Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Đề cương ôn tập môn pháp luật thương mại hàng hóa & dịch vụ 2017...

Tài liệu Đề cương ôn tập môn pháp luật thương mại hàng hóa & dịch vụ 2017

.DOC
12
5817
64

Mô tả:

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ Thời gian thảo luận 1. Chương 1, chương 2 (1 ca) 2. Chương 3, chương 4 (2 ca) 3. Chương 5, chương 6, chương 7 (2ca) Chương 1: Câu hỏi lý thuyết: 1. Các đặc điểm của thương nhân theo pháp luật Việt Nam? 2. Nội hàm khái niệm hoạt động thương mại theo Luật Thương mại 2005? 3. Điều kiện để một giao dịch pháp luật được xem là giao dịch thương mại theo Luật Thương mại 2005? 4. Mối quan hệ giữa BLDS 2005, Luật Thương mại 2005 và luật chuyên ngành (trên ví dụ về một loại hợp đồng cụ thể)? 5. Có ý kiến cho rằng, trên cơ sở nguyên tắc tự do thỏa thuận, hai bên đều là thương nhân Việt Nam trong một hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện tại Việt Nam có quyền thỏa thuận trong hợp đồng rằng, hợp đồng này chỉ chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2005. Căn cứ quy định pháp luật liên quan, hãy nhận xét về ý kiến trên. Bài tập : Bài tập 01: Hãy xác định pháp luật nào được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng sau? Giải thích? 1. Công ty A (thương nhân Việt Nam, có trụ sở tại TPHCM) ký hợp đồng mua hàng của một thương nhân Pháp (thương nhân ở nước xuất khẩu) để bán cho một thương nhân Anh (thương nhân ở nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục xuất khẩu và nhập khẩu tại Việt Nam và các bên thoả thuận chọn luật áp dụng là pháp luật thương mại của Pháp. 2. Công ty B (doanh nghiệp có vốn đầu tư của Hàn Quốc và là DN chế xuất trong khu chế xuất) ký hợp đồng mua bán hàng hoá với công ty C (không phải là DN chế xuất và nằm ngoài khu chế xuất), theo đó hàng hoá được bên bán đưa ra khỏi khu chế xuất để giao cho bên mua và các bên đã thoả thuận chọn luật áp dụng là pháp luật thương mại của Hàn Quốc. 3. Công ty D (doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công ích) ký hợp đồng cung cấp dịch vụ chăm sóc cây xanh cho công TNHHMTV Thảo Cầm Viên Sài Gòn. 1 Chương 2: 6. Giải thích sự khác biệt giữa các quy định của BLDS 2015 và Luật Thương mại 2005 về địa điểm giao hàng trong hoạt động mua bán hàng hóa. 7. So sánh nghĩa vụ giao hàng đúng chất lượng theo quy định của BLDS 2015 và Luật Thương mại 2005. 8. Vấn đề pháp lý liên quan kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng? 9. Các thời điểm chuyển quyền sở hữu trong mua bán hàng hóa? 10. Các khía cạnh pháp lý của hợp đồng quyền chọn? Bài tập: Bài tập 02: Giá hàng hóa Sự việc: Trong hợp đồng mua bán hàng hóa ký ngày 30/6/2013 giữa Công ty A (bên bán) và Công ty B (bên mua), cả hai đều có trụ sở tại TP. Hồ Chí Minh, các bên thỏa thuận Công ty A giao 10 tấn thép cuộn tấm cán nóng dày 2mm xuất xứ Hàn Quốc cho Công ty B vào ngày 15/7/2013 với giá 12,5 triệu đồng/tấn, thanh toán trong vòng 5 ngày kể từ ngày giao hàng. Hàng được giao đúng thỏa thuận vào ngày 15/7/2013. Đến ngày 16/7/2013, qua điện thoại, Công ty B đề nghị Công ty A giao thêm 5 tấn thép cùng loại, chậm nhất đến ngày 20/7/2013 và công ty B sẽ thanh toán ngay cho cả hai lần giao hàng. Nhưng trong cuộc điện thoại đó hai bên không đề cập đến giá cả. Ngay sau khi giao thêm 5 tấn thép cùng loại vào ngày 20/7/2013, Công ty A yêu cầu công ty B thanh toán giá 5 tấn thép giao đợt sau với giá 13,0 triệu đồng/tấn với lý do giá thép cuộn tấm cán nóng xuất xứ Hàn Quốc trung bình trên thị trường vào ngày 20/7/2013 là 13,0 triệu đồng/tấn. Cụ thể: 10 tấn x 12.500.000 đồng = 125.000.000 đồng + 05 tấn x 13.000.000 đồng = 65.000.000 đồng = Tổng cộng: 190.000.000 đồng Công ty B chỉ chấp nhận trả tiền cho 5 tấn thép giao ngày 20/7/2013 bằng với giá thép giao ngày 15/7/2013 là 12,5 triệu đồng/tấn, do Công ty B chỉ đặt thêm số lượng, còn giá cả thì phải như đã thỏa thuận đối với 10 tấn thép cuộn tấm cán nóng dày 2mm xuất xứ Hàn Quốc giao trước đó. Do vậy, công ty B chỉ phải thanh toán tổng cộng số tiền là 187.500.000 đồng, còn công ty A phải tự chịu rủi ro do biến động giá cả thị trường, mặt khác công ty A cũng có thể hưởng lợi nếu giá thị trường ngày 20/7/2013 sụt giảm. Trái lại công ty A cho rằng trường hợp hai bên không thỏa thuận giá cả thì phải áp dụng giá thị trường. Câu hỏi: Anh (chị) hãy nêu ý kiến và lập luận ý kiến giải quyết bất đồng nêu trên giữa công ty A và công ty B. Chương 3: 11. Khái niệm dịch vụ và hợp đồng dịch vụ? 12. Căn cứ khái niệm dịch vụ có thể xem những hoạt động thương mại nào được quy định trong Luật Thương mại 2005 là hoạt động cung ứng dịch vụ? 2 13. Các đặc trưng cơ bản của hợp đồng dịch vụ so với hợp đồng mua bán hàng hóa? 14. Ý nghĩa của việc xác định một quan hệ hợp đồng là hợp đồng dịch vụ hay hợp đồng mua bán hàng hóa. 15. Hợp đồng cung ứng dịch vụ phải có điều khoản thỏa thuận về giá dịch vụ? 16. Các trường hợp miễn trách nhiệm trong dịch vụ logistics? 17. Các trường hợp hạn chế trách nhiệm trong dịch vụ logistics? 18. Khi nào một hoạt động vận chuyển hàng hóa được xem là quá cảnh hàng hóa? 19. Phân biệt giữa chuyển khẩu hàng hóa và quá cảnh hàng hóa! 20. Phân tích giá trị pháp lý của chứng thư giám định trong các trường hợp khác nhau. 21. Trong trường hợp nào kết quả giám định bị coi là giám định sai và hậu quả pháp lý của giám định sai? Bài tập: Bài tập 03: Hợp đồng mua bán logo nhựa TPR Ngày 01/03/2016, công ty A ký hợp đồng mua bán hàng hóa với công ty B, theo đó công ty A bán cho công ty B 41.600 logo nhựa TPR gắn trên giày thể thao với hàm lượng Cadmium < 100mg/kg, mẫu mã do công ty B cung cấp. Ngày 14/05/2016, công ty A giao hàng cho công ty B và sau đó, công ty B đã gắn số logo này trên giày thể thao để xuất khẩu theo đơn hàng KJ-3360 mà công ty C (quốc tịch Đức) đã đặt. Từ tháng 06 đến tháng 08/2016, công ty A đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho công ty B nhưng công ty B chưa thanh toán tiền đủ cho công ty A, tổng số tiền còn thiếu là 274.000.000 VND. Ngày 09/09/2016, công ty B nhận được email từ công ty C với nội dung thông báo là logo nhựa gắn trên giày thể thao nói trên có hàm lượng Cadmium vượt quá tiêu chuẩn cho phép (Cadmium > 100mg/kg), được chứng minh bằng các kết quả mà công ty đã giám định tại Đức ngày 18/8/2016, 26/8/2016 và 01/09/2016. Ngày 14/09/2016, công ty B gửi công văn thông báo cho công ty A về việc logo TPR không đạt tiêu chuẩn cho phép và yêu cầu công ty A cung cấp logo TPR của kiểu giày KJ-3360 tồn kho của cùng lô hàng đã xuất sang Đức để gửi đi kiểm tra một lần nữa. Ngày 27/09/2016, công ty A và công ty B đã cùng nhau niêm phong mẫu gửi đi kiểm tra tại STR (Đài Loan). Kết quả kiểm tra của STR cho thấy hàm lượng Cadmium trong logo nhựa TPR >100mg/kg. Dựa trên kết quả này, công ty B đã gửi thông báo yêu cầu công ty A cùng mình trao đổi khắc phục những phí tổn nhưng không nhận được trả lời từ phía công ty A. Sau đó, công ty A gửi mẫu này đi kiểm tra một lần nữa tại Vinacontrol, kết quả là hàm lượng Cadmium trong logo nhựa TPR <100mg/kg. Vì vậy công ty A yêu cầu công ty B phải tái nhập toàn bộ lô hàng logo nhựa TPR đã xuất sang Đức, cùng nhau lấy mẫu và gửi đi giám định một lần nữa có sự chứng kiến của cả hai bên. Nếu lô hàng không phù hợp với hợp đồng sẽ tiến hành tái chế tại Việt Nam và sau đó xuất sang Đức. Tuy 3 nhiên chi phí tái nhập là rất lớn đồng thời nhận thấy thái độ không hợp tác của công ty A nên công ty B đã không đồng ý với yêu cầu của công ty A. Ngày 01/01/2017, công ty A đã có đơn khởi kiện công ty B ra Tòa án nhân dân thành phố H yêu cầu thanh toán tiền hàng là 274.000.000 VND và tiền lãi do chậm thanh toán. Công ty B không đồng ý thanh toán khoản tiền theo như thỏa thuận trong hợp đồng mà chỉ thanh toán giá trị thực tế của hàng hóa không đạt yêu cầu về chất lượng. Đồng thời, công ty B yêu cầu công ty A bồi thường thiệt hại do việc công ty B vi phạm đơn hàng với công ty C vì sử dụng logo do công ty A cung cấp, bao gồm tiền phạt vi phạm hợp đồng và chi phí cho việc gia công tái chế tại Đức. Biết rằng chi phí phát sinh cho việc tái chế tại Đức cao gấp nhiều lần so với Việt Nam và công ty C đã đồng ý cho công ty B nhận hàng về Việt Nam để tái chế và tái xuất nhưng do không đạt được thỏa thuận với công ty A về việc tái chế này (công ty A vẫn cho rằng mình không có lỗi dựa trên kết quả kiểm tra của Vinacontrol và công ty A vào thời điểm giao hàng cho công ty B không biết được số hàng này sẽ được xuất sang nước Đức và áp dụng tiêu chuẩn chất lượng của Đức đối với hàng hóa) nên công ty B đã không nhận hàng về. YÊU CẦU: 1. Anh (chị) hãy căn cứ sự việc nêu trên và quy định pháp luật để đề ra đường lối giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân thành phố H. 2. Giả sử ngày 14/12/2016 công ty B mới gửi thông báo cho công ty A về việc hàm lượng Cadmium trong logo do công ty A sản xuất vượt quá tiêu chuẩn cho phép và yêu cầu công ty A bồi thường thiệt hại thì vụ việc trên được giải quyết như thế nào? Bài tập 04: Sự việc: Công ty TNHH thương mại dịch vụ A kinh doanh dịch vụ quá cảnh hàng hóa. Công ty A có một đội xe vận tải chuyên dùng tương đối hiện đại. Trên cơ sở môi giới của một thương nhân nước ngoài, công ty A đã ký một hợp đồng để vận chuyển 1 lô hàng cho công ty B (một công ty quốc tịch Hà Lan) để vận chuyển hàng của công ty này từ cửa khẩu Lao Bảo đến cửa khẩu Mộc Bài và giao cho một thương nhân Campuchia. Được biết hàng hóa được thuê vận chuyển là pháo nổ. Yêu cầu: 1. Hãy cho ý kiến bình luận về việc ký kết và thực hiện hợp đồng nói trên của công ty A. 2.Sau khi vận chuyển lô hàng trên, công ty A lại ký tiếp một hợp đồng khác với công ty B để vận chuyển nông sản từ Campuchia đến cửa khẩu Lao Bảo để giao cho cho một thương nhân Trung Quốc. Do trong hợp đồng vận chuyển đầu tiên, công ty B chưa thanh toán đủ thù lao cho công ty A nên công ty A đã quyết định giữ lại 3 tấn nông sản được vận chuyển theo hợp đồng thứ 2 để thanh toán thù lao cho cả hai hợp đồng nói trên. Hỏi việc làm trên của công ty A có phù hợp với quy định của Luật Thương Mại 2005 không? Giải thích? Chương 4: 22. Các đặc điểm chung của hoạt động trung gian thương mại? 4 23. mại. Phân biệt tính chất pháp lý của mối quan hệ đại diện thương mại và môi giới thương 24. Phân biệt giữa đại diện thương mại và đại diện của VPĐD, chi nhánh của doanh nghiệp cho doanh nghiệp. 25. Các mối quan hệ pháp lý trong hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa? 26. Các mối quan hệ pháp lý trong hoạt động đại lý thương mại? 27. Phân biệt quan hệ hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa với hợp đồng cung cấp-phân phối. 28. Thương nhân sản xuất hàng hóa muốn tạo lập một mạng lưới tiêu thụ hàng hóa thông qua các thương nhân độc lập sẽ cần cân nhắc những yếu tố pháp lý nào để lựa chọn hình thức hợp đồng đại lý bán hay hình thức hợp đồng cung cấp-phân phối? Bài tập: Bài tập 05: Tranh chấp hợp đồng môi giới thương mại Sự việc: Ngày 15/01/2014 Công ty A (bên A) ký kết với Công ty B (bên B) một hợp đồng môi giới. Theo đó, Công ty B có nghĩa vụ môi giới Công ty A với Công ty C của nước C để Công ty A xuất khẩu sản phẩm thiết bị lạnh công nghiệp của mình sang nước C. Trong hợp đồng môi giới, điều khoản về thu lao và thanh toán có quy định như sau: “2.1 Mức thù lao: “Bên B được hưởng thù lao bằng 1,2% giá trị hợp đồng mà Bên A ký kết được với công ty C.” “2.2 Phương thức thanh toán: Bên A thanh toán cho bên B bằng chuyển khoản vào tài khoản của bên B bằng tiền đồng Việt nam theo tỷ giá của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam tại thời điểm thanh toán.” “2.3 Thời hạn thanh toán: Trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được tiền thanh toán của Công ty C.” Ngày 30/6/2014 A đã ký kết được hợp đồng với C trên cơ sở môi giới của B. Trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa, A đã giao lô hàng trị giá 10 triệu USD cho C tại cảng TP. Hồ Chí Minh. Theo hợp đồng giữa A và C thì C được trả chậm sau 90 ngày kể từ ngày được giao hàng để tạo điều kiện cho C xuất khẩu lô hàng đó sang nước D sau khi hàng cập cảng tại nước C và dùng tiền thu được để thanh toán tiền hàng cho A. Tuy nhiên, sau đó C không xuất khẩu được lô hàng sang nước D nên không có tiền để thanh toán cho A. Ngày 30/9/2014 B đã gửi công văn yêu cầu A thanh toán tiền thù lao môi giới là 120.000 USD, thời hạn thanh toán là 15/10/2014. Trong suốt thời gian đó đến 30/11/2016 A vẫn không thanh toán tiền thù lao môi giới cho B, nhưng do trong thời gian đó B có nhiều thay đổi nhân sự nên không ai quan tâm đến việc này. Đến ngày 15/12/2016 B mới lại gửi công văn yêu cầu một lần nữa A thanh toán tiền thù lao môi giới là 120.000 USD, cộng với tiền lãi trên số tiền chậm trả tính từ 16/10/2014 đến 5 15/12/2016, theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường vào ngày 15/12/2014 là 18%/năm, bằng 46.800 USD, thanh toán bằng tiền đồng Việt Nam theo tỷ giá của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, chi nhánh TP.HCM, tại thời điểm thanh toán. Thời hạn thanh toán đến 30/12/2016. A cho rằng C chưa thanh toán tiền hàng nên A chưa phải thanh toán cho B. Mặt khác đến thời điểm tháng 12/2016 thì thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu thanh toán thù lao đã hết, nên đằng nào thì A cũng không có nghĩa vụ thanh toán nữa. Hỏi: 1. Công ty B có quyền được hưởng thù lao môi giới từ hợp đồng môi giới với Công ty A? 2. Công ty A đã có nghĩa vụ thanh toán tiền thù lao môi giới hay chưa? 3. Công ty B có quyền yêu cầu Công ty A thanh toán tiền lãi do chậm thanh toán như trên hay không? Bài tập 06: Ủy thác nhập khẩu Sự việc: Ngày 14/4/2016 nguyên đơn (DN Việt Nam) và bị đơn (DN Nhật Bản) đã ký kết một hợp đồng, theo đó nguyên đơn mua của bị đơn 4.000 MT thép phế liệu. Điều 1 của Hợp đồng quy định số lượng và phẩm chất thực tế sẽ căn cứ vào biên bản giám định của NKKK tại cảng bốc hàng và biên bản giám định của Vinacontrol tại cảng dỡ hàng. Trong trường hợp dung sai vượt quá ±5% so với tỷ lệ kích cỡ đã quy định trong hợp đồng theo biên bản giám định của Vinacontrol và NKKK (như Điều 1 Hợp đồng đã ghi) thì tỷ lệ vượt quá đó được trả theo giá 50 USD/MT. Thực hiện hợp đồng, bị đơn đã giao cho nguyên đơn 4.018 MT thép phế liệu. Nguyên đơn đã mời Vinacontrol đến làm giám định tại cảng dỡ hàng. Biên bản giám định của Vinacontrol kết luận: - Độ dày lớn hơn 40mm: - Độ dày từ 20mm đến 40mm + Chiều dài từ 2.000mm đến 3.000mm: + Chiều dài lớn hơn 3.000mm: 570 MT 925 MT 180 MT - Độ dày từ 6mm đến 19mm: 1.220 MT - Chiều rộng nhỏ hơn 100mm: 1.123 MT Theo kết quả giám định đó, một phần khối lượng thép được giao không đúng loại quy định hoặc vượt quá tỷ lệ quy định của hợp đồng, cụ thể là: - Độ dày >40mm (HĐ không cho phép): - Độ dày từ 20mm đến 40mm + Chiều dài từ 2.000mm đến 3.000mm: 570 MT 325 MT 6 + - Chiều dài >3.000mm (HĐ không cho phép): 180 MT Chiều rộng <100mm (HĐ không cho phép): Tổng cộng số lượng hàng sai tỷ lệ kích cỡ là Dung sai theo hợp đồng 5% là: 1.123 MT 2.198 MT 4.018 x 5% = 200,9 MT Số lượng thép sai tỷ lệ kích cỡ vượt quá 5% theo quy định của hợp đồng là: 2.198 MT – 200,9 MT = 1.997,1 MT Theo quy định của hợp đồng số thép này được tính theo giá 50 USD/MT thay cho giá hợp đồng 137 USD/MT. Số lượng thép bị đơn giao đúng theo quy định của hợp đồng là: 4.018 MT – 1.997,1 MT = 2.020,9 MT Số tiền mà nguyên đơn phải trả theo kết quả giám định thực tế của Vinacontrol là: 1.997,1 MT x 50 USD/MT = 99.855 USD 2.020,9 MT x 137 USD/MT = 276.863,3 USD CỘNG = 376.718,3 USD Số tiền mà nguyên đơn đã trả cho bị đơn theo L/C là: 561.152 USD. Nguyên đơn đã khiếu nại đòi bị đơn hoàn trả số tiền 184.433,7 USD (là khoản tiền chênh lệch giữa số tiền nguyên đơn đã trả theo L/C và số tiền nguyên chỉ phải trả theo thực tế giao hàng: 561.152 USD – 376.718,3 USD = 184.433,7 USD). Do không được bị đơn hoàn trả, nguyên đơn đã kiện bị đơn trước Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) đòi bị đơn hoàn trả số tiền nói trên. Trong Văn thư đề ngày 5/11/2016 gửi cho trọng tài, bị đơn trình bày sự việc như sau: Công ty X Việt Nam ủy thác cho nguyên đơn nhập khẩu lô thép phế liệu để cán lại. Trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng, bị đơn đã thương lượng trực tiếp với Công ty X và giao hàng theo hướng dẫn của công ty X, đồng thời phù hợp với thỏa thuận. Lô hàng mà được coi là “thiếu tiêu chuẩn” trên thực tế đắt hơn loại hàng quy định trong hợp đồng, cho nên công ty X đã quyết định nhận lô hàng này trên cơ sở thỏa thuận giữa công ty X và bị đơn. Vì thế, bị đơn không thể hiểu được tại sao nguyên đơn lại khiếu nại về lô hàng này. Trong Văn thư đề ngày 13/11/2016 gửi trọng tài và đồng thời gửi bị đơn, nguyên đơn trình bày như sau: Nguyên đơn không hề biết việc thương lượng và thỏa thuận giữa bị đơn và công ty X, đồng thời nguyên đơn không nhận được bất kỳ một thông báo nào của bị đơn và công ty X. Theo hợp đồng ký ngày 14/4/2016, là một bên đương sự, nguyên đơn kiện bị đơn căn cứ vào các khoản và điều kiện đã quy định trong hợp đồng. Vấn đề này không liên quan gì đến người thứ ba. 7 Nguyên đơn đề nghị: - Bị đơn phải thương lượng với công ty X để bồi thường tổn thất cho nguyên đơn. Trong trường hợp bị đơn không giải quyết được như vậy thì đề nghị trọng tài sẽ xử vụ kiện vào ngày 5/12/2016. Sau đó, nguyên đơn đã chủ động sang Nhật để thương lượng nhưng bị đơn không có thiện chí giải quyết tranh chấp bằng thương lượng. Tại phiên xét xử, nguyên đơn đã xuất trình cho cho trọng tài hai văn thư: văn thư của bị đơn đề ngày 2/12/2016 và văn thư trả lời của nguyên đơn đề ngày 3/12/2016. trong văn thư ngày 2/12/2016 bị đơn không chấp nhận bồi thường số tiền hàng giao sai quy cách, với lý do là bị đơn không đòi được nhà cung cấp bồi thường, số tiền khiếu nại mà nguyên đơn đòi là quá lớn, không chấp nhận được, là một doanh nghiệp nhỏ và để tránh nguy cơ phá sản, bị đơn không có khả năng chấp nhận bồi thường cho nguyên đơn. Trong văn thư ngày 3/12/2016 nguyên đơn hoàn toàn bác bỏ lập luận của bị đơn trình bày trong văn thư đề ngày 2/12/2016 và kiên quyết đòi bồi thường đúng như hợp đồng quy định. Yêu cầu: Anh (Chị) hãy trình bày quan điểm của mình về việc giải quyết tranh chấp trên. Chương 5, chương 6 29. Sự khác biệt cơ bản giữa hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng cho thuê hàng hóa và các vấn đề pháp lý liên quan đến sự khác biệt đó 30. Xác định và phân biệt phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng quy định của Luật Thương mại 2005 về đấu thầu hàng hóa, dịch vụ và Luật Đấu thầu. 31. Các đặc trưng cơ bản của quan hệ nhượng quyền thương mại? 32. Các hạn chế về thời gian khuyến mại bằng hình thức giảm giá và ý nghĩa của các hạn chế đó? 33. Mối quan hệ giữa quy định của Luật Thương mại về quảng cáo thương mại và Luật Quảng cáo? Bài tập: Bài tập 07: Công ty TNHH A là chủ sở hữu một trang trại nuôi gia súc. Trong đợt dịch lở mồm long móng, mặc dù gia súc trong trang trại này không bị dịch nhưng do không giải quyết được việc tiêu thụ nên ngày 12/2/2013 công ty TNHH A đã cho công ty TNHH B thuê toàn bộ trang trại nói trên trong thời hạn 3 năm. Qua đợt dịch công ty TNHH A quyết định không kinh doanh trang trại nữa nên ngày 25/12/2013 công ty A đã bán toàn bộ trang trại và đàn gia súc cho DNTN C. Sau khi hợp đồng mua bán được ký kết, DNTN C đến tiếp quản trang trại và đàn gia súc, tuy nhiên, công ty B không đồng ý giao trang trại và đàn gia súc cho DNTN C vì hợp đồng cho thuê chưa hết thời hạn. 8 Yêu cầu: Căn cứ vào quy định của Luật Thương mại hiện hành, anh (chị) hãy bình luận vụ việc và nêu ý kiến giải quyết bất đồng giữa công ty B và DNTN C. Chương 7: 34. mại. Giải thích các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định tại Điều 294 Luật Thương 35. Giải thích và ví dụ về áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng dưới hình thức “dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện”. 36. Sự xung đột giữa quyền áp dụng chế tài buộc thực hiên đúng hợp đồng dưới hình thức “dùng biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện” đối với vi phạm không cơ bản với nguyên tắc thiện chí trong luật hợp đồng? 37. So sánh các quy định về căn cứ áp dụng chế tài (i) tạm ngừng thực hiện hợp đồng, (ii) đình chỉ thực hiện hợp đồng và (iii) hủy hợp đồng. 38. So sánh quy định về phạt vi phạm của LTM 2005 và BLDS 2005 39. So sánh các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (trong hợp đồng) theo BLDS 2005 và căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại 2005. 40. So sánh quy định của BLDS 2005 (Điều 305) về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ và quy định của LTM 2005 (Điều 306) về quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán. 41. So sánh quy định về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định của BLDS 2005 và của việc hợp đồng bị hủy theo quy định của Luật Thương mại 2005. 42. Chức năng của chế định khiếu nại trong pháp luật thương mại? Bài tập Bài tập 08: Bồi thường thiệt hại bằng mức chênh lệch giá Sự việc: Ngày 15/03/2012, thương nhân A và thương nhân B (đều có trụ sở tại TP. Hồ Chí Minh) đã giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó các bên thỏa thuận A phải giao hàng vào ngày 31/03/2012, B phải thanh toán tiền hàng chậm nhất vào ngày 07/4/2012. Đến ngày giao hàng, A không thực hiện được việc giao hàng do không nhận được hàng từ thương nhân C. B đã chuẩn bị kho bãi và các điều kiện để tiếp nhận hàng hóa nhưng không được nhận hàng nên vào ngày 06/4/2012 đã gửi công văn cho A thông báo ngừng thanh toán tiền hàng. Tiếp đó, ngày 07/04/2012, B có công văn gửi A yêu cầu giao hàng chậm nhất đến ngày 15/4/2012. Ngày 08/4/2012 A có công văn gửi B hứa sẽ cố gắng giao hàng chậm nhất vào ngày 29/04/2012. B không trả lời công văn này. Do nhu cầu về sản xuất, ngày 20/04/2012, B đã mua hàng tương tự từ thương nhân D. Vào ngày 26/4/2012 C giao hàng cho A. Vào ngày 28/4/2012 A thực hiện giao số hàng đó cho B nhưng B không nhận. 9 Ngày 01/7/2012 A khởi kiện B yêu cầu bồi thường thiệt hại bằng mức chênh lệch giữa giá thỏa thuận với B và giá bán thực tế mà A đã bán số hàng hóa đó cho thương nhân E do B không nhận hàng. B phản tố yêu cầu A bồi thường thiệt hại do phải mua hàng từ thương nhân D với giá cao hơn giá hợp đồng với A. Yêu cầu: Anh (chị) hãy căn cứ quy định của Luật Thương mại 2005 để phân tích tình trạng pháp lý của sự việc trên. Bài tập 09: Cam kết "không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng" Sự việc: Ngày 06/6/2016, Công ty A (bên bán) và Công ty B (bên mua) ký kết một hợp đồng mua bán 2.200 tấn urê được sản xuất và đóng gói tại Indonesia; đơn giá 2.251.500 đồng/tấn; ngay sau khi ký hợp đồng bên mua ký quỹ cho bên bán 20% giá trị hợp đồng, số tiền này được tính vào lô hàng sau cùng, thanh toán đến đâu nhận hàng đến đó; thời gian thực hiện nhận lô hàng không quá 45 ngày từ ngày giao kết hợp đồng, nếu quá thời hạn trên mà bên mua không nhận hết hàng thì bên bán có quyền bán lô hàng còn lại. Số tiền tổn thất về giá, các phí lãi vay, lưu kho bãi bên bán sẽ trừ vào tiền đặt cọc của bên mua. Thực hiện hợp đồng ngày 06/6/2016, Công ty B đã ký quỹ 20% giá trị hợp đồng bằng 990.660.000 đồng. Sau thời hạn 45 ngày (đối với hợp đồng ngày 06/06/2016 là ngày 21/07/2016), vào ngày 04/8/2016 Công ty A đã có công văn gửi Công ty B nêu rõ Công ty B đã vi phạm nghĩa vụ nhận hàng; để đảm bảo tình hình tài chính, quay vòng vốn nên Công ty A quyết định bán lô hàng mà Công ty B chưa thực hiện nhận hàng, cụ thể sẽ bán 100 tấn phân urê với giá 2.000đ/kg. Vào cùng ngày, Công ty B có công văn trả lời Công ty A với nội dung: Do tình hình nước lũ đang lên hàng tiêu thụ chậm, do đó Công ty B không kịp thực hiện đúng thời gian của hợp đồng. Để đảm bảo tình hình tài chính vòng quay vốn của Công ty A, Công ty B đồng ý theo tinh thần công văn của Công ty A ngày 04/08/2008. Tuy nhiên Công ty B đề nghị cho phép kéo dài thời gian thực hiện thêm 2 tháng nữa với số lượng hàng còn lại, cam kết đền bù mọi thiệt hại cho Công ty A. Trong công văn ngày 07/8/2016 gửi Công ty B, Công ty A thông báo chỉ đồng ý cho Công ty B được gia hạn 50% tổng số lượng phân urê trong thời hạn 30 ngày tính từ ngày 45 (ngày hết hạn hợp đồng) cụ thể như sau: Ngày được gia hạn 21/07/2016 đến ngày 19/08/2016, số lượng được gia hạn 1.100 tấn = 2.476.650.000đ. Công ty A không đồng ý gia hạn thêm một thời gian nào nữa. Nếu đến hết thời gian trên mà Công ty B không nộp tiền để nhận hết số lượng phân còn lại thì Công ty A sẽ bán hàng và thanh lý. Ngoài ra công văn còn có ghi chú: “Số lượng phân urê mà Công ty B đã nhận trong 50% chưa hết, do đó chúng tôi đã bán số lượng còn lại trong 50% này. Giá bán và ngày bán chúng tôi sẽ thông báo đến Công ty B bằng chứng từ số lượng cụ thể rõ ràng”. Tiếp theo đó hai bên còn trao đổi một số công văn nữa, trong đó Công ty B đề nghị được gia hạn tiếp thời hạn nhận hàng, còn Công ty A không chấp nhận gia hạn và thông báo về việc đã bán một số lượng phân ure mà Công ty B không nhận hàng trong thời gian được gia hạn và đơn giá bán số lượng phân đó. Tới ngày 05/09/2016 Công ty B đã ký hóa đơn nhận 148 tấn 900 kg urê của hợp đồng ngày 06/6/2016 (tương đương số tiền 10 335.248.350 đồng), nhưng thực tế đến ngày 27/10/2016 Công ty B mới nhận hàng để trừ vào tiền ký quỹ theo biên bản thanh lý ngày 04/09/2016 do Công ty A lập. Công ty B cho rằng Công ty A đã vi phạm cam kết “không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng” và khởi kiện yêu cầu buộc Công ty A phải trả lại tiền ký quỹ và bồi thường thiệt hại do không giao hàng tương ứng với số tiền ký quỹ là 990.660.000 đồng. Trong khi đó Công ty B cho rằng: Công ty A không còn nợ gì Công ty B, vì theo hợp đồng thì Công ty B có lỗi không nhận hàng đúng thời hạn, nên thiệt hại hoàn toàn thuộc về Công ty B, Công ty A đã nhiều lần làm công văn yêu cầu Công ty B phải chuyển tiền và nhận hàng nhưng Công ty B nại ra những lý do không chính đáng, số hàng mà Công ty A bán ra thị trường hoàn toàn ngoài thời gian mà Công ty A đã gia hạn cho Công ty B. Số tiền Công ty B ký quỹ cho Công ty A đã được trừ vào các khoản như tiền chênh lệch giá bán hàng, các loại phí, số lượng hàng mà Công ty B đã nhận theo biên bản thanh lý hợp đồng do Công ty A lập ngày 04/09/2016, nên Công ty A không còn nợ gì Công ty B. Yêu cầu: 1. Căn cứ thỏa thuận của các bên “không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng”, anh (chị) hãy nhận xét hành vi của Công ty A không tiếp tục giao hàng cho Công ty B mà bán hàng này cho bên thứ ba có cấu thành một vi phạm hợp đồng của Công ty A không? Giải thích? 2. Căn cứ sự việc nêu trên, anh (chị) hãy trình bày ý kiến về việc giải quyết tranh chấp trên từ góc độ của cơ quan giải quyết tranh chấp. Bài tập 10: Hợp đồng mua bán thiết bị điện tử (âm thanh, ánh sáng) Sự việc: Ngày 19/5/2015, Công ty TNHH P ký kết hợp đồng với Cửa hàng Âm thanh – Ánh sáng – Nhạc cụ H (do bà Q làm chủ), theo đó Cửa hàng H bán cho Công ty P 8 thiết bị điện tử (âm thanh, ánh sáng) với tổng giá trị hợp đồng là 109.366.000 đồng. Hợp đồng và phụ lục hợp đồng còn ghi rõ số lượng, chủng loại, model, xuất xứ mỗi loại thiết bị, thời gian giao nhận và bảo hành thiết bị. Sau khi nhận hàng được khoảng 01 tháng Công ty P phát hiện 03 trong số 08 thiết bị được giao không đúng xuất xứ như thỏa thuận hợp đồng. Ngày 27/7/2015 hai bên đã lập biên bản thống nhất nội dung, theo đó: Cửa hàng H thừa nhận trong số hàng hóa đã giao có thiết bị không đúng xuất xứ do Cửa hàng H nhận hàng từ tổng đại lý mà sơ suất không kiểm tra xuất xứ dẫn đến giao sai hàng, Cửa hàng H đề nghị sẽ khắc phục bằng việc bảo hành hàng hóa; đảm bảo hàng hóa hoạt động tốt tương tự hàng hóa đã cam kết, phù hợp với yêu cầu của Công ty P; Cửa hàng H trả lại cho Công ty P số tiền 8.000.000 đồng ngay sau khi Biên bản này được lập. Sau đó Cửa hàng H đã giao 8.000.000 đồng cho Công ty P còn các thỏa thuận khác không thực hiện. Ngày 5/9/2015, Công ty P có công văn yêu cầu Cửa hàng H thay thế toàn bộ thiết bị tương đương. Ngày 27/9/2015, Cửa hàng H có văn bản trả lời là không đồng ý. Ngày 01/11/2015, Công ty P khởi kiện ra Tòa án yêu cầu Cửa hàng H tiếp tục thực hiện việc khắc phục hậu quả do đã vi phạm hợp đồng: Thay thế toàn bộ thiết bị đã cung cấp cho Công ty P hoặc 11 nhận lại thiết bị, trả lại tiền; bồi thường thiệt hại cho Công ty P do phải thuê thiết bị thay thế tính từ ngày 28/9/2006 đến ngày Tòa án ra quyết định với giá 300.000 đồng/ngày. Cửa hàng H thừa nhận lời trình bày của Công ty P về việc ký kết hợp đồng và nội dung biên bản làm việc ngày 27/7/2015 là đúng. Do giao 3 thiết bị không đúng xuất xứ nên Cửa hàng H đã phải trả 8.000.000 đồng cho Công ty P để bù đắp số tiền chênh lệch do 3 thiết bị sai xuất xứ và do Công ty P sử dụng hàng đã lâu nên không đồng ý nhận lại hàng và trả lại tiền cũng như yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của Công ty P. Yêu cầu: 1. Xác định biện pháp chế tài mà Công ty P đã áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp đồng của Cửa hàng H? Căn cứ pháp lý khi áp dụng biện pháp chế tài đó? 2. Đối với 3 thiết bị giao không đúng xuất xứ như đã thỏa thuận, Cửa hàng H đã trả 8.000.000 đồng cho Công ty P để bù đắp số tiền chênh lệch do 3 thiết bị sai xuất xứ. Tuy nhiên, Công ty P cho rằng mức hoàn trả 8.000.000 đồng như trên vẫn thấp hơn khoản tiền chênh lệch giá giữa hàng theo hợp đồng mà hai bên ký kết với hàng thực tế hai bên giao nhận đối với 3 loại thiết bị sai xuất xứ nên đã yêu cầu Cửa hàng H phải tiếp tục hoàn trả phần còn lại. Yêu cầu của Công ty P trong trường hợp này có phù hợp với quy định của pháp luật không? Giải thích? 3. Giả sử Công ty P áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng để buộc bên bán phải nhận lại hàng và hoàn lại tiền, tuy nhiên Cửa hàng H lại lập luận rằng hàng hóa được bên mua đưa vào sử dụng đã lâu thì không thể trả lại cho bên bán. Anh (chị) hãy giải quyết hậu quả pháp lý trong trường hợp yêu cầu hủy hợp đồng được chấp nhận? 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan