MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .........................................................................................................................................2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ GATS ............3
1.
2.
Các định nghĩa..............................................................................................................................3
1.1
Khái niệm Dịch vụ theo GATS .............................................................................................3
1.2
Thương mại dịch vụ ..............................................................................................................3
Nội dung chủ yếu của hiệp định GATS .......................................................................................4
2.1
Cấu trúc và phạm vi của GATS ............................................................................................4
2.2
Các nguyên tắc cơ bản trong GATS .....................................................................................5
2.3
Các cam kết cụ thể trong GATS ...........................................................................................6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI
DỊCH VỤ GATS VÀO VIỆT NAM ........................................................................................................7
1.
2.
Cam kết chung của Việt Nam dựa trên hiệp định GATS .............................................................7
1.1
Hạn chế về tiếp cận thị trường .............................................................................................7
1.2
Hạn chế về đối xử quốc gia ..................................................................................................8
Cam kết của Việt Nam & tác động của cam kết đối với một số ngành dịch vụ ở Việt Nam .......8
2.1
Dịch vụ phân phối ................................................................................................................8
2.2
Dịch vụ ngân hàng ( thuộc nhóm dịch vụ tài chính) ......................................................... 10
2.3
Dịch vụ vận tải biển ( thuộc nhóm dịch vụ vận tải)........................................................... 11
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
GATS TẠI VIỆT NAM ........................................................................................................................ 14
1.
2.
Giải pháp vĩ mô ......................................................................................................................... 14
1.1
Hoàn thiện hệ thống pháp luật .......................................................................................... 14
1.2
Phát triển thương mại dịch vụ song song với phát triển sản xuất hàng hóa ..................... 14
Giải pháp vi mô ......................................................................................................................... 15
2.1
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ...................................................... 15
2.2
Phát triển kiến thức, kỹ năng cho ngành nhân lực ............................................................ 16
KẾT LUẬN ........................................................................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................... 18
1
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, dịch vụ phát triển vô cùng nhanh chóng, từ một ngành phát triển tự
phát, chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế, nó đã trở thành một ngành kinh tế mũi
nhọn của nhiều quốc gia đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm
nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác.
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, tự do hoá thương mại dịch vụ là
một điều tất yếu. Tuy nhiên để thương mại dịch vụ phát triển có hiệu quả thì cần phải
xây dựng cho nó một khuôn khổ hoạt động có tính thống nhất. Để có được một quy tắc
đa phương điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ trên toàn thế giới, các nước thành
viên WTO đã tiến hành đàm phán thương lượng, và kết quả là Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ (GATS) đã ra đời. Đây là một trong ba nền tảng cơ bản của Tổ
chức thương mại Thế giới. Nó tạo ra những quy tắc đầu tiên về tự do hoá thương mại
dịch vụ trên phạm vi toàn cầu.
Trong xu thế tự do hoá thương mại dịch vụ, các ngành dịch vụ Việt Nam có
những bước phát triển rất đáng kể, trở thành ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Việt Nam đã từng bước nâng cao khả năng cạnh
tranh, tăng thị phần, cải thiện vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế thì sự
phát triển của các ngành dịch vụ Việt Nam còn tỏ ra nhiếu yếu kém như: trang thiết bị
nghèo nàn, lạc hậu; chất lượng dịch vụ chưa cao; trình độ đội ngũ nhân viên còn nhiều
hạn chế…dẫn đến năng lực cạnh tranh rất thấp. Do vậy trong tiến trình Việt Nam mở
cửa thị trường dịch vụ theo khuôn khổ Hiệp định GATS sẽ đặt các ngành dịch vụ của
Việt Nam trước những cơ hội và thách thức to lớn. Việc nghiên cứu Hiệp định GATS
và cam kết của Việt Nam trong quá trình mở cửa thị trường dịch vụ là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, chúng em
đã chọn đề tài “Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS” để làm đề tài tiểu luận
cho nhóm.
2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG
MẠI DỊCH VỤ GATS
1. Các định nghĩa
1.1 Khái niệm Dịch vụ theo GATS
Đối với hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS ( General Agreement on
Trade Services), dịch vụ bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trong tất cả các lĩnh vực, trừ các
dịch vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của chính phủ (1). Qua định nghĩa
chúng ta có thể thấy GATS không quá chú trọng đến việc định nghĩa về bản chất của
dịch vụ, hiệp định hàm ý những thành viên đều đã phải biết những hoạt động như thế
nào thì sẽ được gọi là dịch vụ. Thay vào đó, GATS giới hạn những dịch vụ chịu sự
điều chỉnh của Hiệp định. Nhưng dịch vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của
chính phủ không nằm trong phạm vi điều chỉnh của GATS. Đó là bất kỳ dịch vụ nào
được cung cấp không trên cơ sở thương mại, và cung không trên cơ sở cạnh tranh với
một hoặc nhiều nhà cung cấp dịch vụ. Việc loại trừ loại dịch vụ này ra khỏi phạm vi
điều chỉnh của GATS rõ ràng không hề tạo ra môi trường cạnh tranh bất bình đẳng
trong thương mại dịch vụ và do đó không mâu thuẫn với mục đích của hiệp định
GATS trong quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ. Để cụ thể hơn, GATS cũng phân
loại dịch vụ ra thành 12 nhóm và 155 loại hình. Mười hai nhóm ngành trong GATS
gồm có: các dịch vụ kinh doanh; các dịch vụ thông tin; các dịch vụ xây dựng; các dịch
vụ phân phối; các dịch vụ giáo dục; các dịch vụ môi trường; các dịch vụ tài chính; các
dịch vụ y tế; các dịch vụ du lịch; các dịch vụ văn hóa giải trí và thể thao; các dịch vụ
vận tải; các dịch vụ khác. Tuy nhiên GATS chỉ liệt kê các nhóm ngành và phân ngành
chứ không hề giải thích, chính vì thế người ta phải viện dẫn đến “Hệ thống phân loại
sản phẩm trung tâm tạm thời”- PCPC của Liên hợp quốc khi nói đến các ngành, nhóm
ngành dịch vụ trong biểu cam kết.
1.2 Thương mại dịch vụ
Theo GATS, thương mại dịch vụ là việc cung cấp dịch vụ:
- Từ lãnh thổ của một Thành viên đến lãnh thổ của bất kỳ một Thành viên nào khác.
Đây chính là việc cung cấp dịch vụ theo phương thức cung ứng qua biên giới (phương
thức (1)). Theo phương thức này, dịch vụ di chuyển qua biên giới, độc lập với người
tiêu thụ và người cung ứng dịch vụ. (Ví dụ như hoạt động chuyển tiền, giáo dục từ
xa…).
3
- Trên lãnh thổ của một Thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ Thành viên
nào khác. Đây là việc cung cấp dịch vụ theo phương thức tiêu dùng ở nước ngoài
(phương thức (2)). Theo phương thức này, người tiêu dùng dịch vụ sẽ di chuyển ra
khỏi nước mình để sang lãnh thổ của nước khác và tiêu dùng dịch vụ tại đó ( ví dụ: du
học, du lịch).
- Bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên, thông qua sự hiện diện thương
mại trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác. Việc cung cấp này thuộc về phương
thức hiện diện thương mại (phương thức (3)), trong đó người cung cấp dịch vụ di
chuyển qua biên giới để thành lập hiện diện thương mại của mình ở nước ngoài nhằm
tiến hành cung cấp dịch vụ ở nước ngoài ( ví dụ như việc thành lập văn phòng đại
diện, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, chi nhánh, công ty con..).
- Bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên thông qua sự hiện diện thể nhân
trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác. Hoạt động này là phương thức hiện diện
của thể nhân (phương thức (4)). Người cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện của tự
nhiên nhân ở một nước thành viên khác để cung cấp dịch vụ. Phương thức này chỉ áp
dụng đối với những ngành mang tính độc lập như giáo dục, tư vấn… ( ví dụ việc thuê
chuyên gia ở nước ngoài về Việt Nam giảng dạy).
Như vậy, việc phân ra bốn phương thức cung ứng dịch vụ theo GATS khá rõ ràng
và dễ hiểu, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thành viên trong việc đưa ra cam kết
trong các biểu cam kết cụ thể của riêng thành viên đó.
2. Nội dung chủ yếu của hiệp định GATS
2.1 Cấu trúc và phạm vi của GATS
Về mặt cấu trúc, Hiệp định chung về thương mại dịch GATS được chia làm ba
phần chính. Phần I là Hiệp định chính bao gồm 29 điều quy định, quy tắc và nghĩa vụ,
phần II là phần phụ lục với các quy định riêng rẽ cho từng lĩnh vực, phần III là các
cam kết cụ thể của các nước tham gia vòng đàm phán Urugoay, đưa ra các điều kiện
để tiếp nhận dịch vụ của các nước này.
Về mặt phạm vi, Hiệp định GATS được áp dụng đối với các biện pháp tác động
đến thương mại dịch vụ của các thành viên theo bốn phương thức cung ứng đã nêu ở
trên. Ngoại lệ của GATS sẽ là các dịch vụ được cung ứng để thi hành thẩm quyền của
chính phủ và một số dịch vụ thuộc lĩnh vực vận tải hàng không ( ví dụ như quyền lưu
không và dịch vụ liên quan đến quyền lưu không); hay các biện pháp liên quan đến
4
tiếp cận thị trường lao động, công việc vĩnh viễn, di dân và cư trú nước ngoài. Những
biện pháp mà GATS nêu ra là bất kỳ biện pháp nào của một nước thành viên, cho dù
dưới hình thức một luật lệ, một quy định, một quy tắc, thủ tục, quyết định, hoạt động
quản lý hành chính hay bất kỳ một hình thức nào khác. Các biện pháp có thể do Chính
phủ, các cơ quan trung ương, vùng hay địa phương áp dụng hoặc do các cơ quan phi
chính phủ áp dụng khi thực hiện các quyền hạn mà các cơ quan chính phủ, trung ương,
vùng hay địa phương giao cho.
2.2 Các nguyên tắc cơ bản trong GATS
GATS đưa ra rất nhiều nguyên tắc, trong đó nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (
MFN), nguyên tắc tính minh bạch, và các nguyên tắc liên quan đến doanh nghiệp độc
quyền là những nguyên tắc cơ bản và đáng được lưu tâm.
Nguyên tắc về đối xử tối huệ quốc ( MFN) nêu rõ “mỗi thành viên phải ngay
lập tức và vô điều kiện dành cho dịch vụ và những nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ
thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành viên đó
dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác”.
Nguyên tắc này được hiểu là để ngăn cản bất kỳ một Thành viên nào dành cho các
nước lân cận những lợi thế nhằm tạo thuận lợi cho việc trao đổi dịch vụ được tạo ra và
tiêu thụ trong phạm vi giới hạn của vùng biên giới. Ngoại lệ của nguyên tắc này là các
hiệp định ưu đãi song phương hay các hiệp định ưu đãi trong khuôn khổ hợp tác khu
vực.
Nguyên tắc về tính minh bạch cũng là một trong những nguyên tắc mà GATS
đưa ra nhằm đảm bảo môi trường thương mại tự do, lành mạnh cho tất cả chủ thể tham
gia kinh doanh. Các thông tin về luật pháp, chính sách điều tiết thương mại dịch vụ
đều phải được các thành viên công bố, hay bất kỳ bổ sung, sửa đổi về luật, thủ tục
hành chính có tác động cơ bản đến thương mại dịch vụ thuộc các cam kết cụ thể theo
Hiệp định này các nước thành viên phải nhanh chóng và ít nhất mỗi năm một lần thông
báo cho Hội đồng thương mại dịch vụ. Ngoài ra các thành viên phải thành lập các
điểm thông báo với thời hạn là 2 năm kể từ ngày hiệu lực để cung cấp thông tin cho
các thành viên khác khi họ có yêu cầu.
Nguyên tắc tiếp theo là các nguyên tắc liên quan đến độc quyền và các doanh
nghiệp kinh doanh độc quyền. Theo đó mỗi thành viên phải đảm bảo rằng bất kỳ nhà
cung cấp dịch vụ độc quyền nào trên lãnh thổ của mình không hành động trái với các
nghĩa vụ của Thành viên đó theo quy định tại Điều II của hiệp định và các cam kết cụ
5
thể, khi cung cấp dịch vụ độc quyền trên thị trường liên quan. Ngoài ra, nếu một nhà
cung cấp dịch vụ độc quyền cạnh tranh, trực tiếp hoặc thông qua các công ty trực
thuộc trong việc cung cấp dich vụ ngoài phạm vi độc quyền của mình và thuộc các
cam kết cụ thể của Thành viên đó, thì Thành viên đó phải đảm bảo rằng nhà cung cấp
dịch vụ sẽ không lạm dụng vị trí độc quyền của họ để tiến hành hoạt động trái với các
cam kết trên lãnh thổ của Thành viên này. Hơn thế nữa, các nước thành viên phải thiết
lập các thủ tục hành chính và nguyên tắc tố tụng minh bạch, khách quan đối với các
doanh nghiệp dịch vụ độc quyền.
2.3 Các cam kết cụ thể trong GATS
Cam kết đầu tiên trong GATS là cam kết về tiếp cận thị trường, trong đó mỗi
Thành viên phải dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các Thành viên
khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử theo những điều kiện, điều khoản
và hạn chế đã được thỏa thuận và quy định tại Danh mục cam kết cụ thể của mình.
Tuy nhiên việc cam kết tiếp cận thị trường chỉ có ý nghĩa đối với sáu biện pháp được
đề cập đến trong hiệp định. Đó là những biện pháp liên quan đến số lượng các nhà
cung cấp dịch vụ, giá trị của các hoạt động dịch vụ được thực hiện, số lượng hoạt động
dịch vụ được thực hiện, số lượng nhân viên, hình thức pháp lý của nhà cung cấp dịch
vụ và mức độ góp vốn trong liên doanh…
Cam kết thứ hai trong GATS là cam kết về đối xử quốc gia (NT). mỗi Thành
viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác
sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và
nhà cung cấp dịch vụ của mình. Trừ khi có cam kết khác trong biểu cam kết, các thành
viên không được phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Trên thực tế, trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, mức độ cam kết mở cửa còn dè dặt và
có nhiều hạn chết trong từng ngành, phân ngành dịch vụ đối vơi từng nước thành viên.
Vì vậy nguyên tắc NT áp dụng rất hạn chế, phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài với nhà cung cấp dịch vụ trong nước còn tồn tại ở nhiều mức độ
khác nhau.
Ngoài ra GATS còn có quy định về những cam kết bổ sung, liệt kê các biện
pháp ảnh hưởng đến hoạt động cung cấp và tiêu dùng dịch vụ nhưng không thuộc về
hạn chế tiếp cận thị trường hay hạn chế đối xử quốc gia.
Dựa trên nhưng quy định đó của GATS, Việt Nam đã đưa ra bảng cam kết cụ
thể của riêng mình trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH
CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ GATS VÀO VIỆT NAM
1. Cam kết chung của Việt Nam dựa trên hiệp định GATS
Dựa trên hiệp định GATS, Việt Nam cũng đưa ra biểu cam kết riêng cho các
ngành, nhóm ngành dịch vụ của mình trong đó các dịch vụ được chia thành 11 ngành,
110 phân ngành. Phần cam kết nề của Việt Nam có nội dung như sau:
1.1 Hạn chế về tiếp cận thị trường
Việt Nam chưa có quy định gì với phương thức (1) và (2). Điều này hàm ý nếu
Việt Nam không duy trì các quy định hoặc, biện pháp hạn chế áp dụng chung cho 2
phương thức này. Biện pháp hạn chế nếu có sẽ được nêu tại cam kết của từng ngành,
phân ngành.
Nếu dịch vụ được cung ứng theo phương thức (3), Việt Nam không hạn chế nếu
không có các quy định nào khác trong biểu cam kết cụ thể. Các doanh nghiệp được
phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức hợp đồng hợp
tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nếu
không có cam kết gì khác, trong đó hiện diện dưới hình thức đại diện thương mại
không được tham gia vào các hoạt động sinh lợi trực tiếp. Việt Nam chưa cam kết việc
thành lập chi nhánh trừ khi việc cho phép đó được quy định trong biểu cam kết cụ thể
(ví dụ dịch vụ ngân hàng hay dịch vụ máy tính được). Các doanh nghiệp có giấy phép
đã được cấp ra trước ngày cam kết đưa ra được phép bảo lưu hiện trạng, tức là không
bị thu hẹp lại những gì đã được cho phép trước ngày gia nhập WTO.
Trong khi về việc cho thuế đất đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
khá chung chung thì vấn đề góp vốn được quy định khá chi tiết. Trừ khi có quy định
khác, việc góp vốn cổ phần của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam
không được vượt quá 30% tổng số vốn điều lệ của doanh nghiếp đó. Sau 1 năm gia
nhập, hạn chế về tỷ lệ góp vốn sẽ bị bãi bỏ, trừ việc góp vốn mua cổ phần của các ngân
hàng thương mại cổ phần và với những ngành cam kết trong biểu cam kết này.
Đối với phương thức (4) chúng ta chưa cam kết ngoài trừ các biện pháp liên
quan đến nhập cảnh và lưu trú tạm thời của các thể nhân là người di chuyển trong nội
bộ doanh nghiệp, nhân sự khác, người chào bán dịch vụ và người chịu trách nhiệm
thành lập hiện diện thương mại và người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng. Trong đó
chỉ những cá nhân là người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp và các nhân sự khác (
7
thông thường là nhân sự được thuê để làm chức vụ quản lý trong công ty) được lưu trú
tối đa 3 năm tại Việt Nam và có thể được gia hạn thêm thời gian lưu trú. Các đối tượng
còn lại thì chỉ được lưu trú tối đa 90 ngày tại Việt Nam và không được gia hạn thêm
thời gian lưu trú. Trình độ chuyên môn, số lượng nhân sự nước ngoài trong từng
trường hợp và một số điều kiện khác cũng được quy định rõ ràng, đầy đủ trong biểu
cam kết.
1.2 Hạn chế về đối xử quốc gia
Việt Nam không có quy định gì đối với phương thức (1) và (2); không hạn chế đối
với phương thức (3) ngoài trừ các khoản trợ cấp có thể chỉ dành cho các nhà cung cấp
dịch vụ Việt Nam, nghĩa là các pháp nhân được thành lập trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc
một vùng của Việt Nam. Việc dành cho trợ cấp một lần để thúc đẩy và tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình cổ phần hóa không bị coi là vi phạm cam kết này. Tuy nhiên
đối với các khoản trợ cấp dành cho nghiên cứu và phát triển, y tế, giáo dục và nghe
nhìn, các hoạt động nâng cao phúc lợi và tạo công ăn việc làm cho đồng bào thiểu số
thì Việt Nam vẫn chưa có cam kết. Phương thức (4) chúng ta cũng chưa cam kết trừ
các biện pháp đã nêu tại cột tiếp cận thị trường.
2. Cam kết cụ thể của Việt Nam & tác động của cam kết đối với một số
ngành dịch vụ ở Việt Nam
2.1 Dịch vụ phân phối
2.1.1
Nội dung cam kết cụ thể
Đối với dịch vụ phân phối, Việt Nam cam kết đối với các loại hình dịch vụ là
dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, bán lẻ và nhượng quyền. Theo nội dung
cam kết, nhà phân phối nước ngoài phải chịu hạn chế về diện mặt hàng được phép
phân phối ở Việt Nam. Hạn chế này có thể được chia thành hai nhóm danh mục. Một
là danh mục hạn chế lâu dài bao gồm thuốc lá và xì gà, báo và tạp chí, vật phẩm ghi
hình, kim loại quý và đá quý, dược phẩm, thuốc nổ và dầu đã qua chế biến, gạo, đường
mía và đường củ cải. Đây là danh mục hàng nhạy cảm mà chính phủ Việt Nam chưa
có ý định cho nước ngoài tham gia phân phối tại Việt Nam, do đó các nhà phần phối
nước ngoài không được phép làm đại lý cũng như không được thành lập các công ty
bán lẻ để phân phối các mặt hàng này. Thứ hai là danh mục các mặt hàng hạn chế có lộ
trình cụ thể, các mặt hàng này được quy định tại cột hạn chế về tiếp cận thị trường mà
8
nhà phân phối nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được
phép phân phối tại Việt Nam trong một khoảng thời gian nhất định kể từ khi Việt Nam
gia nhập WTO bao gồm có xi măng và clinke, lốp ( trừ lốp máy bay), giấy, máy kéo,
phương tiện cơ giới, ôtô con và xe máy, sắt thép, thiết bị nghe nhìn, rượu và phân bón.
Theo lộ trình tới năm 2010 danh mục hạn chế thứ hai này sẽ được bãi bỏ hoàn toàn.
Tuy nhiên việc mở cửa cho danh mục hạn chế có lộ trình này không được áp dụng đối
với dịch vụ nhượng quyền thương mại.
Ngoại trừ một số nhóm có quy định trong biểu, Việt Nam chưa có cam kết gì
với phương thức (1) với phương thức (1). Còn đối với vấn đề vốn góp, nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài được thành lập với tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài sau khi Việt
Nam gia nhập WTO. Đến ngày 1/1/2008, họ sẽ được quyền tham gia vốn trong liên
doanh ở bất kỳ tỳ lệ nào nhỏ hơn 100%, và đến 1/1/2009 doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài được phép thành lập ở Việt Nam. Đặc biệt từ 1/1/2010 doanh nghiệp
nhượng quyền được phép hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền sẽ được thành lập
chi nhánh với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. Bên
cạnh đó, việc thành lập cơ sở bán lẻ của các doanh nghiệp phải được dựa trên nhu cầu
kinh tế với mộ số tiêu chí đánh giá như số lượng các nhà cung cấp dịch vụ đang hiện
diện tại một khu vực địa lý, sự ổn định của thị trường và quy mô địa lý.
2.1.2
Tác động của cam kết đối với ngành dịch vụ phân phối tại Việt Nam
Tham gia mở cửa trong thị trường phân phối đã đem lại không ít thuận lợi cho
Việt Nam. Vị thế của Việt Nam trên bản đồ bán lẻ toàn cầu trong những năm gần đây
có tăng (tăng 2 bậc từ năm 2009 đến năm 2010). Việc giữ được vị thế tốt này là do
Việt Nam mức độ tăng trưởng kinh tế tốt, dân số đông đảm bảo cho sức cầu duy trì,
đồng thời đặc điểm khác biệt của người tiêu dùng Việt Nam trong giai đoạn này là
tăng tiêu dùng cá nhân trong khi kinh tế khủng hoảng đã góp phần duy trì cầu nội địa
tốt đảm bảo cho ngành phân phối phát triển.
Từ ngày 1/1/2009, Chính phủ Việt Nam đã chính thức mở cửa ngành bán lẻ cho
các công ty nước ngoài, như một phần của cam kết khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, đến
hết năm 2009, do suy thoái kinh tế toàn cầu, những nhà bản lẻ quốc tế lớn đều hoãn kế
hoạch thâm nhập thị trường Việt Nam. Điều này cũng tạo điều kiện nhiều hơn cho các
doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có thời gian chuẩn bị và ổn định hệ thống. Trong nửa
sau của năm 2009 đã có một số chuyển động đáng chú ý của một số công ty nước
ngoài lớn. Circle K mở cửa hàng tiện lợi đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh trong
9
tháng sáu, và công bố mở rộng hơn nữa mạng lưới của mình trong các năm tiếp theo.
Trong một bối cảnh khác nhau, Aeon - một người khổng lồ Nhật Bản - cũng đàm phán
với Chính phủ Việt Nam cấp giấy phép đầu tư. Dự đoán rằng các nhà bán lẻ quốc tế sẽ
thâm nhập rất nhanh vào Việt Nam. Trong vài năm tới, ngành công nghiệp bán lẻ của
Việt Nam hứa hẹn sẽ có sự tham gia đầy đủ của các công ty quốc tế. Kênh hiện đại
như siêu thị, đại siêu thị, cửa hàng tiện lợi đều sẽ phát triển nóng. Từ đó sẽ giúp ra
tăng doanh thu và số điểm bán hàng của từng loại kênh trong hệ thống phân phối.
Tuy nhiên các nhà phân phối Việt Nam có thể sẽ vấp phải những khó khăn khi
đối mặt với những doanh nghiệp phân phối nước ngoài có tiềm lực mạnh về tài chính.
Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có những chiến lược cụ thể, tận dụng thời cơ khi các nhà
phân phối nước ngoài chưa tham gia nhiều vào thị trường để củng cố lại tiềm lực cho
mình.
2.2 Dịch vụ ngân hàng ( thuộc nhóm dịch vụ tài chính)
2.2.1
Nội dung cam kết cụ thể
Trong nhóm dịch vụ tài chính có ba nhóm lớn đó là dịch vụ bảo hiểm và các
dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác, dịch
vụ chứng khoán. Trong ba nhóm dịch vụ nhỏ được nhắc đến này thì dịch vụ ngân hàng
có nhiều điểm rất đáng lưu ý. Những phân ngành của dịch vụ ngân hàng cam kết trong
biểu được liệt kê khá cụ thể. Qua đó ta thấy Việt Nam hiện nay chưa cam kết đối với
phương thức (1) ngoại trừ việc cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu
tài chính cũng như các phần mềm liên quan của các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính
khác; và đối với các dịch vụ tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính phụ
trợ khác đối với tất cả các dịch vụ ngân hàng chủ yếu, kể cả tham chiếu và phân tích
tín dụng, nghiên cứu và tư vấn đầu tư và danh mục đầu tư về mua lại và về tái cơ cấu
và chiến lược doanh nghiệp . Các loại hình thức khác như nhận tiền gửi, cho vay,
thanh toán và chuyển tiền không được cam kết theo phương thức này.
Theo nội dung cam kết, các ngân hàng nước ngoài được phép thành lập các
hiện diện thương mại tại Việt Nam. Khi mới gia nhập các hiện diện thương mại này sẽ
bị giới hạn về tỷ lệ góp vốn, nhưng kể từ ngày 1/4/2008 được phép thành lập ngân
hang 100% vốn đầu tư nước ngoài. Để được thành lập chi nhánh thương mại hay, công
ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài phải đạt
được điều kiện nhất định về số lượng tài sản tùy theo loại hình và phương thức hoạt
động của công ty. Trong vòng 5 năm kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO , các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài phải chịu hạn chế về tỷ lệ huy động tiền gửi bằng đồng
10
Việt Nam từ thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quy định về tín dụng. Đến
ngày 1/1/2011 thì tỷ lệ vốn huy động sẽ được hưởng đối xử quốc gia đầy đủ, tuy nhiên
các chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài vẫn chưa được thành lập các điểm giao
dịch khác ngoài trụ sở chi nhánh của mình. Giống với quy định trong phần cam kết
chung, phần đóng góp cổ phần của doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được phép
nắm giữ tại mỗi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt nam không được vượt quá
30% vốn điều lệ của ngân hàng đó trừ khi luật pháp Việt Nam có các quy định khác
hay được sự cho phép của các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam. Như vậy, ngoài
những chính sách mở cửa thông thoáng cho ngành dịch vụ ngân hàng, Việt Nam cũng
đưa ra một số hạn chế nhất định nhằm bảo vệ cho các ngân hàng trong nước.
2.2.2
Tác động của cam kết đối với dịch vụ Ngân hàng ở Việt Nam
Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng của Việt Nam khá chặt chẽ do vậy
mức độ ảnh hưởng của cam kết này là không quá lớn. Tất nhiên nó cũng sẽ có những
ảnh hưởng nhất định tới ngành dịch vụ Ngân hàng tại Việt Nam. Trước hết, các cam
kết mở cửa thị trường ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam, từ đó thị trường tài chính ngân hàng sẽ ngày càng trở nên
sôi động và hiệu quả hơn. Sức ép cạnh tranh buộc các ngân hàng trong nước phải chủ
động điều chỉnh mô hình và chính sách quản lý, đào tạo nhân viên, ứng dụng công
nghệ thông tin nhằm tạo được lợi thế với các ngân hàng nước ngoài.
Tuy nhiên, với điểm yếu là các ngân hàng trong nước có qui mô nhỏ, nợ xấu
theo tiêu chuẩn quốc tế còn cao, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước; các
sản phẩm dịch vụ còn chưa đa dạng và chất lượng dịch vụ chưa cao nên việc tham gia
ngày càng nhiều của các ngân hàng nước ngoài có qui mô vốn lớn, năng lực cạnh tranh
cao và nắm giữ vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia sẽ chứa đựng rủi
ro tiềm tàng tới sự phát triển ổn định và bền vững của hệ thống tài chính; tính liêm
chính của hệ thống trước các hiện tượng rửa tiền và tài trợ khủng bố. Chính vì vậy,
Việt Nam luôn phải thận trọng trong tiến trình mở cửa, tự do hóa hoạt động của thị
trường tài chính.
2.3 Dịch vụ vận tải biển ( thuộc nhóm dịch vụ vận tải)
2.3.1
Nội dung cam kết cụ thể
Theo cam kết, công ty vận tải biển nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ vận
tải hàng hóa quốc tế (xuất nhập khẩu) sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào và được
đối xử công bằng như các công ty vận tải Việt Nam. Ngoài ra, các công ty này được sử
11
dụng các dịch vụ tại cảng biển Việt Nam dựa trên các điều kiện hợp lý và không phân
biệt đối xử , tuân thủ nguyên tắc đến trước phục vụ trước.
Đối với các hiện diện thương mại nước ngoài khác tại Việt Nam để cung cấp
dịch vụ vận tải thì có những quy định cụ thể như sau. Các công ty vận hành đội tàu
treo cờ Việt Nam, sau 2 năm kể từ ngày gia nhập sẽ được thành lập liên doanh với
phần đóng góp không vượt quá 49% - được phép vận hành để vận chuyển hàng hóa và
hành khách quốc tế. Các công ty này phải chịu sự kiểm soát về số lượng thuyền viên
nước ngoài. Các hình thức hiện diện thương mại nước ngoài để cung cấp dịch vụ vận
tải biển quốc tế đều phải chịu sự hạn chế về cả vốn góp và các hoạt động được thực
hiện. Về vốn góp, ngay sau khi gia nhập các công ty vận tải biển nước ngoài có thể
thành lập liên doanh trong đó tỷ lệ góp vốn không quá 51% , sau 5 năm kể từ ngày gia
nhập họ có thể được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Về phạm vi hoạt động,
sau khi gia nhập chỉ được thực hiện 5 hoạt động: Tiếp thị và bán dịch vụ vận tải biển
thông qua giao dịch trực tiếp với khách hàng từ việc niêm yết giá đến việc lập chứng
từ vận tải; đại diện cho chủ hàng; cung cấp các thông tin kinh doanh theo yêu cầu;
chuẩn bị tài liệu liên quan tới chứng từ vận tải; cung cấp dịch vụ vận tải biển bao gồm
cả dịch vụ vận tải nội địa bằng tàu mang cờ Việt Nam. Sau 5 năm các doanh nghiệp
nước ngoài sẽ được phép thay mặt công ty tổ chức cho tàu vào cảng hoặc tiếp nhận
hàng khi có yêu cầu; đàm phán ký kết hợp đồng vận tải….
Các dịch vụ hỗ trợ vận tải biển như dịch vụ xếp dỡ công ten nơ, dịch vụ thông
quan, dịch vụ kho bãi công ten nơ đều chưa được cam kết theo phương thức cung cấp
dịch vụ qua biên giới; không hạn chế đối với phương thức tiêu dùng dịch vụ ở nước
ngoài; không hạn chế đối với phương thức cung cấp thông qua hiện diện thương mại
ngoại trừ việc giới hạn về tỷ lệ góp vốn, và chưa cam kết đối với phương thức cung
cấp dịch vụ thông qua thể nhân.
2.3.2
Tác động của các cam kết đối với dịch vụ vận tải biển của Việt Nam
Thông qua hội nhập và hợp tác Việt Nam sẽ tranh thủ được nguồn vốn và kỹ
thuật tiên tiến, thu hút vốn đầu tư cho việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng trong
hoạt động vận tải. Từ đó nâng cao năng lực làm hàng trong ngành vận tải đường biển,
đến lúc đó, lợi thế địa lý là cửa ngõ giao thương giữa các nước trong khu vực của Việt
Nam mới thực sự được phát huy. Nhiều hãng tàu, nhiều doanh nghiệp tham gia dịch
vụ hỗ trợ vận tải biển từ các nước thành viên đầu tư và cung cấp dịch vụ tại Việt Nam
sẽ đem đến cho các doanh nghiệp nhiều sự lưa chọn hơn, tạo điều kiện cho xuất khẩu
12
phát triển. Các doanh nghiệp vận tải trong nước sẽ có điều kiện trao đổi và nâng cao
trình độ cán bộ cả về quản lý và kỹ thuật khi hợp tác với các công ty nước ngoài.
Ngoài ra, các doanh nghiệp GTVT có điều kiện mở rộng và thâm nhập thị trường nước
ngoài. Qua đó nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và
nước ngoài.
Tuy nhiên hệ thông hạ tầng còn yếu kém đã cản trợ không ít tới ngành vận tải
đường biển của Việt Nam. Cơ sở hạ tầng của vận tải biển ở Việt Nam chưa được phân
bổ hợp lý. Một số cảng được thiết kế để đón nhận các tàu vận tải container những năng
lực chỉ cho phép tiếp nhận tàu nhỏ. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ chưa cao, năng
suất thấp cho nên tính ý cạnh tranh còn yếu. Chúng ta không có nhiều cán bộ có kinh
nghiệm trong giao dịch quốc tế và khả năng chuyên môn, khả năng ngoại ngữ còn hạn
chế. Một số doanh nghiệp chưa thấy hết được những khó khăn và thách thức khi nước
ta bước vào hội nhập kinh tế quốc tế phải dần dần mở cửa cho các doanh nghiệp nước
ngoài vào kinh doanh một số ngành nghề dịch vụ GTVT, nên chưa chủ động đề ra biện
pháp tăng cường khả năng cạnh tranh. Tóm lại, vận tải là lĩnh vực quan trọng của nền
kinh tế, là đầu vào và đầu ra cho các ngành kinh tế khác. Nhận thức được tầm quan
trọng của ngành vận tải nên các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
đều phải rất thận trọng khi đưa ra các cam kết tự do hóa trong lĩnh vực này.
13
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN GATS TẠI VIỆT NAM
1. Giải pháp vĩ mô
1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Thách thức chủ yếu nhất đối với Việt Nam trong tiến trình mở cửa, thực hiện
cam kết cho các ngành dịch vụ theo Hiệp định GATS chính là những điểm khác biệt
giữa hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam và các quy định của GATS.
Hệ thống pháp luật và môi trường pháp lý về kinh tế- thương mại trong nước
còn chưa hoàn chỉnh, chưa hệ thống, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thông lệ và
chuẩn mực quốc tế, còn nhiều hạn chế trong điều kiện tự do hoá thương mại hiện nay.
Từ những bất cập trong hệ thống pháp luật đã nêu ở trên, ta thấy Việt Nam
trong quá trình thực hiện các cam kết của WTO phải xây dựng, bổ sung, điều chỉnh,
sửa đổi các văn bản pháp luật và các chính sách kinh tế của mình cho phù hợp với yêu
cầu của WTO, với luật chơi chung của thế giới, đồng thời vẫn đảm bảo được tính định
hướng phát triển và lợi ích của đất nước cũng như hỗ trợ đắc lực cho các ngành kinh tế
trong nước. Hệ thống chính sách, pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng phát huy
tối đa nội lực và tiềm năng của đất nước, của tất cả các thành phần kinh tế; tạo điều
kiện thúc đẩy quá trình tích tụ, liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh; thu hút
đầu tư nước ngoài; khuyến khích môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các
doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế; đi đôi với việc nâng cao hiệu quả
quản lý của Nhà nước.
1.2 Phát triển thương mại dịch vụ song song với phát triển sản xuất hàng hóa
Dịch vụ luôn luôn gắn liền với sản xuất hàng hoá, chúng là hai mặt thống nhất
không thể tách rời của nền kinh tế. Chúng luôn hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển. Thật vậy, dịch vụ phát triển sẽ tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá phát triển, và
ngược lại sản xuất hàng hoá có phát triển mới tạo ra cơ sở vật chất vững chắc cho dịch
vụ phát triển. Mặt khác, nếu một lĩnh vực lạc hậu, trì trệ thì nó sẽ kìm hãm sự phát
triển của lĩnh vực kia. Do vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển
kinh tế giai đoạn này là gắn phát triển dịch vụ với phát triển sản xuất, không coi nhẹ
một lĩnh vực nào. Đảng ta chỉ rõ: “Hoạt động dịch vụ phải làm tốt nhiệm vụ phục vụ
‘đầu vào’ và ‘đầu ra’ trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công
nghiệp, xây dựng… Phải chủ động phát triển mạng lưới dịch vụ cho các khu công
nghiệp, khu chế xuất góp phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”.
14
Hướng tới một quan điểm phát triển toàn diện về sản xuất hàng hoá và dịch vụ
là một trong những mục tiêu ưu tiên đặt ra cho chúng ta trên con đường xây dựng đất
nước và xác định ưu thế so sánh của đất nước trong phân công lại lao động quốc tế bao
gồm cả sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Muốn vậy, tạo điều kiện và hỗ trợ phát triển các
ngành dịch vụ bên cạnh sản xuất hàng hoá chính là chìa khoá để hướng tới sự thành
công.
Bên cạnh hai biện pháp chủ yếu trên, chúng ta cũng cần phối hợp với những
biện pháp vĩ mô khác để tiến trình thực hiện GATS đạt hiệu quả tốt nhất như xây dựng
chiến lược hội nhập phải mang tính toàn diện, tổng thể, chi tiết hoá ở từng cấp, ngành;
giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo hộ và tự do hoá, ...
2. Giải pháp vi mô
2.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh rất thấp ở cả thị trường
trong nước lẫn thị trường quốc tế. Điều đó thể hiện ở các mặt: quy mô vốn nhỏ, thiếu
vốn; hiệu quả kinh doanh thấp; công nghệ lạc hậu, không đồng bộ; chậm đổi mới
phương thức quản lý- kinh doanh; bộ máy quản lý cồng kềnh, vận hành nặng nề, chi
phí cao mà hiệu quả lại thấp; kém năng động do ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước…
Ngoài ra, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ Việt Nam cũng rất
thấp vì các loại hình dịch vụ nghèo nàn, khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng
kém, giá cao, thời gian chờ đợi lâu…
Với tình hình trên, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia nói chung,
của từng doanh nghiệp nói riêng là một yêu cầu hết sức quan trọng không chỉ đặt ra
đối với Chính phủ mà còn đặt ra đối với các doanh nghiệp. Một quốc gia có hội nhập
vào nền kinh tế thế giới được hay không và hội nhập tới mức độ nào là phụ thuộc vào
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp của quốc gia đó. Để nâng cao sức cạnh
tranh, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cần tận dụng triệt để nguồn hỗ trợ tài
chính của Nhà nước, nguồn lực nội tại để đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương
mại. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần đồng thời thực hiện một số biện pháp khác để
nâng cao khả nâng cao khả năng cạnh tranh của mình: đánh giá đúng thực trạng, lợi
thế của mình; tăng cường hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp Việt Nam khác thông
qua các hiệp hội; liên kết với các doanh nghiệp của các quốc gia khác trên thế giới
nhằm tranh thủ vốn và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đầu tư đổi mới
công nghệ; mở rộng danh mục sản phẩm…
15
2.2 Phát triển kiến thức, kỹ năng cho ngành nhân lực
Nhân lực là yếu tố then chốt đối với sự phát triển của mỗi công ty. Trong lĩnh
vực kinh doanh dịch vụ, khoảng cách giữa cung - cầu nhân lực ngày càng lớn, khiến
cuộc đua giữa các doanh nghiệp để tranh giành nguồn nhân lực chất lượng cao ngày
càng căng thẳng. Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực trẻ hiện nay chưa đáp ứng
được đòi hỏi của doanh nghiệp cả về khả năng tiếp cận các thiết bị khoa học kỹ thuật
hiện đại, trình độ nghiệp vụ chuyên môn, tính sáng tạo và chủ động trong công việc.
Vì vậy, trước hết doanh nghiệp phải đầu tư cho công tác tuyển dụng với mong
muốn xây dựng được đội ngũ nhân sự trình độ cao. Doanh nghiệp cần biết cách tạo cơ
hội học tập và phát triển cho nhân viên sẽ thu hút được nguồn nhân lực trẻ tiềm năng.
Bên cạnh hoạt động thu hút nguồn nhân lực mới, doanh nghiệp cũng cần chú ý
tập trung vào công tác đào tạo nguồn nhân lực hiện có, nguồn nhân lực cấp cao,
thường xuyên cập nhật bổ sung kiến thức cho toàn bộ nhân sự trong doanh nghiệp về
các quy định văn bản pháp luật của Nhà nước hướng dẫn tiến trình hội nhập kinh tế thế
giới, thực hiện đúng theo cam kết GATS, cũng như chú trọng phát triển toàn diện về
các kỹ năng, trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
16
KẾT LUẬN
Thông qua bài tiểu luận “Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS”,
chúng ta có thể có được một cái nhìn tổng quan cũng như những điểm quan trọng được
quy định trong Hiệp định cũng như trong biểu cam kết cụ thể của Việt Nam về lĩnh
vực thương mại dịch vụ. Mặc dù GATS chỉ quy định các nghĩa vụ đối với Chính phủ
các quốc gia thành viên chứ không có quy định gì về quyền lợi hay nghĩa vụ cho
doanh nghiệp nhưng không phải vì thế mà doanh nghiệp không quan tâm tới GATS.
Việc nghiên cứu GATS và biểu cam kết cụ thể của Việt Nam là hết sức quan trọng đối
với các doanh nghiệp dịch vụ ở Việt Nam vì các doanh nghiệp này sẽ được lợi hoặc
chiu tác động của Hiệp định GATS thông qua việc Chính phủ các nước thành viên
thực hiện các nghĩa vụ trong GATS khi ban hành chính sách, quy định về thương mại
dịch vụ ở nước mình.
Từ việc nghiên cứu GATS và biểu cam kết dịch vụ ở Việt Nam, chúng ta phải
hiểu rõ được những thuận lợi và thách thức của việc thực hiện cam kết. Mở cửa thị
trường, tự do hóa thương mại sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cường tính cạnh
tranh, tính lành mạnh của thị trường dịch vụ. Nhưng bên cạnh đó, các doanh nghiệp
trong nước với vốn mỏng, nhân lực yếu có thể sẽ không đứng vững được trong môi
trường cạnh tranh khắc nghiệt. Đứng trước thực tế này, nhà nước và doanh nghiệp cần
phải phối hợp tốt với nhau trong quá trình mở cửa thị trường, tự do hóa thương mại.
Có như vậy chúng ta mới có thể tận dụng triệt để những cái lợi mà Hiệp định GATS
mang lại.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.
Tài liệu Tiếng Việt
1. Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế. Giáo sư Tiến sĩ Võ Thanh Thu – xuất bản năm
2005 – NXB Thống kê.
2. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS.
3. Báo cáo của ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (WT/ACC/VNM/48) ngày
27/10/2006 của Ban Công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam.
4. Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ -Danh mục miễn trừ đối xử Tối huệ quốc theo điều II
(WT/ACC/VNM/48/Add.2) ngày 27/10/2006 của Ban Công tác về việc gia nhập WTO
của Việt Nam.
II.
Các trang web
1. Cổng thông tin WTO – Hội nhập http://trungtamwto.vn/
2. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/04/24/4843/
3. Trang web của dự án hỗ trợ thương mại đa biên MUTRAP
http://www.mutrap.org.vn/thu_vien/MUTRAPII/Forms/AllItems.aspx
4. Trang web của Bộ Công thương http://www.moit.gov.vn
5. Trang web của Bộ Tài chính http://www.mof.gov.vn
6. Cổng thông tin về WTO và Tiếp cận thị trường
http://wto.nciec.gov.vn/Lists/nh%20gi%20tc%20ng/DispForm.aspx?ID=45, đăng
ngày 16/07/2010
7. http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/chuyenlaman/45771/Co-hoi-trongnam-2011.html đăng ngày 1/1/2011
18
- Xem thêm -