Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài một số vấn đề về thanh toán không dùng tiền mặt và thực trạng ở việt nam...

Tài liệu đề tài một số vấn đề về thanh toán không dùng tiền mặt và thực trạng ở việt nam

.PDF
34
72
81

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa đã kéo theo các phương thức thanh toán phát triển, phương thức sau kế thừa và phát triển các phương thức trước đó. Để khắc phục những nhược điểm của phương thức thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt đã ra đời và phát huy được những ưu việt của nó. Hiện nay ở rất nhiều nước trên thế giới, việc thanh toán không dùng tiền mặt đã trở nên quen thuộc với mỗi người dân, trong khi đó ở Việt Nam, khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt còn chiếm tỷ lệ rất hạn chế. Thanh toán không dùng tiền mặt chưa được người dân chấp nhận rộng rãi. Có thể nói chúng ta chưa phát huy được tính ưu việt của thanh toán không dùng tiền mặt và vì vậy chưa tận dụng hết các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của nền kinh tế. Thời gian qua, Nhà nước ta đã không ngừng đưa ra các biện pháp, các văn bản pháp quy nhằm phát huy tốt phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Tuy nhiên, tình trạng thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta còn nhiều hạn chế và gây nhiều phiền toái cho người sử dụng. Vì vậy, hiện nay việc tìm hiểu để tìm ra hướng đi đúng cho sự phát triển thanh toán không dùng tiền mặt là rất cần thiết. Nó đòi hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu một cách đầy đủ, phải có cái nhìn sâu hơn, rộng hơn. Với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về phương thức thanh toán này, em đã chọn đề tài: “Một số vấn đề về thanh toán không dùng tiền mặt và thực trạng ở Việt Nam” 1 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT LƯU THÔNG TIỀN TỆ Khái niệm và vai trò của lưu thông tiền tệ _ Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế để thực hiện các quan hệ thương mại, hàng hóa, phân phối thu nhập, hình thành nguồn vốn và phúc lợi xã hội. _ Sự lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế đóng vai trò như hệ thống mạch máu trong một cơ thể, nếu hệ thống mạch máu này hoạt động tốt thì cơ thể sẽ khỏe mạnh và phát triển, ngược lại nếu hệ thống mạch máu này hoạt động trục trặc, hoặc hơn thế nữa là bị tắc nghẽn thì cơ thể sẽ ốm yếu và sẽ không thể phát triển bình thường. 2. Các hình thức lưu thông tiền tệ. 2.1. Lưu thông bằng tiền mặt _ Khái niệm: là sự vận động của tiền mặt trong nền kinh tế phục vụ cho các quan hệ thương mại với quy mô nhỏ và trong nội bộ dân cư là chính. _ Ưu điểm: đơn giản, chu chuyển nhanh, không gây ách tắc trong chu chuyển và nó có hiệu quả kinh tế cao đối với người tham gia lưu thông. _ Nhược điểm: + Tốn kém về mặt chi phí lưu thông tiền tệ như: in ấn, bảo quản, tổ chức lưu thông… + Gây ra những hiện tượng tiêu cực xã hội: trộm cắp, rửa tiền, trốn thuế… + Nạn tiền giả. 2.2. Lưu thông không dùng tiền mặt. _ Khái niệm: là hình thức lưu thông trong đó tiền tệ và hàng hóa vận động tương đối độc lập với nhau, đáp ứng cho nhu cầu thanh toán với quy mô lớn, thông thường là các doanh nghiệp. _ Nhược điểm: + Phải có trình độ nhất định mới tham gia được. + Mọi thanh toán phải thông qua ngân hàng. + Trang bị cơ sở vật chất ban đầu khá tốn kém + Vấn đề bảo mật. _ Ưu điểm: + Khắc phục được một phần chi phí lưu thông. I. 1. 2 + Tăng cường khả năng kiểm soát của nhà nước, của ngân hàng. + Tạo ra sự văn minh lịch sự trong thanh toán. II. THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT. 1. Nguồn gốc thanh toán không dùng tiền mặt. Trong xã hội loài người, nếu còn sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa, thì sự tồn tại của mối quan hệ T_H là một tất yếu khách quan. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Theo tiến trình lịch sử hình thành tiền tệ, đồng tiền đã có những bước phát triển từ thấp đến cao. Trong nền kinh tế tự nhiên khép kín, do nhu cầu còn rất đơn giản con người tự sản xuất được những gì mình cần và do đó họ không nhu cầu trao đổi. Khi xã hội phát triển và mở rộng hơn, họ thấy rằng mình không thể tự sản xuất thứ mà mình cần do nhiều lý do,lúc này nhu cầu trao đổi xuất hiện và vấn đề là trao đổi như thế nào. Vấn đề trùng lắp nhu cầu xuất hiện. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu cũng có sự trùng lắp nhu cầu. Muốn trao đổi được hàng hóa người ta nghĩ tới một hàng hóa mà nhiều người cùng cần, đó là vật đứng ra làm vật ngang giá chung_hình thức đầu tiên của tiền tệ. Lúc đầu vật ngang giá chung rất đơn giản, nó có thể là vỏ sò vỏ hến hay con bò, miếng đồng…Do yêu cầu thuận tiện trong trao đổi người ta thấy rằng cần phải có vật ngang giá chung thế nào đó dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ, không hao mòn và có thể tích trữ dùng cho sau này. Con người đã chọn vàng. Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, hàng hóa đưa vào lưu thông càng nhiều, đòi hỏi phải có thêm lượng tiền đưa vào thêm đáp ứng nhu cầu của hàng hóa đưa vào lưu thông. Hơn thế nữa người ta thấy rằng trong mua bán chịu, tờ giấy ghi nợ cũng có gía trị như tiền vậy. Tiền giấy ra đời và nó đã giúp cho việc trao đổi hàng hóa diễn ra thuận lợi hơn rất nhiều. Nhưng sản xuất không ngừng phát triển, khối lượng tiền đưa vào lưu thông ngày một lớn, đặc biệt là khi có lạm phát. Tiền giấy bộc lộ những hạn chế nhất định như: chi phí in ấn,bảo quản,tiền giả,kiểm đếm…Hơn nữa trong nền kinh tế phát triển như ngày nay khối lượng tiền trong một giao dịch là rất lớn, nếu thanh toán bằng tiền mặt thì rõ ràng là bất tiện. Như vậy đòi hỏi phải có phương thức mới ưu việt hơn khắc phục được những hạn chế trên, phù hợp với một giai đoạn phát triển kinh tế mới. Thanh toán không dùng tiền mặt xuất hiện như một tất yếu, thể hiện bước phát triển và hoàn thiện ở đỉnh cao của lịch sử phát triển tiền tệ. 2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng. Đồng thời nó cũng là khâu mở và là khâu kết thúc của quá trình tái sản xuất xã hội. Tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách trôi chảy nhịp nhàng. 3 Ngược lại việc thanh toán bị trục trặc, ách tắc thì quá trình sản xuất kinh doanh sẽ lâm vào trì trệ. Hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đã phát triển sang một giai đoạn mới, lúc nay ngân hàng phải phát huy đầy đủ các chức năng của chức năng của mình đó là trung tâm thanh toán trong nền kinh tế. Ta có thể hiểu thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ với chức năng là phương tiện thanh toán giữa các tổ chức cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản này sang tài khoản khác hoặc bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác. Đối với nền kinh tế thi trường thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò rất lớn. _ Đối với nền kinh tế nói chung: + Thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ phục vụ cho các hoạt động của các tổ chức, cá nhân mà nó còn góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. + Thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hóa, vật tư, tăng nhanh tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. _ Đối với ngân hàng: + Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng tập trung được các nguồn vốn trong dân cư. + Giúp cho ngân hàng có được khoản thu từ phí cung cấp dịch vụ thanh toán ổn định và an toàn. + Tạo điều kiện cho ngân hàng Nhà Nước kiểm soát và điều tiết lượng tiền đi vào lưu thông, từ đó có các chính sách phù hợp tác động vào nền kinh tế. + Với vai trò là các trung gian tài chính việc thanh toán qua ngân hàng giúp cho việc thu thập các nguồn thông tin về doanh nghiêp và sự chuyển dịch vốn trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho việc thẩm định các dự án đầu tư được tốt hơn. _ Đối với xã hội: + Tạo môi trường thanh toán văn minh, lịch sự, thuận tiện và nhanh chóng. + Giúp cho người dân có thói quen thanh toán qua ngân hàng và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. + Hạn chế nạn tiền giả, rửa tiền, thành lập các quỹ đen… 3. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt Theo quyết định 22/QD-NH ngày 21/01/1994 do Thống đốc ngân hàng Nhà Nước ban hành, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng trong hệ thống ngân hàng bao gồm: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, 4 thư tín dụng, ngân phiếu thanh toán, thẻ thanh toán. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng ngân phiếu không phải là TTKDTM mà chỉ là một loại tiền mệnh giá lớn. 3.1. Thanh toán bằng séc _ Séc là phương tiện thanh toán do người kí phát lập dưới hình thức chứng từ theo mẫu in sẵn lệnh cho người thực hiện thanh toán trả không điều kiện một số tiền nhất định cho người thụ hưởng có tên trên séc hoặc người cầm séc _ Các chủ thể tham gia thanh toán séc: + Người ký phát: là người lập và kí tên trên séc để ra lệnh cho người thực hiện thanh toán thay mặt mình trả số tiền ghi trên séc + Người được trả tiền: là người ký phát chỉ định có quyền hưởng hoặc chuyển nhượng quyền hưởng đối với số tiền ghi trên tờ séc + Người thụ hưởng: là người cầm tờ séc mà tờ séc đó: - có ghi tên người được trả tiền là chính mình; hoặc - không ghi tên người trả tiền hoặc ghi cụm từ “Trả cho người cầm séc”; hoặc: - đã chuyển nhượng bằng ký hậu cho mình thông qua dãy chữ ký chuyển nhượng liên tục. + Đơn vị thực hiện thanh toán: là tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nơi người ký phát được sử dụng tài khoản thanh toán với một khoản tiền để ký phát séc theo thỏa thuận giữa người ký phát với tổ chức cug úng dịch vụ thanh toán đó + Đơn vị thu hộ: là tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán làm dịch vụ thu hộ séc + Trung tâm thanh toán bù trừ séc: là NHNN hoặc TCTD cung cấp dịch vụ thanh toán được NHNN cấp phép để tổ chức, chủ trì việc trao đổi, thanh toán bù trừ séc và quyết toán các nghĩa vụ tài chính phát sinh từ việc thanh toán séc cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán là thành viên. _ Ngày ký phát: là ngày mà người ký phát ghi trên séc để làm căn cứ tính thời hạn xuất trình của tờ séc. _ Thời hạn xuất trình: 30 ngày theo lịch, kể từ ngày ký phát đến ngày ký phát đến ngày tờ séc đó được xuất trình tại địa điểm thanh toán. Trong thời hạn này, tờ séc được thanh toán vô điều kiện khi xuất trình. _ Thời hạn thanh toán của séc: là 6 tháng kể từ ngày ký phát, nếu sau thời hạn xuất trình người thực hiện thanh toán không nhận được thông báo đình chỉ thanh toán đối với tờ séc đó và người ký phát đang có khoản tiền được sử dụng đủ để chi trả cho tờ séc đó. Nếu người chủ tài khoản vi phạm phát hành séc đến tờ thứ hai, NHNN sẽ thông báo đến tất cả các ngân hàng, khách hàng phát hành séc quá số dư sẽ 5 bị đình chỉ việc sử dụng loại séc đó, thời gian đình chỉ tối thiểu là 3 tháng. Trong trường hợp việc vi phạm nguyên tắc phát hành séc dẫn tới hậu quả nghiêm trọng thì người phát hành sec sẽ bị truy tố theo quy định của pháp luật. _ Các loại séc: + Séc chuyển khoản: Séc chuyển khoản- séc thông thường là loại séc do chủ tài khoản ký phát và trực tiếp giao cho người thụ hưởng để thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình Như vậy, khi nhận séc, người thụ hưởng không biết chắc chắn khả năng thanh toán của người ký phát đối với tờ séc đó. Do đó séc chuyển thường dùng trong trường hợp 2 bên tín nhiệm nhau trong thanh toán Cơ chế sử dụng séc chuyển khoản hiện nay quy định: thời hạn hiệu lực của séc là 10 ngày và séc chuyển khoản chỉ áp dụng thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở một chi nhánh ngân hàng hoặc khác chi nhánh ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp hàng ngày. + Séc bảo chi: Séc bảo chi là séc đã được tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán xác nhận khả năng thanh toán trước khi người chi trả trao séc cho người thụ hưởng để nhận hàng hóa và dịch vụ. Như vậy, séc bảo chi là tờ séc đã được đảm bảo khả năng chi trả, do đó nó được dùng trong trường hợp 2 bên mua bán không tín nhiệm nhau về thanh toán Trước khi muốn phát hành séc bảo chi cho người thụ hưởng, người ký phát phải đến tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình để làm thủ tục bảo chi cho tờ séc. Sau khi tờ séc được đóng dấu bảo chi, ghi ký hiệu mật lên tờ séc, người ký phát mới có thể dùng tờ séc đó để trao cho người thụ hưởng. + Séc bảo lãnh: Séc bảo lãnh là séc đã được đảm bảo trả tiền đối với một phần hoặc toàn bộ số tiền ghi trên séc bằng việc bảo lãnh của một bên thư ba(người bảo lãnh), nhưng không phải là đơn vị thanh toán Như vậy, cũng như séc bảo chi, séc bảo lãnh là tờ séc đã được đảm bảo khả năng chi trả, do đó nó được dùng trong trường hợp 2 bên mua bán không tín nhiệm nhau về thanh toán Séc bảo lãnh cũng được sử dụng để thanh toán giữa hai khách hàng mở tài khoản tại cùng một tổ chức cung ưng dịch vụ thanh toán hoặc tại hai tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có cam kết thực hiện thanh toán séc cho các khách hàng của nhau. 6 3.2. Thanh toán bằng Lệnh chi hay ủy nhiệm chi(UNC): _ Lệnh chi hay UNC là lệnh của chủ tài khoản ủy nhiệm cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ tài khoản tiền gửi của mình cho người được hưởng có tài khoản ở cùng tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc khác tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Như vậy, Lệnh chi hay UNC được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong cùng tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Lệnh chi có thể được sử dụng để thanh toán, chuyển tiền giữa hai khách hàng mở tài khoản tại một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc hai khách hàng mở tài khoản tại hai tổ chức cung ứng dịch vụ khác nhau. Trường hợp dùng Lệnh chi hay UNC để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ thì khi thực hiện lệnh chi, số tiền của lệnh chi được chuyển thẳng vào tài khoản thanh toán của người thụ hưởng. Trường hợp dùng trực tiếp lệnh chi hay UNC để chuyển tiền đứng tên người thụ hưởng thì chuyển trả vào tài khoản thanh toán của người thụ hưởng(nếu người thụ hưởng có tài khoản tại tổ chức cung ứng dịch vụ tiền phải trả” (nếu người thụ hưởng không có tài khoản tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nhận chuyển tiền) Chủ tài khoản cũng có thể dùng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi để chuyển tiền bằng cách đề nghị tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình phát hành séc chuyển tiền cầm tay. Trường hợp này chỉ sử dụng để chuyển tiền giữa hai tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cùng hệ thống. Thời hạn thực hiện lệnh chi hay UNC do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thỏa thuận với người sử dụng dịch vụ thanh toán. Khi kiểm soát, hạch toán lệnh chi, các bên phải thực hiện đúng thời hạn đã quy định để đảm bảo thanh toán nhanh lệnh chi. Thực tế, UNT chiếm ưu thế tuyệt đối trong thanh toán không dùng tiền mặt vì nó thuận tiện, dễ dàng và các lý do khách quan. 3.3. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu(UNT) Nhờ thu hoặc ủy nhiệm thu được áp dụng trong giao dịch thanh toán giữa những người sử dụng dịch vụ thanh toán có mở tài khoản trong nội bộ tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, trên cơ sở có thỏa thuận hoặc hợp đồng về điều kiện thu hộ giữa bên trả tiền và bên thụ hưởng. Thực chất của nhờ thu hay ủy nhiệm thu là giấy tờ thanh toán do người ban lập để ủy thác cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thu hộ một số tiền ở người mua tương ứng với giá trị hàng hóa dịch vụ đã cung ứng. 7 Tuy nhiên, việc tự động lập ủy nhiệm thu này có thể dẫn tới người bán lập ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu để thu khống, thu thừa tiền của người mua, do đó nhờ thu hay UNT chỉ được sử dụng để thanh toán những hàng hóa, dịch vụ có dụng cụ có ghi đo chính xác như điện, điện thoại, nước… Thời hạn thực hiện nhờ thu hay ủy nhiệm thu do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thỏa thuận với người sử dụng dịch vụ thanh toán. Trong thời gian không quá một ngày làm việc kể từ thời điểm nhận được UNT do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người thụ hưởng gửi đến, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người trả tiền phải hoàn tất việc trích tài khoản của người trả tiền nếu trên tài khoản của người chi trả đó có đủ điều kiện để thực hiện giao dịch thanh toán, hoặc báo cho người trả tiền biết nếu trên tài khoản của người đó không có đủ tiền để thực hiện giao dịch thanh toán, đồng thời theo dõi để thanh toán khi tài khoản của người trả tiền có đủ tiền. Thực tế, UNT chiếm tỷ trọng thanh toán rất nhỏ vì ít thuận tiện, khó áp dụng. 3.4. Thanh toán bằng thư tín dụng: *Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng thanh toán( người xin mở thư tín dụng) theo đó ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán để: _ Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng. _ Chấp nhận trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng. *Đặc điểm: _ Thư tín dụng dùng trong thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ trên cơ sở hợp đồng hinh tế đã ký kết và trong trường hợp giữa người mua và người bán không tín nhiệm lẫn nhau. _ Thường áp dụng khi bên bán hoặc bên mua giao dịch không thường xuyên, không biết nhau hoặc giao dịch lần đầu, hoặc do yêu cầu của bên bán đòi hỏi bên bán đòi hỏi bên mua đảm bảo cho khả năng thanh toán chắc chắn. *Phạm vi thanh toán: Thư tín dụng dùng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ theo hợp kinh tế đã ký kết giữa người mua và người bán mở tài khoản ở hai ngân hàng cùng hệ thống. Trường hợp thanh toán ra khác hệ thống thì tại địa bàn của ngân hàng phục vụ người bán phải có một ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng phục vụ người mua tham gia thanh toán bù trừ. 8 *Điều kiện thanh toán: _ Thư tín dụng chỉ thanh toán một lần và cho một người bán. Trường hợp thanh toán không hết thì phải hoàn lại số tiền mở thư tín dụng cho người mua. _ Thời hạn hiệu lực: 3 tháng kể từ ngày ngân hàng phục vụ người mua mở thư tín dụng đến ngày người bán nộp chứng từ thanh toán vào ngân hàng. _ Thanh toán thư tín dụng nội địa đòi hỏi người mua phải lưu ký 100% giá trị thư tín dụng tại ngân hàng. 3.5. Thanh toán bằng thẻ ngân hàng 3.5.1. Khái niệm thẻ: Thẻ ngân hàng là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng phát hành cho khách hàng, theo đó người sử dụng thẻ có thể dùng để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ tại các ĐVCNT hay rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán thẻ hoặc tại các máy rút tiền tự động ATM. Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn liền với kỹ thuật tin học ứng dụng trong ngân hàng. Thẻ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình( các doanh nghiệp, cá nhân) để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, thanh toán nợ và lĩnh tiền mặt. Ở một số nước, các hãng, các công ty lớn cũng phát hành thẻ thanh toán để thu tiền bán hàng của hãng mình. 3.5.2. Đặc điểm cấu tạo của thẻ: _ Mặt trước bao gồm: + Nhãn hiệu thương mại của thẻ + Tên và logo của ngân hàng phát hành thẻ + Số thẻ, tên chủ thẻ dược in nổi _ Mặt sau của thẻ bao gồm: + Dải băng từ chứa các thông tin đã được mã hóa theo một chuẩn thống nhất như: số thẻ, ngày hết hạn, các yếu tố kiểm tra an toàn khác. + Ô chữ ký dành cho chủ thẻ 3.5.3. Phân loại thẻ *Phân loại theo đặc tính kỹ thuật _ Thẻ băng từ: được sản xuất dựa trên kỹ thuật từ tính với một dải băng từ chứa 2 rãnh thông tin ở mặt sau của thẻ. _ Thẻ điện tử có bộ vi xử lý Chip( thẻ thông minh): là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ thông minh dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học nhờ gắn vào thẻ “Chip” điện tử có cấu trúc như một máy tính hoàn hảo. Thẻ thông minh có nhiều nhóm với dung lượng nhớ của “chip” điện tử khác nhau. Thông thường, một tấm thẻ thông minh được gắn chip điện tử để thay thế cho dải băng từ sau thẻ. Cũng có trường hợp thẻ thông minh có cả chip điện tử và băng từ. Thẻ thông minh gắn chip xử lý dữ liệu có khả năng vừa lưu 9 trữ các thông tin về chủ thẻ, điểm thưởng tích lũy đồng thời lưu giữ số liệu về những lần giao dịch tại đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT). Tính năng vượt trội này của thẻ thông minh giúp cắt giảm chi phí xử lý đối với ngân hàng và các trung gian thanh toán bởi việc đối chiếu thông tin tài khoản và thông tin của chủ thẻ cũng như việc cập nhật thông tin liên quan tới thẻ giờ đây được thực hiện ngay tại đơn vị chấp nhận thẻ(ĐVCNT). *Phân loại theo tính chất thanh toán ( nội dung kinh tế) của thẻ _ Thẻ ghi nợ (Debit Card)- thẻ loại A: là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn với tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ. Để sử dụng loại thẻ này, chủ thẻ phải có tài khoản hoạt động thường xuyên tại ngân hàng. Loại thẻ này khi rút tiền tại các máy tự động(ATM) hay mua hàng hóa dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ(ĐVCNT), giá trị các giao dịch sẽ được trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ. Như vậy người sử dụng thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài khoản đảm bảo thanh toán thẻ, căn cứ để thanh toán là số dư tài khoản tiền gửi của chủ sở hữu thẻ tại ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa của thẻ do ngân hàng quy định. Trong các hình thức thẻ ghi nợ, thẻ ATM là hình thức phát triển đầu tiên, nó cho phép chủ thẻ tiếp cận trực tiếp với tài khoản của mình tại ngân hàng từ máy rút tiền tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện nhiều giao dịch khác nhau tại máy rút tiền tự đông ATM, bao gồm: xem số dư tài khoản, chuyển khoản, rút tiền, in sao kê, xem các thông tin quảng cáo…Hệ thống máy ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài khoản của mình ngay tại các máy ATM. Tuy nhiên, sử dụng thẻ ATM, chủ thẻ chỉ có thể tiếp cận với tài khoản của mình từ những máy rút tiền tự động. Đây là một hạn chế bởi tài khoản cá nhân chưa được tận dụng triệt để trong thanh toán dịch vụ, hàng hóa tại các ĐVCNT. Sự tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của thẻ ATM. Bằng cách nhập mã số cá nhân PIN, chủ thẻ có thể tiếp cận tài khoản cá nhân của mình tại các máy rút tiền tự động 24/24h một ngày và 7 ngày trong tuần. Điều này có nghĩa là nhiều giao dịch được thực hiện ngoài giờ làm việc của ngân hàng và các ngày nghỉ. _ Thẻ trả trước(Prepaid Card)- thẻ loại B: là loại thẻ mới được phát triển trên thế giới, khách hàng không cần phải thực hiện các thủ tục phát hành thẻ theo yêu cầu của ngân hàng như điền vào yêu cầu phát thẻ, chứng minh tài chính…, họ chỉ cần trả cho ngân hàng một số tiền sẽ được ngân hàng bán cho một tấm thẻ với mệnh giá tương đương. Đặc tính của loại thẻ này giống như mọi thẻ bình thường khác, chỉ cóđiều thẻ này chỉ được giới hạn trongộc số tiền có trong thẻ và chi tiêu trong một khoảng thời gian nhất định tùy thuộc vào quy định của mỗi ngân hàng, tức là hạn mức thẻ không có tính chất tuần hoàn. 10 _ Thẻ tín dụng (Credit Card)- thẻ loại C: là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó người chủ thẻ được sử dụng một hạn mức tín dụng quy định không trả lãi (nếu chủ thẻ hoàn trả số tiền đã sử dụng đúng thời hạn) để mua sắm hàng hóa dịch vụ tại những cơ sở chấp nhận loại thẻ này. Thẻ tín dụng là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cho phép người sử dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Khoảng thời gian từ khi thẻ được dùng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho ngân hàng có độ dài phụ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của các tổ chức khác nhau. Thời gian này chủ thẻ hoàn toàn được miễn lãi đối với số tiền phát sinh. Nếu hết thời gian miễn lãi này mà toàn bộ số tiền phát sinh chưa được thanh toán cho ngân hàng thì chủ thẻ sẽ chịu những khoản phí và lãi chậm trả. Khi toàn bộ số tiền phát sinh được hoàn trả cho ngân hàng, hạn mức tín dụng của chủ thẻ được khôi phục như ban đầu. Đây còn gọi là tính chất tuần hoàn của thẻ tín dụng. Các tổ chức tài chính như ngân hàng hay các công ty tài chính phát hành thẻ tín dụng cho khách hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng. Khả năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên tổng hợp nhiều thông tin khác nhau như: thu nhập, tình hình chi tiêu, mối quan hệ sẵn có đối với các tổ chức tài chính, địa vị xã hội…của khách hàng. Do đó, mỗi khách hàng có những hạn mức tín dụng khác nhau. 3.5.4. Các chủ thể tham gia vào hoạt động phát hành và thanh toán thẻ Hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng có sự tham gia chặt chẽ của 4 chủ thẻ là: ngân hàng phát hành thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ, chủ thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ. Từng chủ thẻ đóng vai trò quan trọng khác nhau trong việc phát huy tối đa vai trò làm phương tiện thanh toán hiện đại của thẻ ngân hàng. _ Ngân hàng phát hành: Ngân hàng phát hành là ngân hàng thực hiện việc: + Thẩm định tính năng pháp lý và khả năng tài chính khách hàng. + Phát hành thẻ cho các khách hàng có kết quả thẩm định đạt yêu cầu + Tạo sao kê cho chủ thẻ và quyết toán với chủ thẻ Ngoài ra, ngân hàng phát hành còn có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ ba, là một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc phát hành thẻ tín dụng. Trong trường hợp nay, ngân hàng phát hành tận dụng được ưu thế của bên thứ ba về kinh nghiệm, khả năng thâm nhập thị trường và những ưu việt về vị trí địa lý; tuy nhiên cũng phải chịu rủi ro về tài chính bởi bên thứ ba lúc này hoạt động dưới danh nghĩa là ngân hàng phát hành. Bên thứ ba khi ký kết hợp đồng đại lý với ngân hàng phát hành được gọi là ngân hàng phát hành đại lý (ngân hàng đại lý). Các ngân hàng này không tham gia toàn bộ vào quá trình phát hành thẻ mà chủ yếu có 11 nhiệm vụ phân phát các tờ rơi tại hệ thống chi nhánh của mình và nhận những đơn xin phát hành thẻ của khách hàng và trong một số trường hợp tham gia vào quá trình thẩm định khả năng tài chính của khách hàng dựa trên kinh nghiệm và mối quan hệ sẵn có. Ngân hàng phát hành là tổ chức thực hiện các công việc còn lại như quyết định hạn mức tín dụng cho khách hàng, ký kết hợp đồng và in thẻ Để phục vụ việc phát hành thẻ, các ngân hàng phải đầu tư lơn vào trang thiết bị bởi công tác phát hành đòi hỏi những công nghệ hiện đại. Trong đó ngân hàng phát hành phải trang bị hệ thống in thẻ, hệ thống quản lý và cập nhật dữ liệu liên quan đến chủ thẻ và tình hình chi tiêu của chủ thẻ…Chính vì vậy thông thường, để trở thành ngân hàng phát hành thẻ, ngoài uy tín, những ngân hàng và tổ chức tín dụng nói chung phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định về khả năng tài chính, đầu tư công nghệ và chất xám. _ Chủ thẻ: Chủ thẻ là những cá nhân hoặc người được ủy quyền (nếu là thẻ do công ty ủy quyền sử dụng) được ngân hàng phát hành thẻ có tên in nổi trên thẻ và sử dụng thẻ theo điều khoản trong hợp đồng đã ký kết với ngân hàng phát hành Theo thông lệ, mỗi chủ thẻ chính thường có thể phát hành thêm một thẻ phụ. Như vậy, phát sinh hai khái niệm thẻ chính và thẻ phụ. Tuy nhiên chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ cùng chi tiêu một tài khoản. Chủ thẻ phụ cũng có trách nhiệm thanh toán các khoản phát sinh trong kỳ nhưng chủ thẻ chính là người có trách nhiệm thanh toán cuối cùng đối với ngân hàng Chủ thẻ sử dụng thẻ của mình để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ, ứng tiền mặt tại các điểm ứng tiền mặt tại hệ thống ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch tại may rút tiền tự động ATM. Trong trường hợp thẻ tín dụng, sau một khoảng thời gian nhất định tùy theo quy định của từng ngân hàng phát hành, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê(statement) là bản thông báo số tiền mà chủ thẻ phải thanh toán với ngân hàng và thời điểm thanh toán cũng như số tiền thanh toán tối thiểu bắt buộc. Nếu là thẻ ghi nợ, ngân hàng sẽ tự động trích nợ tài khoản của chủ thẻ theo giá trị giao dịch được thực hiện bằng thẻ. _ Ngân hàng thanh toán: Ngân hàng thanh toán là ngân hàng chấp nhận các loại thẻ như một phương tiện thanh toán thông qua việc ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các điểm cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn. Trong hợp đồng chấp nhận thẻ ký kết với các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ, ngân hàng thanh toán thẻ cam kết: + Chấp nhận các đơn vị này vào hệ thống thanh toán thẻ của ngân hàng. 12 + Cung cấp các thiết bị đọc thẻ tự động cho các đơn vị này kèm theo những hướng dẫn sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên cách thức vận hành cùng với dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong suốt thời gian hoạt động + Quản lý và xử lý những giao dịch có sử dụng thẻ trong những đơn vị này. Thông thường, ngân hàng thanh toán thu từ các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với họ một mức phí chiết khấu (discount rate) cho việc xử lý các giao dịch có sử dụng thẻ tại đây. Mức phí này cao hay thấp phụ thuộc vào từng ngân hàng và vào mối quan hệ chiến lược đối với các đơn vị khác nhau. Trên thực tế, rất nhiều ngân hàng vừa là ngân hàng phát hành vừa là ngân hàng thanh toán thẻ. _ Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT): Các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ như một phương tiện thanh toán được gọi là đơn vị chấp nhận thẻ(ĐVCNT). Các ngành kinh doanh của các ĐVCNT trải rộng từ những cửa hiệu bán lẻ, những nhà hàng ăn uống, đến khách sạn, sân bay…Tại nhiều nước trên thế giới, khi thẻ ngân hàng đã trở thành một phương tiện thanh toán thông dụng, chúng ta có thể nhìn thấy những biểu trưng của thẻ thường tại các cửa hàng. Ở Việt Nam, các ĐVCNT tập trung chủ yếu tại các ngành hàng, dịch vụ có thu hút nhiều khách nước ngoài như những cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ, lưu niệm tại các trung tâm thương mại, những nhà hàng, khách sạn lớn, các đại lý bán vé máy bay… Để trở thành ĐVCNT đối với một loại thẻ ngân hàng nào đó, nhất thiết là đơn vị này phải có tình hình tài chính tốt và có năng lực kinh doanh. Cũng như việc ngân hàng phát hành thẩm định khách hàng trước khi phát hành thẻ cho họ, các ngân hàng thanh toán cũng sẽ chỉ quyết định ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với những đơn vị kinh doanh hiệu quả, có khả năng thu hút nhiều giao dịch sử dụng thẻ. Mặc dù phải trả cho ngân hàng thanh toán một tỷ lệ phí chiết khấu theo số tiền trong mỗi giao dịch, các ĐVCNT vẫn có được lợi thế cạnh tranh bởi việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ ngân hàng sẽ giúp các đơn vị này thu hút được một lượng khách hàng lớn, nâng cao số lượng các giao dịch thực hiện, giảm chi phí quản lý tiền mặt, góp phần tăng hiệu quả kinh doanh. 4. Các phương thức thanh toán 4.1. Phương thức thanh toán liên chi nhánh ngân hàng Thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai đơn vị ngân hàng/chi nhánh ngân hàng thuộc cùng địa bàn tỉnh, thành phố, hoặc 13 Thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai đơn vị ngân hàng/chi nhánh ngân hàng thuộc cùng hệ thống ngân hàng thương mại 4.2. Phương thức thanh toán liên ngân hàng Thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai đơn vị ngân hàng/chi nhánh ngân hàng khác địa bàn, khác hệ thống ngân hàng thương mại. Thanh toán liên ngân hàng là hoạt động thuờng xuyên giữa các ngân hàng thành viên trong nghiệp vụ chuyển tiền giữa các ngân hàng tại các địa phương khác nhau. CITAB : Áp dụng cho các thành viên đã tham gia điện tử ngân hàng, thông thường chỉ có các thành phố lớn, TpHCM, Cần Thơ,Hải phòng, Đà Nẳng, Hà nội VCB:Thanh toán thông qua tất cả các loại tiền có mở tài khoản tại VCB, chỉ thực hiện lệnh chuyển tiền có Hệ thống thanh toán bù trừ áp dụng cho các ngan hàng có mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nước nơi trú đóng Việc áp dụng tùy thuộc vào mỗi địa bàn khác nhau. Ví dụ, nếu các tỉnh thành mà không có CN mở tại địa phương, thì các ngân hàng thường thông qua NHNN tại tpHCM và Tỉnh đó để truyền lệnh, thông qua NHNN nơi muốn nhận và đi Tùy thuộc vào phí chuyển tiền mà sử dụng CITAD hay VCB 4.3. Phương thức thanh toán bù trừ trực tiếp Thanh toán bù trừ là một phương thức thanh toán trong ngoại thương, trong đó tiền hàng không được thanh toán trực tiếp và ngay giữa người bán và người mua mà được ghi vào một tài khoản được gọi là tài khoản Clearing, đến cuối kỳ tiến hành bù trừ giữa tài khoản của hai bên. Cụ thể là, tài khoản Clearing được chia làm hai bên, bên Nợ và bên Có, thường là trong một năm xuất hiện nhiều thương vụ giữa bên A và bên B, khi bên A mua của bên B một lô hàng thì trị giá hàng sẽ được ghi vào bên Có của tài khoản bên A và Nợ vào tài khoản bên B, còn nếu bên B mua của bên A một lô hàng thì trị giá sẽ được ghi vào bên Có của tài khoản B và ghi vào bên Nợ của tài khoản A. Đến cuối năm sẽ tiến hành bù trừ giữa bên Có và Nợ của hai tài khoản, và theo nguyên tắc số liệu cuối cùng ở hai tài khoản phải trùng khớp nhau. Khi đó nếu tài khoản A có số dư bên Có, tức là tài khoản B sẽ có số dư bên Nợ, và số dư đó chính là số tiền mà bên B phải thanh toán cho bên A. Ngược lại, nếu tài khoản B có số dư bên Có, tức là tài khoản A có số dư bên Nợ, lúc đó số dư đó chính là khoản tiền mà bên A phải trả cho bên B. 14 Tiền tệ được sử dụng trong thanh toán bù trừ là đồng tiền clearing tức là đồng tiền không được chuyển đổi ra bất kỳ đồng tiền nào khác, không được chuyển khoản sang các tài khoản khác, bên nào dư nợ sẽ phải trả bằng ngoại tệ tự do hoặc chuyển sang tài khoản vay nợ năm sau hoặc trả nợ bằng hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu của nước chủ nợ. Tùy theo sự thỏa thuận của hai bên, tiền tệ clearing có thể được lựa chọn là tiền tệ của một trong hai nước của hai bên hoặc tiền tệ của nước thứ ba. Với phương thức thanh toán này có thể qui định cả hai bên phải mở tài khoản hoặc chỉ cần một bên mở tài khoản. Thực chất phương thức thanh toán bù trừ được sử dụng nhiều trong Hiệp định mua bán hàng hóa dịch vụ giữa chính phủ hai quốc gia, hoặc giữa hai thương nhân có quan hệ buôn bán thân thiết và hàng năm trao đổi với nhau nhiều loại hàng hóa. Để đơn giản thủ tục thanh toán hai bên sử dụng phương thức thanh toán bù trừ, ví dụ như Hiệp định thương mại và thanh toán clearing Việt Nam và Campuchia những năm 1960 qui định mở tài khoản bằng đồng Bảng Anh, Hiệp định Việt Nam ký với Ấn Độ bằng đồng Rupi Ấn Độ, với Ai Cập bằng đồng Bảng Ai Cập...Với những loại hiệp định như thế này, nước nào mở tài khoản nước đó sẽ có lợi, bởi vì nước không mở tài khoản muốn nhập hàng trước thì phải có số dư Có trên tài khoản nếu không phải xuất hàng trước rồi sau đó mới được phép nhập hàng. Ngược lại, nước mở tài khoản không có số dư Có trên tài khoản vẫn được quyền nhập khẩu. Để giải quyết sự không công bằng này, hiệp định kí kết giữa hai nước phải quy định tín dụng thấu chi cho nước không mở tài khoản clearing. Hiện nay với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, đặc biệt việc sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ L/C đã trở thành tập quán, thì phương thức thanh toán bù trừ rất ít được sử dụng. 4.4. Phương thức thanh toán qua ngân hàng Nhà nước NHNN thực hiện chủ trì thanh toán cho toàn bộ hệ thông NHTM NHTW là cơ quan quản lý Nhà nước về các lĩnh vực tiền tệ-tín dụngthanh toán-ngoại hối và ngân hàng nhằm mục đích điều hòa lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hóa được nhanh chóng chính xác và thông suốt. III. NHỮNG QUY ĐỊNH MANG TÍNH NGUYÊN TẮC TRONG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của ngân hàng, nghiệp vụ này có liên quan chặt chẽ đến quan hệ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của tất cả các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế. Để hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt diễn ra thuận lợi, an toàn, bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia, cần phải thống nhất công tác tổ chức và có những quy định cụ thể. Ngân hàng Nhà nước đã có những quy định như sau: 15 1. Quy định chung: Các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, đoàn thể cá nhân được quyền lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Việc mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng, kho bạc nhà nước thì thực hiện qua tài khoản được ghi bằng đồng Việt Nam. Trường hợp ghi bằng ngoại tệ phải thực hiện theo quy chế quản lý ngoại hối của chính phủ Việt Nam ban hành. 2. Quy định đối với ngân hàng Thực hiện ủy thác thanh toán của chủ tài khoản, bảo đảm chính xác, an toàn, thuận tiện. Các ngân hàng và kho bạc có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi theo yêu cầu của chủ tài khoản. Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện thanh toán và được ủy quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền, đồng thời không chịu trách nhiệm về những nội dung liên đới của bên khách hàng. Nếu thiếu sót trong quá trình thanh toán, gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng và kho bạc phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và tùy theo mức độ thiệt hại mà có thể bị xử lý theo pháp luật. Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng được thu phí theo quy định của ngân hàng nhà nước. 3. Quy định đối với khách hàng Để đảm bảo thực hiện thanh toán đầy đủ kịp thời, các chủ tài khoản phải có đủ tiền trên tài khoản, mọi trường hợp thanh toán quá số dư là phạm pháp và phải xử lý theo quy định của pháp luật Chủ tài khoản phải lập chứng từ theo mẫu sẵn do ngân hàng ấn hành và các chứng từ phải đầy đủ các yếu tố quy định về mẫu, chữ ký đăng ký tại ngân hàng. 16 CHƯƠNG II: VÀI NÉT VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM I. THỰC TRẠNG  Cơ sở pháp lý của hệ thống các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam Để hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng hoàn thiện hơn, Chính phủ và ngân hàng Nhà nước Việt Nam không ngừng nghiên cứu và đưa ra các văn bản có tính pháp lý, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt phát huy tác dụng. Hệ thống các văn bản pháp quy đó bao gồm: _ Luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 1997, trong đó có đề cập đến vấn đề thanh toán qua ngân hàng. _ Quyết định 371/QD-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 19/10/1999 về quy chế phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng. _ Nghị định 64/2001/ND-CP của Chính phủ ban hành ngày 20/09/2001 về hoạt động thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. _ Quyết định 226/2002/QD-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 26/03/2002 về việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức dịch vụ thanh toán _ Quyết định 235/2002/QD-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 01/04/2002 về chấm dứt phát hành ngân phiếu thanh toán. _ Quyết định 1092/2002/QD-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 08/10/2002 quy định thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. _ Nghị định 159/2003/ND-CP của Chính phủ ban hành ngày 10/12/2003 về cung ứng và sử dụng séc có hiệu lực thi hành ngày 01/04/2004. Đã có một thời, việc kiểm soát tiền mặt tồn quỹ được thực hiện ráo riết, tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt(qua ngân hàng) tăng cao, thanh toán bằng tiền mặt giảm mạnh. Nhưng biện pháp hành chính đó không phù hợp với cơ chế thị trường. Đến nay, nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 30% tổng doanh số thanh toán trong nền kinh tế. Nhiều nghìn tỷ đồng tiền mặt trong từng cá nhân, gia đình, quỹ cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp để thanh toán trực tiếp khi mua hàng hóa, kể cả mua bất động sản trị giá hàng tỷ đồng. Sử dụng tiền mặt phổ biến trong thanh toán vừa gây quá nhiều lãng phí, vừa là kẽ hở lớn cho nạn tham nhũng, buôn lậu, trốn thế luồn lách, lẩn trốn sự kiểm soát của Nhà nước và xã hội. 17 Trong thời kỳ tập trung bao cấp, Nhà nước ta cũng rất quan tâm đề ra những chủ trương lớn về việc sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơ chế mệnh lệnh hành chính quan liêu cùng với hệ thống ngân hàng một cấp, mở rộng thanh toán chuyển khoản chỉ phát huy hiệu lực trong bộ phận kinh tế Nhà nước. Lợi ích chính đáng và hợp pháp của chủ thể thanh toán không được tôn trọng đúng mức chính là lý do làm cho những chủ trương nói trên kém thực thi, thậm chí còn bị biến dạng trở thành phương tiện thể hiện quyền lực nhằm mục đích gây sách nhiễu, phiền hà. Trước năm 1985, thanh toán không dùng tiền mặt chiếm 80%, nhưng trong cuộc lạm phát phi mã 19851988, thanh toán không dùng tiền mặt sút giảm ghê gớm vì tiền khan hiếm đến mức các ngân hàng quốc doanh khi đó, với thế độc quyền, đã khất chi tiền mặt. Một cái séc chuyển khoản nộp vào ngân hàng phải 15 ngày sau mới tính ra bằng tiền mặt được. Thực tế trên đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường. Mọi việc lại trở nên “quá đà” khi xã hội không chấp nhận rộng rãi các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ thống thanh toán thông qua định chế tài chính-ngân hàng mặc dù có bước phát triển vượt bậc so với trước đây, nhưng nhìn chung còn nhiều bất cập trong xu thế hội nhập quốc tế, chưa đi vào cuộc sống, thậm chí còn rất xa lạ với đại đa số dân cư. Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, mức độ thanh toán bằng tiền mặt ở Việt Nam là rất phổ biến. Khảo sát thực trạng thanh toán năm 2003 tại 750 doanh nghiệp Việt Nam ở 3 miền Bắc, Trung, Nam cho thấy: các doanh nghiệp tư nhân (có trên 500 công nhân trở lên) tiến hành 63 % các giao dịch qua hệ thống ngân hàng. Những doanh nghiệp có ít hơn 25 công nhân, 47% các giao dịch được thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Các doanh nghiệp Nhà nước tiến hành 80% các giao dịch thông qua hệ thống ngân hàng. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân đều trả lương cho người lao động bằng tiền mặt. Trong các hộ kinh doanh, có đến 86,2% số hộ vẫn chi trả hàng hóa bằng tiền mặt; 75% số hộ kinh doanh chi trả dịch vụ bằng tiền mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế bằng tiền mặt… Tuy nhiên, một số năm trở lại đây, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán xã hội đang có xu hướng giảm dần qua từng năm. Năm 1997 là 32,2%; năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là 20,3%; năm 2005 là 19% và đến tháng 3-2006 là 18,5%. Từ nền tảng thanh toán hoàn toàn thủ công (mọi giao dịch thanh toán đều dựa trên cơ sở chứng từ giấy), hệ thống thanh toán xã hội của Việt Nam chuyển dần sang phương thức xử lý bán tự động. Đến nay, các giao dịch 18 thanh toán sử dụng chứng từ điện tử chiếm tỷ trọng khá lớn trong các hoạt động giao dịch thanh toán. Thời gian xử lý hoàn tất một giao dịch được rút ngắn từ hàng tuần xuống còn vài phút, vài giây, hoặc tức thời. Dịch vụ tài khoản cá nhân của hệ thống ngân hàng thương mại hiện đang phát triển. Số lượng tài khoản cá nhân trong toàn bộ hệ thống ngân hàng cuối năm 2004 tăng gần 10 lần so với năm 2000 (từ 135.000 tài khoản lên tới 1.297.000 tài khoản). Năm 2005 đã tăng lên 5 triệu tài khoản với số dư khoảng 20.000 tỷ đồng. Số tài khoản tăng trung bình khoảng 150%; số dư tài khoản tăng trung bình 120% mỗi năm. Máy giao dịch tự động (ATM), các thiết bị POS và mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ ngân hàng đã có những phát triển đáng kể về số lượng. Đến tháng 6-2006, số máy ATM là 2,154 máy; số lượng đơn vị chấp nhận thẻ khoảng 12.000 (so với 8.789 đơn vị chấp nhận thẻ năm 2003). Về đối tượng tham gia cung ứng dịch vụ thanh toán không còn giới hạn ở các ngân hàng, Kho bạc Nhà nước mà còn có cả các tổ chức khác không phải ngân hàng. Thị trường dịch vụ thanh toán trở nên cạnh tranh hơn, không chỉ giữa các ngân hàng mà còn giữa ngân hàng và các tổ chức làm dịch vụ thanh toán Thực trạng xã hội nước ta vẫn là : "một quốc gia sử dụng quá nhiều tiền mặt " như nhận xét của nhiều khách nước ngoài. Thực trạng đó theo Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng :"...làm cho việc điều hòa lưu thông tiền tệ và quản lý kho quỹ rất khó khăn, phân tán, tốn kém, ảnh hưởng rất lớn đến việc hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và cấu trúc lại hệ thống..." 1. Thanh toán bằng Séc : Ngày 9/5/1996, chính phủ đã ban hành nghị định 30 về phát hành và sử dụng séc. Ngày 27/12/1996 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành thông tư 07 hướng dẫn việc thi hành nghị định trên của chính phủ. Những văn bản pháp quy về phát hành và sử dụng séc có hiệu lực hơn 5 năm nay. Nhưng, séc vẫn chưa đi vào cuộc sống. Như vậy, những văn bản pháp quy trên, nhất thông tư 07 của ngân hàng Nhà nước có những điểm chưa phù hợp, nên séc chưa đi vào cuộc sống. Ta có thể thấy rõ điều này qua các con số thống kê về thanh toán không dùng tiền mặt TP.HCM. TP.HCM là một thành phố lớn có tốc độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người cao nhất cả nước. Nhưng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng phát triển rất ì ạch. Thanh toán bằng séc thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán. Nhưng, ra đời đã lâu mà séc vẫn chưa phát triển được như mong đợi ở Việt Nam. Thanh toán bằng séc đã ra đời từ lâu ở nước ta nhưng đến nay loại hình thanh toán này vẫn chưa phát triển như mong đợi. Ở các ngân hàng thương 19 mại, hình thức thanh toán bằng séc chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 2%) trong tổng thanh toán phi tiền mặt; trong đó chủ yếu là thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau, còn thanh toán giữa doanh nghiệp với cá nhân, giữa cá nhân với cá nhân rất ít. đây là một ví dụ, dẫn chứng thực tế : vừa qua, các doang nghiệp (DN) lắp ráp xe gắn máy hai bánh đã mua linh kiện của các DN sản xuất trong nước, thực hiện nội địa hóa, với số tiền hơn tỷ đồng, thanh toán một lần bằng tiền mặt trốn thuế. Xảy ra hiện tượng này một phần là do dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng (NH) chưa phát triển, Chính phủ chưa ban hành cơ chế ; phạm vi và số tiền tối đa được thanh toán bằng tiền mặt. _Mặc dù có nhiều công cụ thanh toán hiện đại xuất hiện, nhưng séc vẫn là một công cụ thanh toán phổ biến trên thế giới. Phần lớn ở các nước đều có Luật séc riêng, hoặc séc sẽ được quy định trong luật Thương Mại, hoặc nếu không sẽ sử dụng ngay Luật Thống nhất về séc, nên kho sử dụng séc được đảm bảo. Còn ở Việt Nam chưa có Luật séc, trong luật Thương Mại cũng không quy mà mới chỉ được ban hành dưới dạng Nghị định của Chính phủ. Song thực tế Nghị định này và Thông tư hướng dẫn của NHNN để thực hiện Nghị định về séc còn nhiều điểm chưa phù hợp, do vậy tính khả thi không cao, tính pháp lý chưa đảm bảo vững chắc, quyền lợi va nghĩa vụ của những người tham gia sử sụng séc không rõ ràng. NGUYÊN NHÂN : Một là, vấn đề mở tài khoản : Trong thông tư của Ngân hàng nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị định 30 về phát hành và sử dụng séc chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và văn bản pháp quy của Ngân hàng nhà nước. Trong thông tư 07 dùng ngôn từ “tài khoản thanh toán” trong khi đó hệ thống kế toán của ngân hàng thương mại do Ngân hàng nhà nước ban hành chỉ có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và tài khoản tiền gửi có kỳ hạn. Trên thế giới, doanh nghiệp, cá nhân cùng một lúc mở hai tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và chỉ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mới có quyền rút tiền mặt hoặc thanh toán không dùng tiền mặt. - Hai là, hình thức tờ Séc do ngân hàng nhà nước thiết kế không phù hợp với thực tế. Theo mẫu Séc kèm theo thông tư 07 của ngân hàng nhà nước, người phát hành Séc ngoài việc ghi họ tên người thụ hưởng còn phải ghi số ngày cấp và cấp CMND ; số hiệu tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và địa chỉ người thụ hưởng. Điều này thực tế rất khó thực hiện. Người phát hành séc và người thụ hưởng cùng thành phố, phải gặp nhau mới thực hiện được nội dung tờ séc này yêu cầu. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan