống tối thiểu cho mọi NCT trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, trong những năm qua, chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng đối với NCT luôn được coi là một trong những chính sách cơ bản của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu tiếp tục chuyển đổi và hoàn thiện thể chế kinh tế, sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, quá trình phân hóa giàu nghèo, già hóa dân số, biến đổi khí hậu ảnh hưởng nặng nề đến đời sống dân sinh, đặc biệt là NCT- thuộc nhóm yếu thế thì công tác bảo trợ xã hội, an sinh xã hội lại càng được quan tâm nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu về thu nhập, chăm sóc sức khỏe và các nhu cầu cơ bản. Đặc biệt, Luật Người cao tuổi được ban hành đã tạo điều kiện về cơ chế cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh việc chăm lo và phát huy vai trò của NCT 2.2.2 Nguyên nhân và những vấn đề tồn tại trong thực hiện chế độ cho người cao tuổi. Trong những năm gần đây, an sinh xã hôi đối với người cao tuổi được thực hiện khá tốt đã hình thành hệ thống chính sách khá toàn diện và đi vào thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của NCT. Nhờ đó, công tác người cao tuổi được triển khai thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, tạo sự thống nhất trong thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với người cao tuổi. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay, một số chính sách đã không còn phù hợp, còn nhiều vướng mắc và vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện như:  Bảo hiểm xã hội. - Sự phân biệt về giới tính và khu vực kinh tế giữa những người tham gia hệ thống hưu trí và điều này sẽ dẫn đến bất công bằng về đóng và hưởng giữa nam giới và nữ giới, giữa người làm việc trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2007) cho thấy, cả nam giới và nữ giới làm việc trong khu vực nhà nước sẽ có mức hưởng bình quân cao hơn đáng kể so với những người làm việc trong khu vực ngoài nhà nước dù họ có cùng thời gian tham gia và cùng mức đóng góp cho hệ thống . Cụ thể, nghiên cứu này cho rằng lao động nữ và nam khu vực ngoài nhà nước chỉ nên đóng góp cho hệ thống tương ứng khoảng 22 năm và 28 năm thì sẽ nhận được mức hưởng cao nhất vì sau đó tỷ lệ hưởng tăng thêm cho mỗi năm đóng góp vào hệ thống sẽ giảm dần. Chính vì lý do này mà hiện nay mức hưởng giữa những người về hưu ở các ngành và khu vực khác nhau có sự chênh lệch rất lớn. - Nguồn quỹ Bảo hiểm xã hội chưa bền vững. Việc vận hành hệ thống hưu trí theo cơ chế tài chính thực thanh thực chi với mức hưởng được xác định trước (PAYG DB) đang tạo ra những nguy cơ thâm hụt nặng nề cho quỹ bảo hiểm xã hội khi dân số ngày càng già hóa, nhưng các chính sách điều chỉnh còn rất chậm và chỉ mang tính giải quyết tình thế như tăng mức đóng góp, mở rộng đối tượng bắt buộc tham gia... Những nghiên cứu gần đây (ví dụ, Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2006; Giang và Pfau, 2009c; Giản Thành Công và cộng sự, 2010) đều cho thấy những điều chỉnh chính sách đó không thể duy trì cân đối tài chính dài hạn cho hệ thống hưu trí Việt Nam. Ví dụ, dự báo nguyên trạng hệ thống của Giang và Pfau (2009c) theo phương pháp tiếp cận ngẫu nhiên7 cho thấy, với quy định và xu hướng tham gia như hiện nay, hệ thống hưu trí Việt Nam sẽ cạn kiệt tài chính vào năm 2052 với độ chệch là 4 năm và độ tin cậy là 90% . Quan trọng hơn, hệ thống hưu trí này còn có thể tạo ra một khoản nợ lương hưu tiềm ẩn lớn, tác động tiêu cực đến ngân sách nhà nước cũng như là gánh nặng đối với thế hệ lao động trong tương lai như phải chịu mức đóng góp cao. Tính toán của Giang Thanh Long (2013) và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2014) đều cho thấy, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, để cân bằng quỹ thì tỷ lệ đóng góp phải tăng từ 20% như hiện nay lên gần 35% trong vòng 20 năm tới. Đây là những thách thức đáng lo ngại, đòi hỏi phải chuyển đổi hệ thống hưu trí theo hướng công bằng, hiệu quả và bền vững tài chính. -Việc chậm điều chỉnh tuổi hưu theo sự gia tăng của tuổi thọ cũng như việc điều chỉnh bất cân đối giữa mức đóng và mức hưởng. Vấn đề này đang khiến cho nguy cơ người tham gia chỉ nhận được lương hưu một thời gian ngắn hơn nhiều so với dự kiến. Tính toán của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2014) cho thấy một người lao động đóng góp trong 30 năm chỉ tích lũy đủ để chi trả cho 8-10 năm khi nghỉ hưu, trong khi thời gian dự kiến được hưởng khoảng 19 năm. Đây là thách thức lớn không chỉ về cân đối quỹ hưu trí mà còn cả về an ninh thu nhập cho người cao tuổi. Sự chậm chạp thay đổi và các quy định, ràng buộc khắt khe khiến cho hệ thống bảo hiểm xã hội tự nguyện không thể hoạt động hiệu quả, mức ảnh hưởng ít và bao phủ một tỷ lệ không đáng kể dân số cao tuổi (MoLISA, 2014). Bên cạnh việc hạn chế về loại hình hưởng, chính sách và cách thức vận hành của hệ thống BHXH tự nguyện chỉ đơn giản là “bản sao” của hệ thống BHXH bắt buộc. Với một nước có thu nhập còn thấp và khu vực kinh tế phi chính thức còn lớn thì hệ thống BHXH tự nguyện sẽ là kênh chủ yếu để huy động sự tham gia của người lao động, nhằm đảm bảo đời sống kinh tế khi về già. Tuy nhiên, với các quy định như hiện nay, hệ thống BHXH tự nguyện của Việt Nam khó có thể thực hiện vai trò đó.  Bảo hiểm y tế - Chính sách viện phí đang tạo ra những khác biệt trong việc thanh toán một số dịch vụ như thủ thuật, phẫu thuật, vật tư tiêu hao… làm ảnh hưởng quyền lợi người bệnh BHYT, trong đó có người cao tuổi. Hệ thống y tế tuyến huyện thay đổi theo Nghị định 172 của Chính phủ khiến cho công tác khám chữa bệnh BHYT tại các trạm y tế trở nên khó khăn hơn khi mà các nguồn lực còn chậm thay đổi (Đàm Hữu Đắc và cộng sự, 2010). - Chính sách điều chỉnh còn chậm, chưa thiết thực nên phạm vi quyền lợi của người tham gia BHYT bị hạn chế, chi phí xã hội cao. Ví dụ, một số dịch vụ mang tính dự phòng, giúp chẩn đoán, điều trị sớm với lợi ích kinh tế và xã hội cao lại không có trong gói quyền lợi. Hình thức đồng chi trả đang tạo ra gánh nặng tài chính cho nhiều người cao tuổi có thu nhập thấp. Nghiên cứu điều tra của Đàm Hữu Đắc và cộng sự (2010) còn cho thấy người cao tuổi có thẻ BHYT khi đi khám bệnh thường đối mặt với nguy cơ bị “phân biệt đối xử” do các cơ sở khám chữa bệnh muốn tránh những thủ tục thanh toán rườm rà. - Việc tổ chức triển khai chính sách BHYT cho người cao tuổi còn nhiều hạn chế, trong đó nổi bật nhất là ở tuyến cơ sở với kinh phí thấp nên cơ sở vật chất nghèo nàn, hầu như không có cán bộ chuyên ngành lão khoa và sự tham gia rất hạn chế của các dịch vụ y tế tư nhân tại các địa phương. Chưa có nơi khám chữa bệnh riêng và chính sách riêng về khám chữa bệnh cho người cao tuổi. Việc phải di chuyển đến những trung tâm y tế hoặc bệnh viện để khám bệnh bằng thẻ BHYT đối với những người cao tuổi có sức khỏe kém là một thách thức lớn. Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính quan trọng là Quỹ khám chữa bệnh lại chưa được triển khai có hiệu quả do chất lượng dịch vụ y tế tuyến xã còn hạn chế, kiến thức về các vấn đề sức khỏe và chăm sóc sức khỏe của người dân còn chưa đầy đủ, và hạn chế trong các hoạt động truyền thông.  Trợ cấp xã hội - Cách thức xác định đối tượng còn mang tính chủ quan cao nên nhiều người cao tuổi đáng nhẽ phải là đối tượng được thụ hưởng trợ cấp thì lại bị loại bỏ khỏi danh sách. Ví dụ, cho đến nay, việc xác định đối tượng nghèo, hộ nghèo hoặc xã nghèo ở Việt Nam trong các chương trình, chính sách hỗ trợ xã hội đều dựa trên đường nghèo do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MoLISA) xây dựng. Ngưỡng nghèo của MoLISA được coi là mức thu nhập tham chiếu để quyết định mức hỗ trợ. Những hộ gia đình có mức thu nhập thấp hơn ngưỡng nghèo này thì được coi là đối tượng của các chương trình xã hội. Tuy nhiên, như nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2010) phân tích, ngưỡng nghèo của MoLISA đưa ra nhiều khi được xác định bởi sự sẵn có của ngân sách trung ương và địa phương chứ không dựa nhiều mức thu nhập có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Đây cũng là lý do mà chuẩn nghèo của MoLISA rất thấp so với những mức nghèo chuẩn được Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế sử dụng. - Có nhiều chính sách trợ cấp cho người cao tuổi nhưng còn rất manh mún và chưa có tác động thực sự đến việc cải thiện cuộc sống vốn đã rất khó khăn của người cao tuổi . Ví dụ, mức trợ cấp cho người cao tuổi nghèo, sống cô đơn không nơi nương tựa hiện nay chỉ là 180.000 đồng/tháng, trong khi giá cả tăng nhanh và các chi phí về y tế ngày càng lớn và họ hầu như không có nguồn thu nhập nào khác ngoài nguồn trợ cấp này. - Hình thức hỗ trợ nhiều khi không phù hợp với đối tượng người cao tuổi. Hình thức hỗ trợ bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật thường được áp dụng đại trà cho mọi đối tượng nên rất khó khăn cho một số đối tượng thụ hưởng vì lý do sức khỏe, đi lại… Ví dụ, trợ cấp lương thực cho người cao tuổi sống cô đơn, sức khỏe yếu không thể đi lại sẽ tốt hơn là trợ cấp bằng tiền mặt. - Chính sách về nguồn nhân lực hoạch định và thực hiện các chính sách trợ cấp xã hội còn chậm thay đổi, trong khi số đối tượng thụ hưởng ngày càng tăng lên. Do đó, cán bộ phụ trách rà soát đối tượng thụ hưởng khó có thể cập nhật tình hình cụ thể để xác minh chính xác đối tượng. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ cán bộ thực hiện và giám sát chương trình trợ cấp, đặc biệt ở những vùng có khó khăn điều kiện đi lại và hạ tầng thông tin yếu, lại rất hạn chế nên không tạo động lực cho họ trong việc cải thiện chất lượng công việc và đề xuất đổi mới. Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA ASXH ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI 3.1 Nhóm giải pháp về ASXH - ASXH phải có những điều chỉnh hợp lý trong thiết kế chế độ hưu, như tăng mức đóng góp hoặc tăng tuổi nghỉ hưu (kéo dài thời gian đóng góp hơn) hoặc tăng cả hai (vừa tăng mức đóng góp vừa tăng thời gian đóng góp BHXH). - Mở rộng đối tượng tham gia BHXH (hướng tới BHXH cho toàn bộ người lao động) sẽ là một trong những giải pháp để tăng quy mô quỹ hưu trí và tăng khả năng chi trả BHXH cho người thụ hưởng trong tương lai gần. Đồng thời, đòi hỏi phải điều chỉnh, thiết kế lại quỹ hưu trí. Mặt khác, cần khai thác khía cạnh tích cực của người cao tuổi. Khi có sự chăm sóc y tế tốt (ngay từ khi còn trẻ), người cao tuổi ( 60, 65 tuổi trở lên) vẫn còn khỏe mạnh và vẫn có thể tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình. - Vấn đề đặt ra trong hệ thống an sinh xã hội quốc gia là phải có chính sách việc làm phù hợp cho người cao tuổi, để họ vừa duy trì được sức khỏe vừa có được thu nhập. - Mở rộng, phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi với những nguồn nhân lực và tài lực nhất định. Do điều kiện kinh tế- xã hội ở nước ta, người cao tuổi ở Việt Nam có sức khỏe kém hơn so với những người cùng độ tuổi ở các nước phát triển. Nói cách khác, tuổi thọ khỏe mạnh của người cao tuổi Việt Nam thấp hơn so với nhiều nước, sống lâu nhưng không sống khỏe. Theo một số số liệu thống kê, tuổi thọ bình quân của người Việt Nam là 73 thì đã mất 12 năm ốm đau, bệnh tật. - Phát triển hệ thống trung tâm dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, khuyến khích các hoạt động khám chữa bệnh miễn phí cho người cao tuổi. Cần chú trọng xây dựng và phát triển mạng lưới chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho người cao tuổi dựa vào cộng đồng. - Phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động các cơ sở chăm sóc người cao tuổi cùng với việc khuyến khích hỗ trợ các hoạt động chăm sóc người cao tuổi ở gia đình, cộng đồng. Tiếp tục huy động tốt các nguồn lực xã hội để hỗ trợ giảm nghèo, xóa nhà tạm, dột nát cho người cao tuổi. 3.2 Nhóm giải pháp về bản thân người cao tuổi - Hiểu rõ chính sách, pháp luật của Nhà nước về An sinh xã hội cho người cao tuổi - Tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng, èn luyện sức khoẻ; tham gia học tập, hoạt động văn hoá, tinh thần - Phát huy vai trò bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Phát huy vai trò "Nêu gương sáng"Hiến kế, hiến công vì quê hương, đất nước”.. 3.3 Nhóm giải pháp về phía Nhà nước Nhà nước có thể xem xét những khuyến nghị sau đây nhằm cải thiện hiệu quả của các chính sách về an sinh xã hội cho người cao tuổi: Thứ nhất, thu hẹp khoảng cách về bao phủ đối tượng cho nhóm từ 60 đến 79 tuổi trong Nghị định 136/2013/NĐ- CP. Hai phương án sau đây có thể đem ra xem xét: - Hướng tới đối tượng là tất cả những người nghèo từ 65 đến 79 tuổi, hoặc giảm độ tuổi đủ điều kiện từ 80 xuống 75 tuổi và xây dựng một lộ trình để giảm ngưỡng tuổi này xuống nữa trong tương lai. Thứ hai, khẩn trương thực hiện Nghị định 136/2013/NĐ-CP nhằm bù giá cho mức hưởng do lạm phát. Thêm vào đó cần phải xem xét thiết lập chỉ mục mức hưởng thay đổi theo lạm phát hoặc ít nhất phải thiết kế một quy trình để điều chỉnh mức hưởng thường xuyên.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan