Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Dạy học văn học dân gian trong nhà trường theo tinh thần phôncơlo qua văn bản tấ...

Tài liệu Dạy học văn học dân gian trong nhà trường theo tinh thần phôncơlo qua văn bản tấm cám (ngữ văn 10, tập 1, chương trình cơ bản)

.PDF
23
75
117

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT LANG CHÁNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: DẠY HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG NHÀ TRƯỜNG THEO TINH THẦN PHÔNCƠLO QUA VĂN BẢN TẤM CÁM- NGỮ VĂN 10, TẬP 1 (CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN) Người thực hiện: Phạm Thị Hà Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn THANH HOÁ, NĂM 2017 MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài ........................................................................... 2 1.2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................... 3 1.3. Đối tượng nghiên cứu .................................................................... 3 1.4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................... 3 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm…………………….3 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm……………………........4 2.1.1. Khái niệm Văn học dân gian……………………………….…...4 2.1.2.Thuật ngữ Phôncơlo…………………………………………......4 2.1.3. Khái niệm truyện cổ tích - truyện cổ tích Tấm cám…………….5 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.........6 2.3. Một số phương pháp tiếp cận truyện Tấm Cám theo tinh thần Phôncơlohọc………………………………………………..…………...7 2.3.1. Cách cấu tạo cốt truyện………………………………………....7 2.3.2. Các môtíp……………………………………………………...8 2.3.3. Những câu văn vần xen kẽ………………………………..…....9 2.3.4. Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật…………..……...10 2.3.5. Không khí truyện……………………………………………....11 2.3.6. Sự vận động của truyện trong đời sống dân gian và diễn xướng dân gian……………………………………………………....12 2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm…………………………........12 2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục……………………………………..12 2.4.2. Đối với học sinh………………………………………………...12 2.4.3. Đối với với bản thân………………………………………….....12 2.4.4. Giáo án minh họa bài dạy Tấm Cám theo tinh thần Phôncơlo học……………………………………………………....…13 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận ....................................................................................... 20 3.2. Kiến nghị ..................................................................................... 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 1. Mở đầu. 1.1 Lí do chọn đề tài: Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc. Kho tri thức này là phần lớn các kinh nghiệm lâu đời được nhân dân ta đúc rút từ thực tế, thông qua sự mã hóa bằng ngôn từ và hình tượng nghệ thuật, tạo ra sức hấp dẫn người đọc, người nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có sức lâu bền cùng năm tháng. Văn học dân gian có giá trị to lớn và vai trò quan trọng trong nền văn học dân tộc. Nó có tác dụng giáo dưỡng và giáo dục tốt đối với thế hệ trẻ trong nhà trường, nó góp phần bồi đắp tâm hồn học sinh, hướng học sinh tới những ước mơ, suy nghĩ cao đẹp, niềm tin vào cái tốt, cái thiện, làm những việc xấu nhất định sẽ bị trừng trị. Quan trọng hơn nữa nó còn giúp chúng ta giữ gìn và phát huy những nét đẹp của truyền thống, của bản sắc dân tộc. Đó chính là cái hồn dân tộc mà khi xa tổ quốc quê hương mọi người đều nhớ đến. Nó trở thành sức mạnh tinh thần để chúng ta vươn tới. Nguyễn Khoa Điềm đã nói rất đúng: Trong anh và em hôm nay Đều có một phần đất nước. (Đất nước- trích Trường ca Mặt đường khát vọng) Người Việt nào mà chẳng có trong tâm hồn mình một Hồ Hoàn kiếm, một Đền Hùng, một giếng nước gốc đa, một bức tranh Đông Hồ, một làn dân ca quan họ, và cả những mắt đen cô gái long lanh…Những cái đó làm nên hồn dân tộc, giúp ta hiểu rõ bản sắc Việt Nam: Một dân tộc bất khuất hiền hòa, anh hùng mà tình nghĩa “Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” (Nguyễn Đình Thi) và “ Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa” (Huy Cận). Tất cả những điều đó văn học dân gian đều ghi lại một cách đậm đà, từ một lời ca tát nước đầu đình đến hình ảnh cô Tấm hóa kiếp, từ khúc hát Tiễn dặn người yêu đến hình tượng Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt trời…đều in đậm bản sắc đân tộc Việt Nam mà người học sinh – những thế hệ trẻ càng cần phải lĩnh hội được. Hơn nữa, cuộc sống ngày càng phát triển, hiện đại hơn, lối sống của con người vì thế cũng có nhiều biến đổi, xấu có, tốt có. Chính vì vậy chúng ta cần giáo dục cho thế hệ trẻ không nên quay lưng với quá khứ, sống buông thả, vô trách nhiệm với chính bản thân mình. Chính vì vậy, VHDG với nghĩa tuyệt đối của nó sẽ là dòng sữa mát lạnh giúp ta tìm về với chính con người mình. Cho nên, chúng ta cũng không thể tìm hiểu tác phẩm VHDG một cách nửa vời, làm mất đi vẻ đẹp của nó, thậm chí còn phản tác dụng. VHDG mãi là VHDG, nó là nó và không thể lẫn lộn với bất cứ thể loại nào: 2 “Tôi yêu chuyện cổ nước tôi Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa Thương người rồi mới thương ta Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm Ở hiền thì lại gặp hiền Người ngay thì gặp người tiên độ trì Mang theo chuyện cổ tôi đi Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa…” ( Chuyện cổ nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ) Đề tài DẠY TẤM CÁM THEO TINH THẦN PHÔNCƠLO HỌC là cố gắng để đưa ra một cách tìm hiểu nữa về tác phẩm Tám Cám, để học sinh hiểu hết được ý nghĩa và giá trị to lớn của VHDG. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Sự đổi mới trong quá trình giáo dục và giảng dạy luôn là một yếu tố cần thiết. Hơn nữa một tác phẩm văn học ở mọi góc độ tiếp cận luôn có những cái hay, vẻ đẹp riêng. Giúp học sinh cảm thụ tốt một tác phẩm là nhiệm vụ của một người giáo viên dạy văn. Tuy nhiên, Tấm Cám là một câu chuyện cổ tích đã được đưa vào chương trình giáo dục từ rất lâu, và nó không còn xa lạ gì với bất cứ học sinh nào. Hình ảnh cô Tấm hiền lành, Mụ dì ghẻ độc ác đã trở thành biểu tượng trong văn học và trong cả cuộc sống. Vậy thì làm thế nào để một học sinh lớp 10 tiếp cận văn bản ở một cái nhìn đa chiều hơn, để thoát khỏi sự rập khuân, cách hiểu đơn điệu như trước? Đó chính là mục đích mà sáng kiến kinh nghiệm xin được đề xuất một cách tiếp cận theo tinh thần phôncơlo học để học sinh thấy được màu sắc dân gian qua một câu chuyện cổ tích. Tiếp nhận Tấm Cám là tiếp nhận một truyện dân gian, một tác phẩm phôncơlo mà phôn cơlo thì có những quy luật cấu tạo riêng của nó khác với văn học viết. Do vậy tác phẩm phôncơlo có những đặc trưng mà tác phẩm văn học viết không có. Phải từ những đặc trưng đó của tác phẩm phôncơlo mà tìm ra cách tiếp cận nó. Như vậy chúng ta tìm hiểu một tác phẩm văn học dân gian theo đúng nghĩa của nó sẽ tạo ra cho học sinh sự hứng thú, kích thích sự tò mò để học sinh tiếp nhận tác phẩm với một tâm thế mới. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Truyện cổ tích Tấm Cám 3 - Học sinh lớp 10 trường THPT Lang Chánh 1.4. Phương pháp nghiên cứu: 1.4.1. Nghiên cứu lí thuyết: Dựa trên việc đọc và tìm hiểu các tài liệu về Thi pháp văn học dân gian, Phôncơlo học, Từ điển Tiếng Việt… 1.4.2. Nghiên cứu thực tiễn: Qua việc dự giờ một số tiết dạy bài Tấm Cám, đồng thời chọn 2 lớp 10A8,10A9 đề thực nghiệm bài dạy. 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Như đã trình bày ở trên, Tấm Cám là câu chuyện cổ tích quen thuộc. Vì vậy làm lạ một tác phẩm quen là một điều không dễ. Nhưng sự phong phú đa dạng, cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng khiến chúng ta không thể không suy ngẫm. Không thể đi mãi trên một con đường mòn, điều đó nó sẽ làm cho một tác phẩm trở nên nhàm chán, mà quan trọng hơn học sinh sẽ không thấy được đặc trưng của một tác phẩm văn học dân gian. Không tìm hiểu Tấm Cám như một tác phẩm tự sự hiện đại hay một câu chuyện cổ tích đơn thuần như trước kia mà tìm hiểu tiếp cận theo thi pháp văn học dân gian, theo tinh thần phôncơlo học. Tức là chúng ta sẽ tiếp cận ở sáu bình diện sau: - Cách cấu tạo cốt truyện - Các môtip - Những câu văn vần xen kẽ - Thời gian và không gian nghệ thuật - Không khí truyện - Sự vận động của truyện trong đời sống dân gian và diễn xướng dân gian Bốn mặt đầu sẽ được tiếp nhận qua ngôn từ của văn bản truyện, mặt thứ năm có thể xem là sự giao thoa giữa thành tố chủ yếu ngôn từ với thành tố khác trong tổng thể phôncơlo, còn mặt cuối cùng thì đã thoát li văn bản truyện để đi vào đời sống phôncơlo như nó vốn có trong thực tế. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: 2.1.1. Khái niệm Văn học dân gian Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng được tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. 4 Ở bất kì thể loại dân gian nào, mỗi tác phẩm văn học cũng là một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ làm phương tiện xây dựng hình tượng nghệ thuật. Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian và theo thời gian. Lúc đầu tác phẩm dân gian do một người khởi xướng, tác phẩm hình thành và được tập thể tiếp nhận, sau đó những người khác tham gia sữa chữa, bổ sung làm cho tác phẩm biến đổi dần, phong phú hoàn thiện hơn. 2.1.2.Thuật ngữ Phôncơlo Thuật ngữ folklore do nhà nhân chủng học người Anh, ông William Thoms dùng trong bài báo đăng trên tờ Athenaeum, ngày 22/8/1846, với ý nghĩa là những di tích của nền văn hóa vật chất và chủ yếu là di tích của nền văn hoá tinh thần như phong tục, đạo đức, tín ngưỡng, những baì dân ca, những câu chuyện kể của cộng đồng. Sau khi xuất hiện, thuật ngữ này được hiểu với ngiều nghĩa rộng hẹp khác nhau, liên quan tới đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Ở Việt Nam, thuật ngữ này được dịch là văn hóa dân gian với những ý nghĩa sau : * Nghĩa rộng : bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần do dân chúng sáng tạo (folkculture). Theo cách hiểu nầy, văn hoá dân gian là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, kể cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đồng thời nó cũng là đối tượng nghiên cứu của văn hoá học * Nghĩa hẹp : Những sáng tạo của dân chúng mang tính nghệ thuật Theo nghĩa hẹp, văn hóa dân gian gồm ba thành tố : Nghệ thuật ngữ văn dân gian (tức văn học dân gian), nghệ thuật tạo hình dân gian , nghệ thuật diễn xướng dân gian. * Nghĩa chuyên biệt : folklore là văn học dân gian, theo đó tác phẩm folklore là hình thức ngôn từ gắn với nhạc, vũ, kịch …do tập thể dân chúng sáng tác. Cũng có thể dùng thuật ngữ folklore văn học để chỉ văn học dân gian đồng thời phân biệt nó với các đối tượng khác cũng thuộc phạm trù folklore – văn hoá văn dân gian . 2.1.3. Khái niệm truyện cổ tích - truyện cổ tích Tấm cám * Khái niêm: Truyện cổ tích Việt Nam là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi, nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cả những câu chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động như người… 5 * Phân loại: Truyện cổ tích gồm 3 loại: truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích sinh hoạt và truyện cổ tích về loài vật. Truyện Tấm Cám thuộc loại cổ tích thần kì. Truyện cổ tích thần kì: kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã hội của con người. Đó có thể là mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân, những quan hệ xã hội( Tấm cám, Cây khế, Sự tích con khỉ…) Những truyện về các nhân vật tài giỏi, dũng sĩ, nhân vật lập chiến công, diệt cái ác bảo vệ cái thiện, mưu cầu hạnh phúc cho con người ( Thạch sanh, Người thợ săn và mụ chằn tinh…). Những truyện về các nhân vật bất hạnh: về mặt xã hội họ bị ngược đãi, bị thiệt thòi về quyền lợi; về mặt tính cách họ trọn vẹn về đạo đức nhưng thường chịu đựng, trừ những nhân vật xấu xí mà có tài ( Sọ dừa, Lấy vợ cóc, Cây tre trăm đốt…) * Truyện cổ tích Tấm Cám: Truyện cổ tích Tấm Cám kể về Tấm - một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ côi mẹ, sống với dì ghẻ và cô em cùng bố khác mẹ tên là Cám. Tấm bị mẹ con Cám ghen ghét, ngược đãi. Đi hớt tép, tấm bị cám đánh lừa trút hết giỏ tép. Tấm nuôi con cá bống, mẹ con Cám giết chết con cá bống. Ngày hội, dì ghẻ trộn gạo lẫn thóc, bắt tấm ở nhà nhặt xong mới được di xem. Mỗi lần bị mẹ con Cám gây chuyện ngược đãi, đau khổ như vậy, tấm đều được Bụt hiện lên an ủi, giúp đỡ. Bụt bảo Tấm nuôi cá bống cho có bạn, Bụt sai chim sẻ nhặt giúp tấm mớ gạo trộn lẫn thóc. Bụt chỉ cho Tấm cách chôn xương cá bống để đến ngày hội tấm có quần áo, khăn, giày đẹp. Tấm đi xem hội, đến chỗ lội, đánh rơi một chiếc giày xuống nước. Nhờ chiếc giày bị rơi ấy, tấm được vua biết đến và lấy làm vợ. Mẹ con Cám lập mưu giết chết tấm rồi đưa Cám vào thế chân tấm. Tấm chết hóa thành chim vàng anh. Chim vàng anh bị cám giết chết lại hóa thành cây xoan đào. Cám chặt cây xoan đào, đóng khung cửi, khi ngồi vào dệt vải, con ác bằng gỗ trên khung cửi kêu: "cót ca cót két, mày tranh chồng chị, chị khoét mắt ra". Cám đốt khung cửi, đồ tro ở một nơi xa cung vua. Từ đống tro mọc lên một cây thị lớn, chỉ có một quả thật to. Một bà cụ bán hàng nước được quả thị ấy, mang về để ở nhà. Mỗi khi bà cụ vắng nhà, từ quả thị, một cô gái - tức Tấm chui ra quét dọn, nấu ăn giúp bà cụ. Một hôm, vua đến uống nước, ăn trầu ở hàng bà cụ, thấy có miếng trầu do Tấm têm, đã nhận ra vợ. Tấm trở lại cuộc sống hạnh phúc bên vua, còn mẹ con Cám thì bị trừng phạt thích đáng. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 6 Có thể thấy rằng, hiện nay việc tiếp cận tác phẩm Tấm Cám đã có nhiều đổi mới. Nếu như trước kia, trong các giờ giảng văn phân tích truyện Tấm Cám giáo viên thường kẻ đôi bảng, một bên nhân vật Tấm, một bên ghi nhân vật mụ dì ghẻ, rồi hướng dẫn học sinh phân tích hai nhân vật đó qua các hành động để đi đến kết luận: Tấm là một cô gái hiền lành, nết na, chăm chỉ, tượng trưng cho chính nghĩa; mụ dì ghẻ là người tham lam, gian ác tiêu biểu cho cái tà; nhưng người chính nghĩa dù có gặp nhiều tai họa nhưng được Bụt giúp nên cuối cùng đã thắng lợi và được hưởng hạnh phúc, còn kẻ gian bị trừng trị thích đáng. Trong thời gian gần đây, giáo viên tiếp cận và giảng dạy truyện Tám cám theo thi pháp văn học dân gian và đặc trưng thể loại truyện cổ tích, nhưng lại chủ yếu xoáy sâu vào các mâu thuẫn, xung đột, và đặc biệt hơn là dạy truyện cổ tích như dạy truyện ngắn, phân tích đánh giá nhân vật truyện cổ tích như phân tích nhân vật tự sự trong văn học viết; hoặc khai thác quá sâu, quá tỉ mỉ không chú ý đến tính dị bản của VHDG, có khi đó chỉ là ngôn từ của người ghi chép lại. Qua đó chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng không hề có bóng dáng phôncơlo, màu sắc phôncơlo và vẻ đẹp riêng của tác phẩm phôncơlo. Hiển nhiên học sinh sẽ không hiểu hết bản chất, đặc trưng của một tác phẩm VHDG. Vì sao có hiện tượng trên? Nguyên nhân có nhiều: do chúng ta chưa nắm được bản chất và đặc trưng của tác phẩm phôncolo, do khả năng còn hạn chế, do sức ỳ của thói quen nên ngại đổi mới cách phân tích… một phần do chúng ta chủ quan khi nghĩ rằng việc tìm hiểu truyện cổ tích khá dễ dàng, không quá khó khăn vì một học sinh tiểu học cũng có thể biết được nội dung câu chuyện. 2.3. Một số phương pháp tiếp cận truyện Tấm Cám theo tinh thần Phôncơlohọc. 2.3.1. Cách cấu tạo cốt truyện. Điều lí thú hấp dẫn của truyện cổ tích là cốt truyện chứ không phải nhân vật như trong truyện hiện đại. Nhưng thi pháp truyện cổ tích lại hướng sự chú ý vào cách cấu tạo cốt truyện chứ không phải bản thân cốt truyện vì cốt truyện thuộc nội dung còn cách cấu tạo cốt truyện thì lại là hình thức nghệ thuật của tác phẩm phôncơlo, mà hình thức nghệ thuật thì mới là đối tượng nghiên cứu của thi pháp. Trong truyện Tấm Cám, đã bộc lộ khá đậm chất phôncơlo Truyện Tấm Cám được cấu tạo theo đường thẳng,theo trình tự diễn biến các hành động của nhân vật ( cũng là trình tự thời gian) một cách chặt chẽ, không thể khác được, khiến các chi tiết dính kết với nhau trên một trục thống nhất, làm cho truyện không những rõ ràng, dễ nhớ mà còn lí thú, hấp dẫn. Đó chính là vẻ đẹp riêng của cổ tích Việt Nam và thế giới. 7 Trong truyện Tấm Cám, ban đầu là hình ảnh cô Tấm xuất hiện trong tình thế bị ức hiếp, chèn ép bởi mẹ con Cám. Những hành động của Tấm đơn thuần là nghe lời và khóc lóc khi gặp bất công. - Đi bắt tôm tép : Tấm chăm chỉ bắt được giỏ tép đầy, bị Cám lười biếng lừa chị đổ tép sang giỏ mình, khi nhìn trong giỏ không còn gì Tấm chỉ biết bưng mặt khóc. - Đi chăn trâu:  mẹ con Cám gạt Tấm đi chăn đồng xa, Cám ở nhà giết cá bống làm thịt ăn. Về không thấy bống đâu Tấm lại cũng khóc. - Đi xem hội : Mẹ con Cám trắng trợn trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt, không cho Tấm đi xem hội. Dù rất khao khát được đi dự hội nhưng Tấm không một chút tinh thần phản kháng nào chỉ biết khóc hu hu. -Trèo cây cau: nhân ngày giỗ bố, nghe lời mụ dì ghẻ Tấm trèo cau hái cau để cúng cha, mẹ con Cám chặt gốc cau giết Tấm.  -Bốn lần hoá thân của Tấm: Thành chim vàng anh: Thành cây xoan đào Thành khung cửi Thành cây thị (quả vàng thơm)  Bốn lần bị giết, bốn lần hóa thân của Tấm chứng minh sức sống mãnh liệt không thể bị tiêu diệt. Cái thiện không chịu chết oan ức trong im lặng, vùng dậy huỷ diệt cái ác.  2.3.2. Các môtíp Đọc truyện cổ tích ta thường gặp các motif. Đó là những phần tử đơn vị vừa mang tính đặc trưng vừa mang tính bền vững của truyện kể dân gian. Các motif do vậy mang tính phôncơlo đậm đặc và góp phần qua trọng để tạo nên sắc thái dân gian của truyện. cho nên tiếp cận truyện Tấm cám không thể không tiếp cận các motif của truyện. Các môtíp quen thuộc: người mẹ ghẻ ác nghiệt, ông Bụt hiền từ nhân đức, vật giúp người, vật xấu xí biến thành người đẹp đẽ, người biến thành vật rồi trở lại làm người… - Motif người mẹ ghẻ ác nghiệt cũng khá quen thuộc với chúng ta. Trong câu chuyện, mụ dì ghẻ tham lam và độc ác, Tấm luôn bị mẹ con Cám ghen ghét và ngược đãi - Motif ông Bụt hiền lành nhân hậu, luôn xuất hiện khi những người tôt bụng gặp khó khăn, luôn bênh vực và đứng về phía thiện, là lực lượng phù trợ cho các 8 nhân vật. Như anh Khoai trong truyện Cây tre trăm đốt, ôm mặt khóc hu hu khi không tìm được cây tre có một trăm đốt. Và cô Tấm xinh đẹp khi bị trút hết tôm tép sợ về dì mắng, hay khi cá bống chết, khi phải nhặt hết một đấu thóc trộn với một đấu gạo, khi không có quần áo đi dự hội…. Ông Bụt chính là ước mơ của nhân dân luôn mong muốn có thế lực che chở và phù trợ cho mình, và người tốt thì luôn luôn được giúp đỡ. - Motif vật xấu xí biến thành người đẹp đẽ: trong truyện Tấm cám đó là khi Tấm muốn đi dự hội mà không có quần áo đẹp. Những chiếc xương cá mà Tấm bỏ trong lọ chôn dưới bốn chân giường đã giúp cô biến thành quần áo, giày, ngựa. Hay motif vật giúp người như để tìm xương cá bống, Tấm đã cho gà nắm thóc để gà bới xương cho; rồi đàn chim sẻ xà xuống giúp Tấm nhặt thóc… - Motif tái sinh có thể được xem là một motif khá quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian nước ta và nhiều nước trên thế giới. Motif này xuất hiện nhiều trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích dân gian và trong những tác phẩm truyện truyền kỳ của văn học thành văn… Trên cơ sở định nghĩa chung về motif như là một tình tiết góp phần tạo nên đề tài cốt truyện, chúng tôi đã định nghĩa motif tái sinh là những tình tiết dùng để miêu tả hiện tượng chết đi và sống lại của nhân vật trong truyện kể, bao hàm hình thức sống lại thành người và cả sống lại thành vật. Có thể nhân vật sống lại thành người chỉ qua một lần tái sinh, cũng có thể nhân vật sống lại thành người sau khi đã hóa thân thành nhiều hình dạng khác nhau hoặc là nhân vật sống lại thành vật. Chúng ta có thể thấy trong truyện Tấm cám, nhân vật Tấm trải qua nhiều lần biến hóa: + Tấm hóa thành chim vàng anh + Thành hai cây xoan đào + Tấm hóa thành khung cửi + Thành quả thị Ý nghĩa của motif tái sinh do hóa thân trong truyện cổ tích còn là sự  phản ánh quan niệm của dân gian về sức sống mãnh liệt của các nhân vật đại diện cho cái thiện. Các nhân vật được tái sinh do hóa thân đều là những con người hiền lành, nhân hậu và ngây thơ, cả tin vào người khác đến mức gây hại cho chính bản thân mình. Họ là những cô gái ngoan hiền, chăm chỉ như cô Ba, như Gơliu, như Tấm… một mình gánh vác công việc gia đình mặc cho người chị, người em của họ suốt ngày nhàn rỗi vui chơi. Đã thế, những nhân vật ấy còn bị hắt hủi, đánh đập, hành hạ mà không dám oán than, một chút niềm vui nhỏ nhoi bình dị 9 như nuôi một con cá bống cũng bị người ta cướp mất (Tấm Cám). Những nhân vật ấy còn tốt bụng và nhân hậu, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, ngây thơ xuống suối gội đầu để bị người ta cướp công bắt cá, hồn nhiên trèo lên cây thật cao hái trái để rồi bị kẻ ác đẵn gốc cây hại chết… Tuy nhiên bên trong những con người hiền lành ấy cũng tiềm ẩn một khả năng chịu đựng ghê gớm với một sức sống dai dẳng, mãnh liệt mà không một thế lực gian ác nào có thể tiêu diệt được. Dù có bị truy sát đến đường cùng, họ cũng tìm mọi cách đấu tranh để bảo vệ cho sự tồn sinh của mình. Cuối cùng thì cái thiện cũng thắng, người thiện cho dù đã bị hãm hại chỉ còn một chút tro tàn rồi cũng được tái sinh. Bản thân các motif đều mang ý nghĩa sâu sắc, nhưng điều quan trọng hơn cả là các motif này đã tạo nên cái không khí mơ màng vừa thực vừa ảo rất hấp dẫn của truyện cổ tích, đưa ta vào thế giới huyền diệu của phôncơlo. 2.3.3. Những câu văn vần xen kẽ. Văn vần là thể văn diễn ý bằng câu có vần. Khi đọc rất thuận miệng, dễ đọc, dễ nhớ và dễ đi vào lòng người. Văn học dân gian thường sử dụng rất nhiều những câu văn vần, điều đó cũng phù hợp với tính truyền miệng của văn học dân gian. Trong truyện Tấm Cám cũng vậy, có nhiều câu văn vần xen kẽ được sử dụng, một dấu hiệu đặc trưng của truyện cổ tích Việt Nam. Những câu văn vần xen kẽ này cũng cần được tiếp cận vì nó giữ một vai trò quan trọng trong truyện cổ tích. Nó Thường xuất hiện những lúc mâu thuẫn xung đột, những tình huống có vấn đề cần nhấn mạnh, khắc sâu cốt truyện, đồng thời tạo đà đẩy cốt truyện diễn tiến một cách tự nhiên. Bắt đầu những câu văn vần để các mâu thuẫn xung đột lần lượt xuất hiện là lời dỗ ngon dỗ ngọt của Cám để lừa Tấm nhằm trút hết tôm tép trong giỏ: “Chị Tấm ơi chị Tấm Đầu chị lấm Chị hụp cho sâu Kẻo về mẹ mắng” Tiếp đến là lời gọi êm ái của Tấm dành cho cá bống mỗi khi Tấm cho bống ăn: “Bống bống bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người” 10 Khi mụ dì ghẻ muốn lừa Tấm đi chăn trâu thật xa để ở nhà mụ giết hại cá bống, cướp đi niềm vui duy nhất của Tấm, người bạn của Tấm, mụ đã ngọt nhạt: “Con ơi, chăn trâu thì chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu” Hay khi Tấm bước chân vào dự hội, nhìn thấy Tấm mẹ con Cám đã khinh bỉ: “Chuông khánh còn chẳng ăn ai Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre” Rồi khi bị mẹ con Cám lừa giết chết và thay Cám vào vị trí hoàng hậu, Tấm biến thành con chim vàng anh, mỗi khi Cám giặt quần áo cho vua, vàng anh lại hót: “Giặt áo chồng tao Thì giặt cho sạch Phơi áo chồng tao Thì phơi bằng sào Chớ phơi hàng rào Rách áo chồng tao” Tấm chết biến thành chim vàng anh. Vua thấy chim bay theo mình, nhớ Tấm liền bảo chim rằng: “ Vàng ảnh vàng anh Có phải vợ anh Chui vào tay áo” Khi Tấm biến thành khung cửi, mỗi lần Cám dệt vải, khung cửi lại kêu lên: “Kẽo cà, kẽo kẹt Lấy tranh chồng chị Chị khoét mắt ra” Hay khi Tấm ẩn mình trong quả thị, bà lão hàng nước đi qua đã thủ thỉ: “Thị ơi thị rơi bị bà Bà để bà ngửi chứ bà không ăn”…. Như vậy ở những câu văn vần này, chất diễn cảm được bộc lộ dồi dào nhất và chất phôncơlo đậm nét nhất. Đến mức, khi ta có thể quên những chi tiết nào trong truyện nhưng những câu văn vần này lại mãi còn trong trí nhớ, thậm chí nó đã trở thành lời ru ngọt ngào của người mẹ dành cho những đứa con thân yêu của mình. Có lẽ cũng vì thế mà dấu ấn của cổ tích Tấm Cám càng sâu đậm 11 trong lòng người đọc, và đó cũng là cách để lưu lại dấu ấn trong trí nhớ của học trò. 2.3.4. Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật. Trong văn học thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật được xem như những yếu tố của nghệ thuật, vì vậy nó thuộc đối tượng nghiên cứu của thi pháp học. Đối với tác phẩm phôn cơlo cũng vậy chỉ có điều thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật ở đây in rõ đặc điểm và sắc thái phôncơlo.Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật đều mang tính chất phiếm chỉ để diễn đạt các ý. Ở truyện Tấm Cám dường như không có thời gian cụ thể qua sự diễn tiến của câu chuyện, không hề có khái niệm sáng, trưa, chiều, tối mà chỉ có một hôm, đến bữa cơm, đến ngày giỗ bố… Thời gian nghệ thuật trong Tấm Cám là thời gian khép kín. Không thể xác định được chuyện xảy ra vào thời kì nào. Chuyện có vua, nhưng không biết vua đời nào, cung vua ở đâu. Đặc điểm này góp phần tạo ra tính chất hoang đường của truyện. Mặt khác, thời gian luôn gắn liền với chuỗi sự kiện liên tục. Các đoạn thời gian bắt đầu bằng “một hôm, ít lâu sau, từ đó, cứ mỗi lần…”Thời gian kể rõ ràng trùng với thời gian một sự kiện nào đó diễn ra. Truyện Tấm cám không có thời gian quá khứ, thời gian tương lai mà tất cả chỉ là thời gian hiện tại kéo dài. Khi một sự kiện kết thúc thì thời gian cũng hết. Mỗi một sự kiện được kể đều diễn ra trong khoảng thời gian một hôm. Không gian trong Tấm cám cũng không được xác định cụ thể người đọc chỉ hình dung thấy một cảnh làng quê quen thuộc, bình dị và gẫn gũi. Đó là cánh đồng làng Tấm vẫn thường thả trâu, là giếng nước có chú cá bống tung tăng bơi lội, là cảnh hội hè, quán hàng nước…Đó là không gian hiện thực không gian gắn liền với đời sống hàng ngày của nhân dân lao động. Cuộc sống của người dân hiện qua mỗi câu chuyện, nó giống như một thước phim giúp ta trải nghiệm cuộc sống con người từ thuở xa xưa. Không gian hiện thực là không gian của cuộc sống trần thế, biểu hiện cụ thể trong truyện cổ tích người Việt là không gian làng quê. Đặc điểm này cho thấy, truyện cổ tích người Việt là sản phẩm tinh thần đích thực của nhân dân lao động, mang đậm thế giới quan, cách nhìn của người nông dân. 2.3.5. Không khí truyện. Truyện Tấm Cám hấp dẫn bởi nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố không khí truyện. Đó là cái không khí dân gian khi ta xem một bức tranh Đông Hồ, nghe một bài hát dân ca quan họ. Cái không khí dân gian mơ màng vừa hư vừa thực đó do cái gì tạo nên? 12 Do cốt truyện, các môtíp, câu văn vần, không gian, thời gian tượng trưng…Phải chăng khi đọc những câu văn vần” Bống bống bang bang…, Vàng ảnh vàng anh…, Kẽo cà kẽo kẹt….ta nghe thấy âm vang lên trong những dòng chữ gợi nhớ những làn điệu dân ca quen thuộc của quê hương. Và hình ảnh của cái yếm đỏ, con gà bới xương, con chim nhặt thóc, ngày hội với cảnh ướm giày, cây xoan đào, quả thị thơm nở ra cô Tấm, miếng trầu têm cánh phượng…tất cả hiện ra trước mắt người đọc như một bức tranh dân gian. Thế là các yếu tố âm nhạc, hội họa, tạo hình đã in đậm dấu vết vào văn bản văn học dân gian và cùng với các yếu tố nằm trong văn bản tạo nên cái không khí dân gian của truyện. Do đó cái không khí dân gian đó là một không khí rất dặc trưng của truyện cổ tích mà chúng ta không thể bỏ qua được. 2.3.6. Sự vận động của truyện trong đời sống dân gian và diễn xướng dân gian. Tác phẩm dân gian có đời sống riêng của nó. Phôncơlo học đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận với tác phẩm phôncơlo trong chính đời sống riêng của nó. Đối với Tấm Cám, có hai vấn đề được đặt ra: Một là do sự vận động của truyện qua không gian, thời gian, Tấm cám có nhiều dị bản cả ở Việt Nam( dân tộc Kinh và các dân tộc ít người) và cả trên thế giới. Do vậy phải tiếp cận với một số truyện tiêu biểu ở Việt Nam và thế giới để so sánh. Hai là vấn đề kể truyện Tấm Cám với tư cách là diễn xướng dân gian thì ngoài văn bản truyện, còn có các yếu tố khác như môi trường dân gian, nghệ nhân dân gian, sự đồng cảm mang tính chất dân gian giữa người kể với nhân vật truyện và người nghe. Tất cả tạo nên một không khí dân gian hỗ trợ cho văn bản truyện và nâng cao văn bản truyện lên một chất lượng cao hơn. 2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm: 2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục: Chúng ta thấy rất rõ một điều rằng giáo dục nhân cách cho học sinh qua mỗi môn học là rất quan trọng, đặc biệt là môn Ngữ văn. Một phần do đặc thù môn học mà mỗi tác phẩm mang lại cho người đọc, những chân lí, những bài học đều rất bổ ích và lí thú. Không thể phủ nhận truyện cổ tích nói chung và truyện Tấm Cám nói riêng có vai trò giáo dục rất mạnh mẽ. Đó là bài học về Ở hiền gặp lành, ác giả thì ác báo hay Gieo nhân nào thì gặt quả ấy…con người sống phải biết đến thiện lương, đến báo ứng….Đó cũng là những thông điệp mà người dạy muốn truyền tải đến cho học sinh 2.4.2. Đối với học sinh: Được tiếp nhận một tác phẩm quen thuộc theo một phương pháp mới, học sinh hào hứng hơn, tích cực, chủ động hơn. Nó không chỉ còn là câu chuyện về 13 một cô Tấm thảo hiền, một mụ dì ghẻ độc ác như từ trước đến nay mà còn có cả một đời sống văn hóa dân gian ẩn mình trong đó. Điều đó tác động rất lớn đến nhận thức của học sinh, góp phần giáo dục lòng tự hào dân tộc, tình yêu thương giữa con người với con người…cho học sinh. 2.4.3. Đối với với bản thân: Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, sáng kiến kinh nghiệm giúp tôi có được một tiết dạy bổ ích, người dạy hào hứng, người học thích thú, tò mò. Việc đổi mới bài dạy luôn là một yếu tố cần thiết đặc biệt theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo cho học sinh. Để có được điều đó thì trước hết người giáo viên phải sáng tạo trước đã. Trải qua một quá trình nghiên cứu tìm tòi từ tài liệu, từ đồng nghiệp, tôi đã hình thành cho mình cũng như đồng nghiệp “ cẩm nang” mới về dạy một tác phẩm văn học dân gian mang đậm chất Phôncơlo. 2.4.4. Giáo án minh họa bài dạy Tấm Cám theo tinh thần Phôncơlo học Tuần:5 Tiết: 21-22 Tấm Cám (Truyện cổ tích) I. Mục tiêu bài học 1.Về kiến thức: - Giúp học sinh hiểu được cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, ước mơ thiện thắng ác và tinh thần lạc quan của nhân dân lao động - Hiểu được đặc trưng của một truyện cổ tích thần kì theo thi pháp văn học dân gian - Nắm được giá trị nghệ thuật của truyện 2.Về kĩ năng: - Biết cách đọc và hiểu một số truyện cổ tích thần kì, nhận biết một số truyện cổ tích thần kì qua đặc trựng thể loại 3.Về thái độ: Có được tình yêu đối với người lao động, củng cố niềm tin vào sự chiến thắng của cái thiện, chính nghĩa trong cuộc sống. 4. Định hướng phát triển năng lực: - Năng lực hợp tác: thảo luận nhóm để thể hiện cảm nhận của cá nhân và lắng nghe ý kiến của bạn để tự điều chỉnh cá nhân mình. - Năng lực tự giải quyết vấn đề: giải quyết các câu hỏi, yêu cầu và nhiệm vụ mà giáo viên nêu ra. 14 - Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ: học sinh cảm nhận được giá trị thẩm mĩ thông qua tác phẩm. - Năng lực giao tiếp: nghe, nói , đọc , viết. II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh: 1. Chuẩn bị của giáo viên: - Thiết bị : bảng, phấn - Học liệu: - Bài tập tình huống 2. Chuẩn bị của học sinh: - Chuẩn bị các nội dung liên quan đến bài học: sách giáo khoa - Sưu tầm tranh ảnh, tư liệu III.Tổ chức các hoạt động học tập: 1.Ổn định tổ chức: Kiểm tra sĩ số, tác phong 2.Kiểm tra bài cũ:(5’) 3.Tiến trình bài học: Hoạt động khởi động: Hoạt động 1: Học sinh tìm hiểu khái quát về truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích Tấm Cám (20’) 1.Mục tiêu: Giúp học sinh nhận biết được - Như thế nào là truyện cổ tích thần kì, giá trị của truyện cổ tích thần kì - Vài nét khai quát về Tấm Cám 2. Phương pháp: Vấn đáp, thuyết trình. 3. Hình thức: Trong lớp 4. Phương tiện: Bảng phụ, sách giáo khoa HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG CHÍNH Bước 1: Giao nhiệm vụ GV: Hướng dẫn HS tìm hiểu kiến thức bài học qua việc đọc mục Tiểu dẫn SGK, đọc văn bản. HS phải trả lời các câu hỏi sau: I. Tìm hiểu chung: 1. Thể loại truyện cổ tích thần kì a. Đặc điểm - Có sự tham gia của các yếu tố thần kì vào tiến trình phát triển của câu chuyện (bụt, tiên, những vật có phép -CH: Dựa vào sgk, em hãy trình bày những hiểu biets của mình về truyện màu) - Nhân vật chính là những con người cổ tích thần kì? bình thường nhưng bất hạnh trải qua nhiều hoạn nạn mới được hưởng hạnh phúc. b. Giá trị - CH: Ý nghĩa của truyện cổ tích thần Thể hiện ước mơ của nhân dân lao kì là gì? động về hạnh phúc gia đình, về lẽ 15 - CH: Các tác phẩm tiêu biểu. công bằng xã hội, về phẩm chất và năng lực tuyệt vời của con người 2. Truyện Tấm Cám: -Nhan đề: - CH: Em hiểu như thế nào về nhan +Tấm" có nghĩa là hạt gạo đã bị vỡ đề Tấm, Cám? thành các mảnh nhỏ, gọi là hạt tấm. - CH: Tóm tắt truyện Tấm Cám Tấm có thể được dùng để nấu ăn - CH: Chia bố cục văn bản như gạo. HS: suy nghĩ trả lời Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ HS: theo dõi SGK và trả lời câu hỏi GV: - Định hướng và gợi mở cho HS +"Cám" có nghĩa là phần vỏ mỏng bao quanh hạt gạo (dưới lớp vỏ trấu), thường được xát ra khi xay xát gạo và bỏ đi hoặc cho lợn ăn. Từ cám cũng dùng để chỉ chung thức ăn cho lợn. Bước 3: Thảo luận, trao đổi, báo - Tóm tắt: cáo GV: Lắng nghe câu trả lời - Bố cục: HS: Trả lời câu hỏi. Hs khác bổ sung +Mở truyện: “Ngày xưa … việc ý kiến nếu thấy không phù hợp. nặng”  giới thiệu các nhân vật chính và Bước 4: Phương án kiểm tra, đánh hoàn cảnh truyện . + Thân truyện: “Một hôm … về giá. cung” HS vẽ sơ đồ nội dung bài học  diễn biến câu chuyện:Tấm ở với gì ghẻ và Cám đến khi trở thành hoàng hậu Tấm bị giết và hóa thân . + Kết truyện: còn lại  Tấm trả thù mẹ con Cám. Hoạt động 2: Học sinh tìm hiểu Văn bản(20’) 1.Mục tiêu: Giúp học sinh nhận biết được - Cách cấu tạo truyện Tấm Cám 2. Phương pháp: Thảo luận nhóm. Vấn đáp, thuyết trình 3. Hình thức: Trong lớp 4. Phương tiện: Bảng phụ, sách giáo khoa HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG CHÍNH 16 Bước 1: Giao nhiệm vụ II. Đọc hiểu văn bản: GV: Hướng dẫn HS tìm hiểu kiến 1. Cách cấu tạo cốt truyện thức bài học qua việc đọc văn bản.  Khái quát về nhân vât: HS phải trả lời các câu hỏi sau: Nhân vật Tấm: - Mồ côi, sống với dì ghẻ và em -CH: Cuộc đời và thân phận của Tấm gái cùng cha khác mẹ là Cám được miêu tả như thế nào ? - Luôn bị hai mẹ con Cám hành hạ, lừa gạt: ═> Tấm bất hạnh, yếu đuối, bị hắt hủi, hành hạ, lừa gạt. Đồng thời cô - CH: Công việc và thân phận đáng cũng là một cô gái chăm chỉ, thương của Tấm như thế nào? ngoan hiền, khao khát được vui chơi và được hưởng hạnh phúc. - CH:Mẹ con Cám là người như thế Mẹ con Cám: độc ác, nhẫn tâm, đố nào? Đã làm những gì với Tấm kị nhưng lại có miệng lưỡi ngon ngọt, luôn tìm mọi cách làm hại - CH: Hành động của Tấm mỗi khi bị Tấm mẹ con Cám đối xử độc ác bất công là + Bắt tép - Cám lừa - Bụt/Cá bống gì? + Chăn trâu - Mẹ con Cám giết - CH: Nhận xét về sự thay đổi trong bống - Bụt/xương bống hành động của Tấm. Ý nghĩa? + Xem hội - Mẹ con Cám bắt nhặt - CH: Tấm đã trải qua mấy làn hóa thóc - Bụt/ trang phục  Hành động của nhân vật thân?Ý nghĩa? Tấm: - CH: Cách cấu tạo truyện Tấm - Đi bắt tôm tép : Tấm chăm chỉ bắt được giỏ tép đầy, bị Cám lười Cám ? biếng lừa chị đổ tép sang giỏ mình - Đi chăn trâu:  mẹ con Cám gạt Tấm đi chăn đồng xa, Cám ở nhà giết cá bống làm thịt ăn. Về không HS: suy nghĩ trả lời thấy bống đâu Tấm lại cũng khóc. - Đi xem hội : Mẹ con Cám trắng trợn trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt, không cho Tấm đi xem hội.. -Trèo cây cau: nhân ngày giỗ bố, nghe lời mụ dì ghẻ Tấm trèo cau hái cau để cúng cha, mẹ con Cám chặt gốc cau giết Tấm.  Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ => Cô Tấm yếu đuối thụ động luôn HS: theo dõi SGK và trả lời câu hỏi bị mẹ con Cám bắt nạt, phải có sự 17 GV: - Định hướng và gợi mở cho HS giúp đỡ của Bụt. -Bốn lần hoá thân của Tấm: Bước 3: Thảo luận, trao đổi, báo +Thành chim vàng anh: cáo +Thành cây xoan đào +Thành khung cửi GV: Lắng nghe câu trả lời +Thành cây thị (quả vàng thơm)  HS: Trả lời câu hỏi. Hs khác bổ sung =>Bốn lần bị giết, bốn lần hóa thân ý kiến nếu thấy không phù hợp. của Tấm chứng minh sức sống mãnh liệt không thể bị tiêu diệt. Bước 4: Phương án kiểm tra, đánh Cái thiện không chịu chết oan ức giá. trong im lặng, vùng dậy huỷ diệt HS vẽ sơ đồ nội dung bài học cái ác.  -> cấu tạo theo đường thẳng,theo trình tự diễn biến các hành động của nhân vật Tiết 2: Hoạt động 1: Học sinh tìm hiểu văn bản:các môtip; Những câu văn vần. (20’) 1.Mục tiêu: Giúp học sinh nhận biết được - Các môtiptrong văn bản - Như thế nào văn vần. - Những câu văn vần trong tác phẩm, ý nghĩa. 2. Phương pháp: Vấn đáp, thuyết trình. 3. Hình thức: Trong lớp 4. Phương tiện: Bảng phụ, sách giáo khoa HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG CHÍNH Bước 1: Giao nhiệm vụ GV: Hướng dẫn HS tìm hiểu kiến thức bài học qua việc đọc văn bản. HS phải trả lời các câu hỏi sau: 2. Các môtíp: - Motif người mẹ ghẻ ác nghiệt : mụ dì ghẻ tham lam và độc ác, Tấm luôn bị mẹ con Cám ghen ghét và ngược đãi - Motif ông Bụt hiền lành nhân hậu, luôn xuất hiện khi những người tôt bụng - CH: Kể tên các môtip quen gặp khó khăn thuộc thường gặp trong truyện Ông Bụt chính là ước mơ của nhân dân cổ tích. luôn mong muốn có thế lực che chở và phù trợ cho mình, và người tốt thì luôn - CH: Ở truyện Tấm Cám có luôn được giúp đỡ. những Môtip nào? - Motif vật xấu xí biến thành người đẹp 18 - CH: Ý ngĩa của các môtip đó là gì? - CH: Văn vần là gì? - CH: liệt kê các câu văn vần trong tác phẩm? - CH:Nêu ý nghĩa của việc sử dụng các câu văn vần đó. HS: suy nghĩ trả lời Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ HS: theo dõi SGK và trả lời câu hỏi GV: - Định hướng và gợi mở cho HS Bước 3: Thảo luận, trao đổi, báo cáo GV: Lắng nghe câu trả lời HS: Trả lời câu hỏi. Hs khác bổ sung ý kiến nếu thấy không phù hợp. Bước 4: Phương án kiểm tra, đánh giá. HS vẽ sơ đồ nội dung bài học đẽ: trong truyện Tấm cám đó là khi Tấm muốn đi dự hội mà không có quần áo đẹp. - Motif tái sinh: nhân vật Tấm trải qua nhiều lần biến hóa: => các motif này đã tạo nên cái không khí mơ màng vừa thực vừa ảo rất hấp dẫn của truyện cổ tích 3. Những câu văn vần xen kẽ: - Văn vần là thể văn diễn ý bằng câu có vần. - Là lời dỗ ngon dỗ ngọt của Cám để lừa Tấm nhằm trút hết tôm tép trong giỏ: “Chị Tấm ơi chị Tấm,Đầu chị lấm,Chị hụp cho sâu,Kẻo về mẹ mắng” - Lời gọi êm ái của Tấm dành - cho cá bống mỗi khi Tấm cho bống ăn - Lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa - Khi Tấm hóa thân thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi…. =>Xuất hiện những lúc mâu thuẫn xung đột, những tình huống có vấn đề cần nhấn mạnh, khắc sâu cốt truyện, đồng thời tạo đà đẩy cốt truyện diễn tiến một cách tự nhiên Hoạt động 2: Học sinh tìm hiểu: Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật; Không khí truyện(20’). 1.Mục tiêu: Giúp học sinh nhận biết được - Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật; - Không khí truyện 2. Phương pháp: Thảo luận, Vấn đáp, thuyết trình 3. Hình thức: Trong lớp 4. Phương tiện: Bảng phụ, sách giáo khoa HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG CHÍNH Bước 1: Giao nhiệm vụ 4. Thời gian nghệ thuật, không GV: Hướng dẫn HS tìm hiểu kiến gian nghệ thuật của tác phẩm. thức bài học qua việc đọc văn bản. * Thời gian nghệ thuật: 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan