Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
LỜI MỞ ĐÀU
Kể từ ngày 11/01/2007 Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới WTO. Khi ra nhập tô chức này nguyên tắc được áp dụng với
các nước thành viên là không phân biệt đối xử giữa các quốc gia và giữa nhà đầu
tư trong nước với nước ngoài, tham gia vào một sân chơi quốc tế có những thuận
lợi và cũng có nhiều thách thức cho sự phát triển của mỗi quốc gia.Việt Nam
cũng không nằm ngoài quy luật đó, sự phát triến của khoa học và công nghệ đang
dần kéo dài khoảng cách các nước phát triển với các nước đang phát triển. Vì thế
để có thể rút ngắn khoảng cách với các nước phát triến tránh tụt hậu thì đòi hỏi
Việt Nam phải đi tắt đón đầu, nhanh chóng tiến hành công nghiệp hóa-hiện đại
hóa đất nước tận dụng mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài để phát triển.
Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay trung bình là 7,5%/năm và tốc
độ tăng trưởng dân số 1,8%/năm, đê phấn đấu đến năm 2020 nâng mức thu nhập
bình quân đầu người lên gấp đôi hiện nay tức là ở mức 2000 USD một người/một
năm thì đòi hỏi phải bồ sung nguồn vốn để đầu tư phát triển là 126 tỷ USD, hơn
GDP hiện tại ở mức 86 tỷ. Nhìn vào con số trên ta thấy với tích lũy nội bộ tối đa
cũng không đủ đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển vì thế chiến lược
trong dài hạn là làm sao đế thu hút nguồn vốn nước ngoài.
Vấn đề đặt ra làm thế nào để huy động được nguồn vốn to lớn đó, nghiên
cún khía cạnh của mối quan hệ nhân quả “nguồn vốn càng được sử dụng có hiệu
quả thì khả năng thu hút nó càng lớn” nên nhóm em đã chọn đề tài “Mối quan hệ
giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài” để làm rõ sự tác động
qua lại giữa hai nguồn vốn để từ đó thấy được vai trò của từng loại vốn và mối
quan hệ giữa chúng cũng như những giải pháp quản lý và sử dụng nguồn vốn có
hiệu quả hơn, góp phần tạo cái nhìn tồng quát về hai nguồn vốn này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn
PGS. TS Từ Quang Phương
TS. Phạm Văn Hùng
đã tận tình hướng dẫn giúp chúng em hoàn thành tốt bài tập.
Bài làm không tránh khỏi những thiếu sót kính mong thầy giáo
và các bạn góp ý để chúng em hoàn thiện bài viết.
CHƯƠNG I.
NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ BẢN CHẤT CỦA NGUỒN VÓN ĐÀU
Tư
1. Khái niệm:
1.1 vốn đầu tư:
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
1
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
Là nguồn lực tích luỹ được của xã hội, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ,
tiết kiệm của dân, huy động từ nước ngoài được biêu hiện dưới các dạng tiền tệ
các loại hoặc hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình và hàng hoá đặc biệt khác.
1.2 Nguồn vốn đầu tư:
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thế hiện dưới
dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn đầu tư
cho phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội.
2. Phân loại:
Đứng dưới góc độ vĩ mô, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư
trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước:
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy nội bộ của toàn bộ nền kinh
tế bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp
và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất xã hội. Biếu
hiện cụ thề của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà
nước và nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
2.1.1 Nguồn von nhà nước:
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triền của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển
của doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách
Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng
cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án
của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các
công tác lập và thực hiện các quy hoạch tống thê phát triển kinh tế - xã hội vùng,
lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định
hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống
xã hội.
Ngân sách nhà nước có vai trò điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triền
kinh tế. Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
2
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh
tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định đế hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu,
tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu
tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then
chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát
triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm
quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của
các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà
nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị
trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều
kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ
cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc
chuẩn bị cho việc chuyên sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu,
bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo
thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh
Bên cạnh đó, nguồn vốn này còn góp phần giải quyết các vấn đề xã
hội.Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh
đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các
mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí đê thực hiện chính sách dân số, chính sách
việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
Ngoài ra còn góp phần ôn định thị trường, chống lạm phát, bình ôn giá cả
thị trường hàng hoá. Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những
mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều
chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao
động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm
phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích họp ngân sách
nhà nước góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền
kinh tế quy mô tống thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng
nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho
thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước...). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân
sách, mức chi cho đầu tư phát triền từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể.
Tống thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2001- 2005 tăng bình quân 15%, tỷ
lệ huy động vào ngân sách nhà nước hàng năm tăng bình quân hàng năm đạt gần
23% GDP. Nguồn thu ồn định từ sản xuất trong nước đã bước đầu dần dần tăng.
Tống chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%. Tỷ lệ chi ngân sách nhà
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
3
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
nước bình quân bằng 28% GDP. Trong đó chi cho đầu tư phát triền đạt bình quân
30,2% tống chi ngân sách nhà nước. Tính chung cho giai đoạn 2001-2005, tồng
vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 22,3% tống vốn đầu tư toàn xã
hội. Trong những năm tiếp theo, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước có xu hướng
gia tăng về giá trị tuyệt đối nhưng giảm về tỉ trọng vốn đầu tư toàn xã hội.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triên của Nhà nước: Cùng với quá trình
đôi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai
trò đáng kế trong chiến lược phát triền kinh tế - xã hội. Neu như trước năm 1990,
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ
quản lý điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991- 2000, nguồn vốn này đã có
mức tăng trưởng đáng kề và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư
của nhà nước.
Giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
mới chiếm 5,6% tống vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001-2005 đã chiếm
14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong những năm tiếp theo, tín dụng đầu tư của
nhà nước sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ
nhưng tỷ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kế.
Nguồn Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực
trong việc giảm đáng kề việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín
dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn
vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết
kiệm hơn. vốn tín dụng đầu tư phát triền của Nhà nước là một hình thức quá độ
chuyển từ hình thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các
dự án có khả năng thu hồi vốn trục tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ
công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà
nước thực hiện việc khuyến khích phát triền kinh tế ngành, vùng, lĩnh vực theo
chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này
không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu
phát triền xã hội. Việc phân bô và sử dụng nguồn vón tín dụng đầu tư còn khuyến
khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như
xóa đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư và phát triền của nàh
nước có tác dụng rất tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước: Nguồn vốn này chủ
yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà
nước. Theo bộ kế hoạch và đầu tư, thông thường nguồn vốn của doanh nghiệp
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
4
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu
tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đối mới thiết bị, hiện đại hóa day chuyền
công nghệ của doanh nghiệp.Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền
kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn.
Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực
thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước
vẫn đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với chủ trương
tiếp tục đối mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế
này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày
càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
2.1.2. Nguồn von của dân cư và tư nhân:
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần
tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các họp tác xã. Theo ước tính của bộ kế
hoạch và đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm
bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia gián
tiếp vào đầu tư vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của
dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trục tiếp khoảng 5% GDP và
bằng 33% số tiết kiệm được. Trong giai đoạn 2001- 2005, vốn đầu tư của dân cư
và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn tiếp
theo, nguồn vốn này sẽ tiếp tục gia tăng cả về quy mô và tỷ trọng.
Thực tế thời gian qua cho thấy đầu tư của khu vực tư nhân và hộ gia đình
có vai trò đặc biết quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, tiếu thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Trong 20 năm thực
hiện chính sách đôi mới, nhà nước liên tục hoàn thiện các chính sách nhằm tạo
điều kiện cho khu vực kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế hộ gia đình mạnh dạn bỏ
vốn đầu tư và phát triển đan xen, hỗn hợp các hình thức sở hữu trong nền kinh tế.
Với Luật Doanh nghiệp thống nhất (2005) và Luật đầu tư chung (2005) chính
thức có hiệu lực từ giữa năm 2006, các tầng lớp dân cư và khu vực kinh tế tư
nhân sẽ tiếp tục được khuyến khích, động viên đại bộ phận tích lũy cho đầu tư
phát triển.
Với khoảng vài trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh (doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cố phần, hợp tác xã) đã, đang và sẽ đi
vào hoạt động, phần tích lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể
vào tống quy mô vốn của toàn xã hội. Bên cạnh đó, nhiều hộ gia đình cũng đã trở
thành đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất
nông nghiệp và tiều thủ công nghiệp. Ớ mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng
là một trong những kênh tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào tu nhập và chi tiêu của các hộ
gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
5
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
đất nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết
kiệm thấp); Tập quán tiêu dùng của dân cư; Chính sách động viên của nhà nước
thông qua các chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.
2.2. Nguồn vốn nước ngoài:
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm bộ phận tích lũy của cá
nhân, các doanh nghiệp, các tố chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy
động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là
dòng lun chuyển vốn quốc tế (International Capital Flows), về thực chất, các
dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
6
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lun chuyển
vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường
được các nước có thu nhập thấp đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với
nhiều hình thức. Mồi hình thức có đặc điếm, mục tiêu và điều kiện thực hiện
riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân
loại các nguồn vốn nước ngòai chính như sau:
- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - Official Development
Finance). Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA - Offical
Development Assistance) và các hình thức viện trợ khác. Trong đó, ODA chiếm
tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF. Vì vậy, khi đề cập đến nguồn tài trợ phát
triến chính thức chỉ đề cập đến nguồn ODA
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2.2.1. Nguồn vốn ODA:
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tố chức quốc tế và các
chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển.
So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn
von ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài,
khối lượng cho vay lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn
gọi là thành tố hồ trợ) đạt ít nhất 25%.
yếu tố không hoàn lại (thành tố hỗ trợ) của từng khoản vay được xác định
dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong
năm và tỷ suất chiết khấu. Công thức tính hệ số thành tố tài trợ (GE) như sau:
Trong đó:
- 1/ ạ + dyG-\/ (1 + d)aM
GE = 100% [1
d
d (a M - a G )
r- Tỷ lệ lãi suất hàng năm
a- So lần trả nợ trong năm
cỉ- Tỷ su at chiết khẩu GThời gian ân hạn M- Thời
hạn cho vay
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
7
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
Trong thời gian qua, việc thu hút ODA phục vị cho sự nghiệp công nghiệp
hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nuớc và quốc tế
có nhiều thuận lợi. Kể từ năm 1993 đến hết năm 2006, Việt Nam đã tô chức được
14 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ với tống mức vốn cam kết hơn 36 tỷ
USD. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay Việt Nam có trên 45 đối tác hợp tác
phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quố tế và phi chính phủ đang hoạt
động.
Trong số vốn ODA cam kết nói trên bao gồm cả viện trợ không hoàn lại
chiếm khoảng 15-20% và phần chủ yếu còn lại là vay ưu đãi. số vốn ODA cam
kết này được sử dụng trong nhiều năm, tùy thuộc vào các chương trình và dự án
cụ thể. Căn cứ vào chính sách ưu tiên sử dụng ODA, Chính phủ Việt Nam đã
định hướng nguồn vốn ODA ưu tiên cho các lĩnh vực giao thông vận tải; phát
triền hệ thống nguồn điện, mạng lưới chuyển tải và phân phối điện; phát triển
nông nghiệp và nông thôn bao gồm cả thủy lợi, thủy sản, lâm nghiệp kết hợp xóa
đói giảm nghèo; cấp thoát nước và bảo vệ môi trường; y tế, giáo dục và đào tạo;
khoa học và công nghệ, tăng cường năng lực và thể chế...
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ 20062010, Chính phủ Việt Nam tích cực chủ truơng huy đọng mọi nguồn vốn trong
đó nguồn vốn ODA vẫn tiếp tục đóng vị trí quan trọng. Tổng nguồn vốn ODA
thực hiện dự kiến khoảng 11-12 tỷ USD trong 5 năm 2006-2010 chiếm khoảng
80% tống vốn ODA cam kết.
Khi xem xét trên góc độ nguồn vốn đầu tư, ODA là một trong những
nguồn vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong quản lý và sử dụng nguồn vốn này, một
phần vốn ODA có thề đưa vào ngân sách đáp ứng mục tiêu chi cho đầu tư phát
triển của nhà nước, một phần có thế đưa vào các chương trình tín dụng un đãi đầu
tư của nhà nước và một phần có the vận hành theo các dự án độc lập. Theo ước
tính phần chuyến vào ngân sách nhà nước chiếm khoảng 15% tổng vốn đầu tư
của ngân sách nhà nước.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm
các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục
chuyển giao vốn và thị trường...). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này
với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tống thế.
Neu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho
nền kinh tế. Tức là ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có
phương pháp thoả thuận đê vừa có thê nhận vốn, vừa bảo đảm được những mục
tiêu có tính nguyên tắc.
2.2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế:
Đây là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay từ các ngân hàng thương
mại quốc tế với một mức lãi suất nhất định. Sau một thời gian, các nước này phải
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
hoàn trả cả vốn và lãi, các ngân hàng thương mại quốc tế sẽ thu được lợi nhuận từ
lãi suất của khoản vay.
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn
vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng
buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường
là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở
ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và
xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại
thường được sử dụng chủ yếu đê đáp ứng nhu cầu xuất khấu và thường là ngắn
hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ
trọng của nó có thế gia tăng nếu triến vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài,
đặc biệt là tăng trưởng xuất khấu của nước đi vay là sáng sủa. Đối với Việt Nam,
việc tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế.
2.2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ đối với các
nước nghèo mà kề cả các nước công nghiệp phát triển.
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn
nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước
tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi
nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trục tiếp nước
ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể
thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về trình
độ kỳ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực
kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyên dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ
tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư.
Không những là nguồn vốn bổ sung quan trọng, đầu tư trực tiếp nước
ngoài còn đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện
cái cân thanh toán quốc tế. Ngoài ra đóng góp cho ngân sách nhà nước của khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng rất đáng kề ( hàng năm khu vực kinh
tế này đã nộp ngân sách nhà nước hàng tỷ USD).
2.2.4. Thị trường von quốc tế:
Là nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới, bằng việc
bán trái phiếu, cổ phiếu của chính phủ, các công ty trong nước ra nước ngoài.
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
9
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
Nguồn vốn này có thể huy động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài để
đáp ứng nhu cầu về vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện
về tín dụng quan hệ cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan
hệ khác. Bên cạnh đó còn tạo điều kiện cho nước tiếp nhận vốn tiếp cận với thị
trường vốn quốc tế .
Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường
vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế các nguồn
vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyến trên phạm vi toàn
cầu. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng
khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Trong những năm gần đây dòng vốn này đã và
đang có xu hướng tiếp tục gia tăng.
3. Bản chất của vốn đầu tư:
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích luỹ mà nền kinh tế có thế huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã
hội. Điều này được cả kinh tế học cố điển, kinh tế chính trị học Mác - Lênin và
kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc’’ (1776), Adam Smith, một đại diện
điền hình của trường phái kinh tế học cồ điến đã cho rằng: “Tiết kiệm là nguyên
nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phãm đê tích luỹ cho quả trình
tiết kiệm. Nhưng dù cỏ tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì
von không bao giờ tăng lên ’’.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ
giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến
tích luỹ, c. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế hai khu vực, khu
vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu
tống giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + V + m) trong đó c là phần tiêu hao
vật chất, (v + m) là phần giá trị mới tạo ra. Khi đó, điều kiện đế đảm bảo tái sản
xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v + m) của khu
vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vục II. Tức là:
(v + m)I > cll
Hay nói cách khác:
(c + V + m)I > cll + cl
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ
bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn
phải dư thừa đê đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
10
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vục phải lớn hơn giá trị sản
phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mân, nền kinh
tế mới có thể dành một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư
cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô
đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời
phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác phải tăng
cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu tiêu
dùng ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điếm của C.Mác,
con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài đế tái sản xuất mở rộng là phát triển
sản xuất và thực hành tiết kiệm cả ở trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách
khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự
gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điếm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà
kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nối tiếng “Lý thuyết tông quan
về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã chứng minh
được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không được chuyên vào tiêu
dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập
so với tiêu dùng.
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập - Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
Hay:
(I) = (S)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính song
phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu
dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc
cung ứng dịch vụ và tông chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được
bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện
hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về
tổng thê phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm
không thể khác vơí phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư.
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
11
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.
Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân
và tiết kiệm của chính phủ. Điêm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc
độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hay
doanh nghiệp nào. Có thế có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời diêm nào đó có
tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân,
doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỳ chưa đầy đủ. Khi đó thị
trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết nguồn vốn từ nguồn
dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà
đầu tư có thể phát hành cố phiếu, trái phiếu (trên cơ sở một số điều kiện nhất
định, theo quy trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào đó tù’
các doanh nghiệp, hộ gia đình hay các cá nhân - người dư thừa hoặc tạm thời dư
thừa vốn.
Trong nền kinh tế mở, đắng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn
hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang cho nước
khác đế thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thế nhỏ hơn
nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong
trường họp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài
khoản vãng lai.
CA = s -1
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu như nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ
nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu
tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một
trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Neu tích luỹ của nền
kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản
vãng lai thì quốc gia đó có thế đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay
vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TU TRONG NƯỚC
VA NƯỚC NGOÀI
2. Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nưóc và nưóc ngoài.
Sau khi tiến hành cải cách nền kinh tế năm 1986 nền kinh tế Việt
Nam dần mở cửa đế cho nền kinh tế phát triển theo quy luật vốn có của nó-nền
kinh tế thị trường cũng là lúc các nhà đầu tư nước ngoài thăm dò và bắt đầu bỏ
vốn để đầu tư vào Việt Nam. Kể từ đó đến nay nguồn vốn từ nước ngoài đổ vào
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
12
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
ngày càng nhiều mặc dù có giai đoạn giảm sút. Việt Nam đã huy động một khối
lượng vốn rất lớn từ bên ngoài để phát triển kinh tế-xã hối có thời kì hoạt động
của nguồn vốn bên ngoài còn đóng góp nhiều hơn so với nguồn vốn trong nước
vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhưng đối với sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế một quốc gia, nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có
mối quan hệ hữu cơ, bố sung cho nhau trong đó nguồn von trong nước đóng vai
trò quyết định và nguồn vấn đầu tư nước ngoài đóng vai trỏ quan trọng không
thê thiếu
1. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định:
/. 1 Vốn trong nước với vấn đề phát triển kinh tế
Vốn trong nước luôn được coi là nội lực, bệ phóng cho phát triên nền kinh
tế
Vốn trong nước với là nguồn đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho phát triển
kinh tế. Bên cạnh đầu tư nước ngoài, vốn trong nước dành cho tái đầu tư, mở
rộng quy mô phát triến cũng như thành lập thêm những mảnh ghép quan trọng
của nền kinh tế luôn được đặc biệt quan tâm và chiếm tỷ lệ cao.
Nguồn Vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội, góp
phần thúc đấy tăng trưởng phát triền kinh tế. Với việc vốn trong nước được đưa
vào tái đầu tư, nó góp phần tăng GDP theo hệ số nhân tiền, với việc vốn trong
nước dành cho phát triến kinh tế ngày càng cao, đồng nghĩa với việc đóng góp
vào GDP của nguồn vốn này ngày càng lớn.
Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đôi
cơ cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng
trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều. Các doanh nghiệp nhà nước là hạt nhân
trong vai trò này. Khi các doanh nghiệp nhà nước được coi là xương sống của
nền kinh tế, việc thành lập, đưa vào hoạt động cũng như định hướng phát triển
cho các doanh nghiệp nhà nước đóng góp rất tích cực cho vai trò này.
Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo sự phát triền toàn diện,
không lệch lạc giữa các vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế
tăng trưởng, phát triển mộtc cách bền vũng. Việc nhà nước dành vốn đế đầu tư
phát triển cho các khu vực còn khó khăn, hay cân đối nguồn vốn giữa các vùng
thể hiện rất rõ vai trò này.
Nguồn vốn trong nước góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế, đấy
nhanh tiến trình cố phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
13
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
trưởng và phát triền kinh tế. Việc huy động vốn trong xã hội, mà chủ yếu là từ
khu vực tư nhân và dân cư an toàn hơn nhiều so với việc in tiền hay vay từ nước
ngoài bởi nó hạn chế được lạm phát hay nguy cơ nợ nước ngoài, cũng theo
hướng này, tiến trình cố phần hóa doanh nghiệp nhà nước được đây nhanh, tạo đà
cho tăng trưởng và phát triền kinh tế
Nguồn vốn trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một trình độ
nhất định tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như tăng
tính hiệu quả, nhanh chóng của việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tạo nền tảng
vững chãi cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do việc xây dựng cơ sở hạ tầng
yêu cầu vốn lớn và thời gian đầu tư dài, nên việc nhà nước dùng vốn trong nước,
chủ yếu là ngân sách nhà nước đế hoàn thiện cơ sở hạ tầng là một trong những
vai trò quan trọng.
Sự lớn mạnh, ốn định nguồn lực vốn trong nước giúp hạn chế những mặt tiêu
cực của nguồn lực nước ngoài tới nền kinh tế, đồng thởi tạo dựng một khung
xương vững chắc cho nền kinh tế, chống lại những cơn sóng gió từ thị trường
kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2 vốn trong nước với các vấn đề xã hội
Nguồn von trong nước góp phần tích cực trong công cuộc xóa đói giảm
nghèo, đảm bảo an sinh và công bằng xã hội.
Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhàm giải
quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Các chương trình
134,135 của chính phủ. Đảm bảo an sinh và công bằng xã hội đầu tư vào
những khu vực khó khăn để vực dậy nền kinh tế của khu vực đó tạo công ăn
việc làm,cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống,khắc phục thiên tai,bệnh
dịch và thực hiện cún trợ xã hội... Đầu thập niên 1990, Việt Nam chuyến sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã
được nhận rõ, do đó bên cạnh việc được hỗ trợ từ bên ngoài, việc tích cực sử
dụng và sử dụng thông minh nguồn vốn trong nước là một vấn đề mang tính
quyết định hiệu quả của công cuộc này.
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
14
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
2. Nguồn vốn đầu tư nưóc ngoài đóng vai trò quan trọng:
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã thực sự góp phần chuyển dịch cơ cấu
của nền kỉnh tế Việt Nam từ tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời
nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp.
Thúc đấy sự chuyến dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá; mở ra nhiều ngành nghề, nhiều sản phẩm mới đa dạng, phong phú, đấy
mạnh xuất khâu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ cho nhà nước; đã dẫn nhập những công
nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến vào việc phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều
việc làm cho người lao động,...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước, góp phần thúc đẩy
chuyến giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam trong một số ngành kinh tế quan
trọng của đất nước như viẽn thông, khí hoá dầu, tin học, ô tô...
Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài còn có tác động lan toả đến các thành
phần kinh tế khác trong nền kinh tế thông qua sự liên kết doanh nghiệp.
Trong 20 năm qua, đầu tư nước ngoài cũng đã đem lại cho Việt Nam
những cơ hội được tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới. Nhờ đó năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam
cũng được nâng lên.
Đóng góp quan trọng dễ thấy nhất đó là tăng cường nguồn vốn đầu tư cho
tăng trưởng.
Chuyến giao công nghệ qua các dự án FDI là một trong những kênh
chủ yếu, có tính đột phá đe nâng cao năng lực công nghệ của Việt Nam.
Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân lực vận
hành, quản lý và nhờ học qua làm (learning by doing), nhờ đó đã hình thành được
đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ, tay nghề khá cao.
Đẩy mạnh xuất khẩu cũng là đóng góp nổi bật, thể hiện rõ nét vai trò của
FDI trong suốt 20 cải cách kinh tế vừa qua.
Nhìn chung, đầu tư nước ngoài đóng góp đáng kế vào sự tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam. Các dự án đầu tư nước ngoài đã làm thay đối dần đời sống
sản xuất, kinh doanh của địa phương, có tác dụng kích thích sản xuất của các
thành phần kinh tế khác phát triển. Bên cạnh đó, kết quả sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng khả quan trong năm 2003 và được Cục
Đầu tư nước ngoài (Bộ Ke hoạch và Đầu tư) đánh giá là “... Có sự chuyến biến
mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng cao hơn các thành phần kinh tế khác”. Cụ thế,
năm 2003, doanh thu của khu vục này đạt 16 tỉ USD, tăng hơn 30% so với năm
trước, trong đó riêng doanh thu xuất khẩu đạt 6,3 tỉ USD, chiếm 31% tống kim
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
15
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
ngạch xuất khẩu cả nước. Nhờ những kết quả trên nên khu vực đầu tư nước ngoài
đóng góp khoảng 14,3% GDP cả nước. Trên 4.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã tạo việc làm ổn định cho khoảng 700 ngàn lao động trong nước,
chưa kể những lao động gián tiếp tại các vùng nguyên liệu trên phạm vi toàn
quốc. Các dự án đầu tư nước ngoài đã khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng,
làm thay đối cơ cấu kinh tế địa phương cũng như vùng lãnh thố, tạo cơ hội đấy
mạnh sự họp tác, liên kết kinh tế trong phạm vi tỉnh, thành phố. Năm 2003, một
số địa phương đã tăng cường xúc tiến đầu tư với hoạt động xúc tiến trực tiếp ở cả
trong, ngoài nước và thu được những kết quả tích cực, như Nghệ An, Quảng
Nam, Bình Dương...
Tạo việc làm cũng là đóng góp quan trọng, không thế phủ nhận của
khu vực Đầu tư nước ngoài.
Khi đầu tư vào Việt Nam, khu vực đầu tư nước ngoài đã thành lập ra rất
nhiều việc làm ở các lĩnh vực mà nó đầu tư vào, trong đó nhiều lao động đã được
đào tạo ở trong và ngoài nước. Mặc dù so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì số
việc làm được tạo ra còn hạn chế, nhưng “chất lượng” của lực lượng lao động
trong khu vực đầu tư nước ngoài tốt hơn rõ rệt. Nhiều cán bộ, công nhân trong
khu vục này đã và đang là những “hạt nhân” để phát triền lực lượng lao động
trình độ, tay nghề cao của Việt Nam. Thêm vào đó, số việc làm tạo ra nhờ hiệu
ứng lan tỏa của khu vực đầu tư nước ngoài cũng có thể là một con số đáng kế.
Mặt khác, trong suốt 20 năm qua, vồn đầu tư nước ngoài đã đóng góp
đáng kế vào nguồn thu ngân sách Nhà nước cũng như đưa vào ngân sách đáp
ứng mục tiêu chi cho đầu tư phát triển của nhà nước.
Đầu tư nước ngoài góp phần phát triển thương hiệu quốc gia
Nhận thức được rõ ràng vai trò quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài đối
với nền kinh tế, việc tìm cách thu hút nguồn vốn này cho phát trien kinh tế càng
quan trọng.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, khi quyết định đầu tư vào một quốc gia
nào thì đó không chỉ đơn thuần là nơi đặt nhà máy sản xuất mà quốc gia đó còn
đem lại những lợi thế về sản phẩm do nhận thức về hình ảnh và tên tuổi của đất
nước nơi đặt nhà máy đem lại cho nhà đầu tư.
Vì thế, phát triển một thương hiệu quốc gia để thu hút vốn đầu tư từ
nước ngoài là một công việc rất quan trọng, đặc biệt là đối với những nước
đang phát triển như Việt Nam.
Chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần nằm trong một kế hoạch
tông thê xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia. Phát triển thương hiệu
quốc gia dành cho vốn đầu tư nước ngoài là các hoạt động xúc tiến nhằm tạo ra
một hình ảnh hấp dẫn về một quốc gia như là một địa điểm đầu tư lý tưởng.. Do
đó, phát triển thương hiệu vốn đầu tư nước ngoài thường được những cơ quan
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
16
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
xúc tiến đầu tư quốc gia chịu trách nhiệm thực hiện để cung cấp thông tin cho
những nhà đầu tư tiềm năng và cung cấp dịch vụ cho những đầu tư tương lai.
Phát triển thương hiệu quốc gia để thu hút vốn đầu tư nước ngoài không phải là
một công việc mới mẻ, nhưng tiến trình này chỉ trở nên mạnh mẽ hơn khi quá
trình toàn cầu hóa đã tạo ra sự tăng trưởng chưa từng có các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài từ những nước phát triển và đang phát triển. Phát triến thương hiệu
quốc gia cho nguồn vốn này có tính bền vững hơn so với các công cụ khác đê thu
hút vốn nước ngoài như các chính sách ưu đãi về thuế, đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ
trợ của chính phủ, xây dựng các khu chế xuất.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, đăm
bảo cho nhu cầu ngoại tệ của đất nước, nâng cao năng lực xuất nhập khẩu,
đầu tư ra nước ngoài và trả nợ, tạo đà tăng trưởng vả phát triển.
Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn, có phải đon thuần chỉ là tăng thêm về
lưọìig???
Như chúng ta đã biết, đầu tư phát triển là một điều sống còn trong thời đại
ngày nay, chỉ có đầu tư phát triển và mở rộng sản suất thì mới có thể có khả năng
tồn tại và phát triển trong thời đại này, và không chỉ có đầu tư trong nước mà các
doanh nghiệp còn vươn cánh tay của mình ra nước ngoài.Trong phạm vi của đề
tài này thì chúng ta chỉ xem xét tới ảnh hưởng của hai nguồn vốn trong nước và
nước ngoài đối với các nước tiếp nhận nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào.
Đầu tiên chúng ta có thế thay ngay được rằng, nguồn vốn nước ngoài làm
gia tăng nguồn vốn của toàn xã hội, xét về mặt số lượng thì hai nguồn vồn này
cộng lại với nhau thành 1 nguồn lực lớn hơn. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế thì
chúng ta không chỉ đơn thuần xem xét về mặt số lượng mà chúng ta còn phải tìm
hiêu sự tương tác giữ hai nguồn vốn, khi nào chúng bô sung, hồ trợ cho nhau, và
khi nào chúng kìm hẫm nhau, làm cho nền kinh tế bị ảnh hưởng và lâm vào tình
trạng khó khăn?? Liệu rằng vốn đầu tư nước ngoài có thê thay thế cho vốn trong
nước hay chỉ là sự bố sung đế tạo xung lực phát triển??? Phần này chúng ta sẽ
giải quyết để làm sáng tỏ những câu hỏi đó.
Xét trên phép tính ban đầu, chúng ta có ba trường hợp:
1+1=2: Đây không chỉ là sự kết hợp về mặt số lượng mà còn thể hiện sự
riêng rẽ về tác động của 2 nguồn vốn. Điều này chứng tỏ việc chưa có sự tương
tác giữa 2 nguồn vốn, đây là truửng họp rất hiếm gặp và thường khó xảy ra trong
thực tế, thực chất điều này chỉ đúng khi xét về số lượng, còn hai nguồn vốn trong
nước và nước ngoài thực tế luôn vận động và tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy
nhiên điều này có thể đúng với giai đoạn đầu trong quá trình vốn nước ngoài mới
được chuyên vào các nước đang và chậm phát triển, lúc này thì vốn nước ngoài
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
17
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
chưa kịp phát huy tác hết tác dụng của mình.
1+I>2: Khi hai nguồn vốn tương tác với nhau đã thúc đấy sự hồ trợ phát
triển giữa hai nguồn vốn tạo thêm các giá trị gia tăng tích cực, thể hiện qua:
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu vốn cho tăng trưởng và
phát triển là rất lớn, tuy nhiên tiềm lực về kinh tế tài chính lại có hạn, vì vậy việc
có thêm nguồn vốn ngoài nước là khá quan trọng, góp tăng tông vốn đầu tư cho
toàn xã hội trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Một khi hiểu, nắm rõ và vận
dụng hiệu quả mối quan hệ hữu cơ giữa hai nguồn vốn này, sẽ góp phần làm gia
tăng của cải của quốc gia đó. Điều này được thể hiện qua các khía cạnh cụ thế
như:
Góp phần làm tăng tính đa dạng của trong các loại hình doanh nghiệp. Bên
cạnh những doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân còn có thêm các doanh nghiệp
liên doanh với nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tức là việc
xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp mới và nhiều lĩnh vực, thành phần kinh tế
mới ra đời ra môi trường kinh doanh cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp trong
nước phải gia tăng khả năng cạnh tranh của mình đế có thể tồn tại và phát triển
khi phải đối đầu với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có lợi thế hơn về
nhiều mặt. Việc xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp với các hình thức sở hữu
vốn khác nhau phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở
Việt Nam. Phát triến kinh doanh đa dạng linh hoạt cũng góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân trong nước: nhiều mặt hàng,dịch vụ mới ra đời
đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, hai nguồn vốn có tác động với nhau và tác động tới chuyến dịch
cơ cấu kinh tế: nhanh chóng, đúng hướng và ngày càng hoàn chỉnh.
Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội được đầu tư nâng cao hơn .
Ngoài ra mối quan hệ giữa hai nguồn vốn còn góp phần thúc đấy phát
triển năng lực khoa học công nghệ cho quốc gia, đặc biệt là qua các dự án có vốn
đầu tư trục tiếp nước ngoài. Tạo cú hích cho khoa học công nghệ:thông qua việc
chuyên giao công nghệ. Điều này thê hiện ở việc chuyển giao công nghệ tiên
tiến, đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực. Các doanh nghiệp trong nước, muốn
cạnh tranh được cũng buộc phải học hỏi, nâng cao các năng lực này của mình.
Nhờ đó góp phần tạo ra một nền khoa học công nghệ tiên tiến cho quốc gia cũng
như nguồn nhân lực chất lượng cao.
Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội được đầu tư nâng cao hơn:những nguồn
vốn vay ưu đãi của nước ngoài giúp Chính phủ đầu tư tốt hơn cho cơ sở hạ
tầng,và giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.
Khi nhận thức rõ ràng về mối quan hệ tích cực giữa hai nguồn vốn, sẽ góp
phần sử dụng hiệu quả và có chất lượng, điều này góp phần nâng cao vị thế của
quốc gia trên trường thế giới cũng như uy tín của thương hiệu quốc gia.
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
18
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
I+I<2: Đây là khi 2 nguồn vốn trong và ngoài nước kìm hãm nhau phát
triển, thậm chí gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế xã hội của một quốc gia.
về điểm này thì có lẽ là ít người nghĩ tới, vì đó chính là mặt trái của vốn đầu tư
nước ngoài. Với tâm lí chuộng hàng ngoại, nhất là với các nước đang và chậm
phát triển khi mà nhận thức cuả người dân còn chưa cao thì tâm lí sính ngoại là
điều đương nhiên, nhất là trong thời kì hôi nhập và phát triển như ngày nay.
Thế nên vốn nước ngoài cũng như được bao phủ xung quanh bởi một lớp
hào nhoáng như vậy, nhưng dưới con mát của các chuyên gia kinh tế thì nó cũng
đã bộc lộ không ít những nhược diềm và những nhược điềm của nó ảnh hưởng
đáng kể tới nguồn vốn trong nước.
Thứ nhất: là vấn đề vốn đối ứng. thông thường để vốn đầu tư nước ngoài
muốn phát huy tác dụng cần có một tỉ lên vốn đối ứng trong nước thích hợp. Tỉ
lệ này khác nhau tùy theo ngành và mức độ kĩ thuật mà vốn nước ngoài rót vào.
Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn nước ngoài thì trong nước cũng cần phải
chuẩn bị một số cơ sở nhất định tạo điều kiện cho vốn nước ngoài phát huy được
hiệu quả . về mặt kĩ thuật thì có thê đưa ra một tỉ lệ xác định giữa vốn nước
ngoài và vốn đối ứng. Tính tương đồng về những yêu cầu đầu tư trên nhưng nét
cơ bản giữa các nước đang phát triển cho phép, tù' kinh nghiệm quốc tế , xác định
trên đại the tỉ lệ này trong từng giai đoạn cụ thể.
Trong giai đoạn đầu do nhu cầu vốn nghiêng về đầu tư cho hệ thống cơ sở
hạ tầng và phát triển nông nghiệp, tỉ lệ này thường là thấp( 1 đồng vốn nước
ngoài cấn 1-1,5 đồng vốn trong nước). Ớ giai đoạn sau, khi các chương trình đấu
tư nghiêng về các ngành công nghiệp chế biến, có hàm lượng vốn và kĩ thuật cao
thì tỉ lệ này thường tăng lên ( 1/ 1,5- 2,5)
Nói chung đây là những tỉ lệ bắt buộc về mặt kĩ thuật, nó đòi hỏi phải đáp
ứng đầy đủ nếu không muốn làm giảm hiệu quả đàu tu của vốn nước ngoài.
Khi phân tích kinh nhiệm của hàng loạt các nước đang phát triển, người ta
nhận thấy rõ rang không phải cứ một quốc gia cứ vay mượn nhiều vốn nước
ngoài thì đều đạt mức tăng trưởng cao. Chân lí thực tiễn ở đây dường như ngược
lại: đa số các nước vay mượn nhiều nhất đều không đạt tốc độ tăng trưởng tương
xứng, thậm chí còn bị suy thoái và quá tải vì nợ. Một lí do hiến nhiên là các nước
này không bảo đảm được tương quan hợp lí giữa vốn vay nước ngoài và vốn đối
ứng trong nước. Ket quả tất yêu hoặc là hiệu quả vốn đầu tư sản xuất rất thấp,
hoặc là phải chuyến một phần lớn vốn vay sang đầu tư tiêu dùng( nhập khấu hàng
tiêu dùng). Với mô hình phát triển hướng nội, thúc đẩy sản xuất thay thế nhập
khẩu, nói chung nền kinh tế dễ sa vào khuynh hướng huy động và sử dụng vốn
nước ngoài theo kiểu này.
Ớ nước ta ngay trong thời bao cấp, đã trả giá không ita cho việc rút ra bài
học này khi tiếp nhận và sử dụng viện trợ từ các nước bạn.
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
19
Mối quan hệ giữa nguồn vôn trong nước và nguồn vôn nước ngoài
Vấn dề đặt ra ở đây là cần phải chuẩn bị nguồn vốn đối ứng đủ khi đặt
chương trình vay mượn quốc tế và thu hút rộng rãi đậu tư nước ngoài vào trong
nước. Nhiệm vụ có liên quan là xác định rõ lịch biểu (tiến độ) vốn chảy vào để có
thế có các giải pháp huy động vốn trong nước kịp thời. Các giải pháp này bao
gồm trong cơ chế kích thích tiết kiệm và huy đông vốn tập trung qua ngân hàng.
Chúng liên quan tới toàn bộ hệ thống điều tiế vĩ mô thông qua các công cụ tiền tệ.
Kinh nghiệm tạo vốn đối ứng của các nước châu Á nói chung là rất hữu ích
và đa dạng dồi với những nước đi sau như chúng ta. Những giải pháp ấy chúng ta
sẽ nghiên cứu kĩ hơn trong phần sau của đề tài.
Thứ hai: Nợ nước ngoài và thâm hụt ngân sách. Ớ phần trên chúng ta vừa
nghiên cứu và chỉ ra rằng vốn đầu tư nước ngoài là một nguồn để trang trải và bù
đắp sự thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên ở phần này thì ta lại nêu ra một quan điếm
mới rằng vốn đầu tư nước ngoài có thế gây nợ, điều đó là đương nhiên, nhưng tại
sao lại gây thâm hụt ngân sách- điều ngày có đúng không, chúng ta hãy cùng
nghiên cứu.
Xét với nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) dù có điều kiện ưu đãi cao
nhất, cho đến các khoản vốn vay thương mại thông thường trên thị trường tài
chính quốc tế thì nghĩa vụ nợ (bao gồm trả lãi và nợ gốc) cũng luôn luôn đặt ra
cho người vay. Một cơ cấu nợ mà chiếm tỷ trọng lớn nhất là những khoản vay
thương mại “nóng”, lãi cao, và bằng những ngoại tệ không ổn định theo xu
hướng “đắt” lên sẽ chứa đựng những xung lực lạm phát mạnh. Những xung lực
này càng mạnh hơn nếu vốn vay không được quản lý tốt và sử dụng có hiệu quả,
buộc con nợ phải tiếp tục tìm kiếm các khoản vay mới, với những điều kiện có
thê ngặt nghèo hơn - chiếc bẫy nợ sập lại, con nợ rơi vào vòng xoáy mới: Nợ-vay
nợ mới-tăng nợ-tăng vay... Vòng xoáy này sẽ dẫn con nợ đến sự vỡ nợ hoặc vòng
xoáy lạm phát: Nợ-tăng nghĩa vụ nợ-tăng thâm hụt ngân sách-tăng lạm phát. Lúc
này dịch vụ nợ sẽ ngốn hết những khoản chi ngân sách cho phát triền và ốn định
xã hội, làm căng thẳng thêm trạng thái khát vốn và hỗn loạn xã hội. Hơn nữa,
việc “thắt lưng buộc bụng” trả nợ khiến nước nợ phải hạn chế nhập và tăng xuất,
trong đó có hàng tiêu dùng mà trong nước còn thiếu hụt, do đó làm tăng mất cân
đối hàng tiền, tăng giá, tăng lạm phát. Nợ nước ngoài có thể làm sụp đồ cả một
chính phủ, nhất là ở những noi tình trạng tham nhũng và vô trách nhiệm là phổ
biến của giới cầm quyền, đi kèm với việc thiếu những giải pháp xử lý mềm dẻo
khôn ngoan với nợ (đàm phán gia hạn nợ, đổi nợ thành đầu tư, đối cơ cấu và điều
kiện nợ, xin xoá nợ từng phần...). Do vậy, sự chủ động và tỉnh táo khống chế nợ
ở mức độ an toàn, theo những dự án đầu tư cụ thể, được luận chứng kinh tế - kỹ
thuật đầy đủ, và chấp nhận sự kiểm tra, giám sát của chủ nợ để tránh hao hụt do
tham nhũng hay sử dụng nợ sai mục đích là những nguyên tắc hàng đầu cần được
tuân thủ trong quá trình vay nợ nước ngoài.
Nhỏm 5 - Kinh tế đầu tư 49D
20
- Xem thêm -