UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
PHẠM HƯƠNG LAN
DẠY HỌC PHÂN HÓA CHỦ ĐỀ PHƯƠNG TRÌNH –
HỆ PHƯƠNG TRÌNH LỚP 9 TRƯỜNG PHỔ THÔNG
DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Toán
Mã số: 8140111
Người hướng dẫn khoa học:GS. TS. Bùi Văn Nghị
PHÚ THỌ, 2018
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong một lớp học, học sinh (HS) mặc dầu có cùng độ tuổi, có nhiều
điểm giống nhau về sự phát triển về thể chất, tâm sinh lí, nhưng cũng có
không ít sự khác nhau: về nhận thức, tư duy, năng khiếu, sở trường, điều
kiện, hoàn cảnh, nền nếp gia đình...
Hơn nữa, sự phát triển văn hóa, khoa học ở mỗi vùng, miền cũng có
nhiều nét không tương đồng, nên có sự phân hóa khá lớn về năng lực, trình
độ nhận thức của mỗi HS. Bởi vậy, dạy học phân hóa là xu thế tất yếu, là
một đòi hỏi khách quan của xã hội.
Riêng đối với HS vùng dân tộc ít người, năng lực học văn hóa nói
chung, học toán nói riêng của các em có phần thấp hơn các vùng khác. Do
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Tại các vùng dân tộc ít người, nhiều gia
đình còn khó khăn về mọi mặt: kinh tế, dân trí, văn hóa, các hoạt động xã
hội, y tế, giáo dục, nên năng lực học văn hóa nói chung, học toán nói riêng
của HS rất khác nhau. Chính vì thế bên cạnh phương pháp dạy học (PPDH)
theo kiểu đồng loạt cần được chú ý dạy học phân hóa.
Ngày nay, cùng với việc đổi mới giáo dục phổ thông, môn Toán trung
học cơ sở (THCS) cũng được đổi mới về nội dung chương trình sách giáo
khoa, phương pháp dạy học,... Tuy nhiên, chúng ta cũng không khỏi lo lắng
về chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng môn Toán nói riêng. Tình
trạng HS “ngồi nhầm lớp” vẫn thường xảy ra, nền tảng kiến thức của một số
HS chưa tương đương với trình độ lớp đang học vẫn còn tồn tại trong các
nhà trường. Từ đó cho thấy việc dạy học phân hóa, nhằm khắc phục phần
nào tình trạng đó cũng cần được các giáo viên chú ý.
Mục tiêu giáo dục Trung học được quy định trong Luật Giáo dục
2005: "Nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo
2
dục Trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết
thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực
cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung
cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động". [14]
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hiện nay nhiều trường Phổ
thông Dân tộc Nội trú (PT DTNT) đã được ra đời, trong đó có tỉnh Phú Thọ.
Các trường này đã được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời các cấp, các ngành,
đặc biệt là ngành giáo dục và đào tạo, tăng cường các giải pháp giúp đỡ các
HS vùng có hoàn thành khó khăn chương trình cấp học góp phần hoàn thành
công tác phổ cập giáo dục THCS.
Mặc dầu vậy, là những giáo viên trực tiếp lên lớp cho các em, chúng
tôi không khỏi băn khoăn về chất lượng của HS. Rất cần có những giải pháp
hỗ trợ kịp thời khắc phục những bất cập đó, trong đó có giải pháp về dạy
học phân hóa.
Chủ đề “Phương trình - Hệ phương trình ở lớp 9” khá phong phú về
các dạng toán và các phương pháp giải. Chính vì vậy, có một số em không
thể hiểu được tất cả các dạng và khó có thể vận dụng giải toán trong những
trường hợp không cơ bản. Với những em này, giáo viên cũng cần có sự quan
tâm đặc biệt, vừa phải dạy học phân hóa ngay trong quá trình dạy học ở trên
lớp – phân hóa trong, vừa phải dạy riêng – phân hóa ngoài, giúp các em theo
được trình độ chung của hầu hết các bạn trong lớp. Giáo viên cần tạo động
lực cho học sinh: khơi dậy, kích thích ở học sinh về động cơ, ý chí, hứng
thú, khát khao, niềm đam mê trong học tập. Từ đó hình thành phẩm chất,
năng lực của người học sinh
Đã có một só đề tài nghiên cứu về dạy học phân hóa. Chẳng hạn như:
3
- Luận văn Thạc sĩ của Ngần Văn Thanh (2017), tại Đại học Tây Bắc, về
đề tài “Dạy học phân hóa chủ đề đường tròn cho học sinh lớp 9 trường phổ
thông dân tộc nội trú tỉnh Sơn La’’. [18]
- Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Lan Hương (2013), tại ĐHSP ĐH
Thái Nguyên về đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học phân hóa trong dạy
học tìm Nguyên hàm cho học sinh lớp 12 THPT miền núi tỉnh Yên Bái theo
chương trình chuẩn”. [8]
Tuy nhiên chúng tôi chưa thấy đề tài nào theo hướng dạy học phân
hóa nội dung Đại số lớp 9 ở trường Dân tộc Nội trú.
Từ những lí do trên và đút rút kinh nghiệm từ công tác giảng dạy của
bản thân tôi chọn nghiên cứu đề tài “ Dạy học phân hóa chủ đề Phương
trình – Hệ phương trình lớp 9” trường phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú
Thọ
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là đề xuất PPDH phân hóa chủ đề Phương trình
– Hệ phương trình lớp 9 trường phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ,
nhằm đổi mới PPDH và nâng cao chất lượng dạy học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận về dạy học phân hóa;
- Khảo sát thực trạng dạy và học chủ đề Phương trình – Hệ phương
trình lớp 9 trường phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ;
- Đề xuất PPDH phân hóa chủ đề Phương trình – Hệ phương trình
lớp 9 trường phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ, nhằm đổi mới PPDH
và nâng cao chất lượng dạy học nội dung này.
-Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của
PPDH đã đề xuất.
4
4. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng phương pháp dạy học phân hóa chủ đề Phương trình – Hệ
phương trình lớp 9 trường phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ, thì mỗi
đối tượng HS sẽ tích cực, chủ động hơn trong học tập và nâng cao được chất
lượng dạy học nội dung này.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quá trình dạy học phân hóa chủ đề Phương
trình – Hệ phương trình lớp 9 trường phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ
- Khách thể nghiên cứu: Nội dung chương trình, sách giáo khoa, sách
giáo viên Đại số 9 và một số loại sách khác.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu đề xuất PPDH phân hóa
chue đề Phương trình – Hệ phương trình lớp 9 trường phổ thông Dân tộc
Nội trú tỉnh Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu về
các vấn đề liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát thực trạng dạy học chủ
đề Phương trình – Hệ phương trình lớp 9 trường phổ thông Dân tộc Nội trú
tỉnh Phú Thọ;
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư
phạm một số tiết dạy Phương trình – Hệ phương trình lớp 9 trường phổ
thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ theo PPDH phân hóa đã đề xuất trong
luận văn, để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của PPDH đó.
5
7. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lí luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ việc vận dụng PPDH
phân hóa chủ đề Phương trình – Hệ phương trình lớp 9 trường phổ thông
Dân tộc Nội trú.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn đề xuất được PPDH phân hóa chủ đề
Phương trình – Hệ phương trình lớp 9 trường Phổ thông Dân tộc Nội trú,
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về dạy học phân hóa chủ đề Phương
trình – Hệ phương trình lớp 9 trường Phổ thông Dân tộc Nội trú
Chương 2: Phương pháp dạy học phân hóa chủ đề Phương trình – Hệ phương
trình lớp 9 THCS
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
6
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DẠY HỌC PHÂN HÓA
CHỦ ĐỀ PHƯƠNG TRÌNH - HỆ PHƯƠNG TRÌNH
LỚP 9 TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ
1.1. Dạy học phân hóa
1.1.1. Quan niệm về dạy học phân hóa, đặc điểm, ý nghĩa của dạy học
phân hóa
Dù muốn hay không chúng ta cũng phải thừa nhận rằng trong một lớp
học luôn có tình trạng phân hóa về học lực. Bên cạnh phần đông học sinh có
học lực tương đối đều nhau ở mức độ trung bình và khá, vẫn tồn tại một số
học sinh có học lực thuộc loại giỏi và một số học sinh có học lực dưới trung
bình.
Dạy học phân hóa là một kiểu dạy học trong đó giáo viên sử dụng
những hình thức tổ chức dạy học khác nhau sao cho phù hợp với mỗi đối
tượng học sinh. [3]
Dạy học phân hóa là hình thức dạy học phù hợp với năng lực nhận
thức và tâm sinh lý của học sinh nhằm tận dụng và phát triển năng lực riêng
vốn có của mỗi em.
Yêu cầu xã hội đối với HS vừa có sự giống nhau về những đặc điểm
cơ bản của người lao động trong cùng một xã hội, vừa có sự khác nhau về
trình độ nhận thức, khuynh hướng nghề nghiệp và tài năng của từng người...
[20]
HS trong cùng một lớp học vừa có sự giống nhau vừa có sự khác
nhau về trình độ phát triển nhân cách, trong đó sự giống nhau là cơ bản.
Tuy nhiên, sự khác nhau giữa các HS có thể có tác động khác nhau
đối với quá trình dạy học.
7
Sự giống nhau và khác nhau về yêu cầu xã hội và về trình độ phát
triển nhân cách từng người đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất
cùng với những biện pháp phân hoá nội tại.
Dạy học phân hóa góp phần thực hiện yêu cầu đào tạo và phân công
lao động xã hội theo nguyên tắc mỗi thành viên sẽ đóng góp có hiệu quả
nhất đối với những việc đã chọn hoặc được giao trên cơ sở đã được chuẩn bị
tốt theo định hướng từ nhà trường, đây thực chất là đáp ứng yêu cầu phân
luồng lao động của xã hội mà nhà trường phải thực hiện. [15]
Dạy học phân hóa căn cứ vào quy luật phát triển nhận thức và hình
thành các đặc điểm bộc lộ thiên hướng, sở trường và hứng thú đối với những
lĩnh vực kiến thức, kỹ năng nhất định.
Để đảm bảo giờ dạy học phân hoá đạt hiệu quả tối đa thì sự hiểu
biết của người thầy về từng HS là hết sức quan trọng.
Phân hoá HS theo trình độ nhận thức, giao nhiệm vụ phù hợp với
từng nhóm HS tạo điều kiện và phương tiện hoạt động để HS tự phát hiện ra
các tình huống có vấn đề; tự mình hoặc cùng các bạn trong nhóm, trong lớp
lập kế hoạch hợp lý nhất để giải quyết vấn đề.
Tập trung mọi cố gắng để phát triển năng lực, sở trường của mỗi HS,
tạo cho HS có niềm tin và niềm vui trong học tập.
Dạy học như trên khuyến khích GV chủ động và sáng tạo trong nghề
nghiệp đồng thời yêu cầu họ phải trân trọng mọi cố gắng, mọi sáng tạo dù
còn nhỏ bé của từng HS . Kết quả của cách dạy học như thế không chỉ góp
phần hình thành cho HS các kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết, mà chủ
yếu là xây dựng cho HS lòng nhiệt tình và phương pháp học tập để sáng
tạo như một nhà triết học cổ Hy Lạp đã nói: Dạy học không phải là chất
đầy vào một cái thùng rỗng mà là làm bừng sáng lên những ngọn lửa. [17]
8
Dạy học phân hóa xuất phát từ sự biện chứng của thống nhất và phân
hóa, từ yêu cầu đảm bảo thực hiện mục tiêu cùng cho toàn thể học sinh,
đồng thời khuyến khích phát triển tối đa những khả năng của cá nhân. Trong
dạy học phân hóa, người thầy giáo cần tính tới những đặc điểm của cá nhân
học sinh, chú ý tới từng đối tượng hay từng loại đối tượng về trình độ tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo đã đạt, về khả năng tiếp thu, nhu cầu luyện tập, sở
thích hứng thú và khuynh hướng nghề nghiệp … để tích cực hóa hoạt động
của học sinh trong học tập. [19]
Một khả năng dạy học phân hóa thường dùng là phân hóa nội tại, tức
là dạy học phân hóa trong nội bộ một lớp học thống nhất, chưa sử dụng hình
thức tổ chức phân hóa bên ngoài như nhóm ngoại khóa, giáo trình tự chọn,
lớp chuyên, phân ban …
Sự phân bậc hoạt động có thể được lợi dụng để thực hiện dạy học
phân hóa nội tại theo cách cho những học sinh thuộc những loại trình độ
khác nhau đồng thời thực hiện những hoạt động có cùng nội dung nhưng
trải qua hoặc ở những mức độ yêu cầu khác nhau. Chẳng hạn, khi sử dụng
các bài tập ở ví dụ có thể cho HS trung bình và yếu làm tuần tự các bài như
SGK, trong khi HS giỏi bỏ qua một, hai bài và sử dụng thời gian dư ra để
làm thêm một bài nâng cao khác. [5]
Dạy học phân hóa có thể thực hiện ở hai cấp độ:
- Phân hóa ở cấp vĩ mô (phân hóa ngoài): là sự tổ chức quá trình dạy
học thông qua cách tổ chức các loại hình trường, lớp khác nhau cho các đối
tượng HS khác nhau, xây dựng các chương trình giáo dục khác nhau (trường
chuyên, lớp chọn);
- Phân hóa ở cấp vi mô (phân hóa trong), là tổ chức quá trình dạy học
trong một tiết học, một lớp học có tính đến đặc điểm cá nhân học sinh, là
9
việc sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp trong một lớp học, cùng
một chương trình và sách giáo khoa. [16]
Dạy học phân hóa ở cấp độ vi mô là tìm kiếm các phương pháp, kỹ
thuật dạy học sao cho mỗi cá thể hoặc mỗi nhóm, với nhịp độ học tập khác
nhau trong giờ học đều đạt được kết quả mong muốn. Cấp độ phân hóa này
liên quan đến tổ chức dạy học trực tiếp đối tượng học sinh ở các môn học,
bài học trong khuôn khổ lớp học.
Dạy học phân hóa ở cấp độ vĩ mô thể hiện ở các hình thức tổ chức dạy
học với những nội dung khác nhau cho từng lớp đối tượng khác nhau cũng
nhằm tạo điều kiện cho học sinh phát triển tốt nhất về năng lực và thiên
hướng. Cấp độ phân hóa vĩ mô liên quan chủ yếu đến cơ cấu hệ thống giáo
dục (cấp học), các loại nhà trường phổ thông, tỉ trọng và quan hệ giữa các
lĩnh vực học tập theo các cấp học biểu hiện trong chương trình giáo dục phổ
thông, đến cơ cấu quản lý nhà trường.
Dạy học phân hóa ở cấp độ vĩ mô đối với bậc Trung học là một xu thế
của thế giới và từ lâu đã được thể hiện cụ thể trong thực tiễn giáo dục của
nhiều quốc gia. Theo kết quả của các công trình nghiên cứu về hệ thống
giáo dục và các hình thức tổ chức học tập trong nhà trường trên thế giới thì
hiện nay, hầu như không còn nước nào dạy học theo một kế hoạch và
chương trình duy nhất cho mọi học sinh ở trường Trung học.
Những hình thức tổ chức dạy học phân hóa nói trên thường là: phân
thành các ban với những chương trình khác nhau; phân loại các giáo trình
để học tập theo kiểu bắt buộc và tự chọn, xây dựng các loại trường chuyên
biệt hoặc kết hợp các hình thức đã nêu.
Theo Nguyễn Bá Kim (2015), tư tưởng chủ đạo của dạy học phân hóa
là lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng; tìm
cách đưa diện yếu kém lên trình độ chung; tìm cách đưa diện khá, giỏi đạt
10
những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đạt được những yêu cầu cơ bản. [9]
Nguyên tắc của dạy học phân hóa là giáo viên phải thừa nhận người
học là khác nhau; xem trọng chất lượng hơn số lượng; tập trung vào người
học, học tập là sự phù hợp và hứng thú; hợp nhất dạy học toàn lớp, nhóm và
cá nhân…
Như vậy, có thể thấy dạy học phân hóa có chức năng làm cho quá
trình và hệ thống dạy học thích ứng cao hơn với cá nhân người học, với
những đặc điểm của nhóm đối tượng để đảm bảo chất lượng học tập, đồng
thời đáp ứng hiệu quả mục tiêu giáo dục, nhu cầu và lợi ích xã hội.
Ngoài ra, người ta còn có sự phân chia khái niệm dạy học phân hóa
theo những phương diện khác nhau như: Phân hóa theo hứng thú, phân hóa
theo sự nhận thức, phân hóa giờ học theo học lực, phân hóa giờ học theo
động cơ, lợi ích học tập của người học, phân hóa theo các dạng năng khiếu,
sở trường khác nhau. Dạy học phân hóa có thể thực hiện từ lớp dưới đến
những lớp trên để những học sinh có năng khiếu nào thì có cơ hội phát triển
năng khiếu, sở trường đó.
DHPH được tổ chức dưới các hình thức như: phân hóa theo hứng
thú (căn cứ vào đặc điểm hứng thú học tập của HS để tổ chức cho người học
tìm hiểu khám phá nhận thức); phân hóa theo sự nhận thức (lấy sự phân biệt
nhịp độ làm căn cứ phân hóa. Nhịp độ được tính bằng lượng thời gian
chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác, từ nhiệm vụ này sang nhiệm
vụ khác); phân hóa giờ học theo học lực (căn cứ vào trình độ học lực có
thực của người học để có những tác động sư phạm phù hợp với người học.
Dựa trên trình độ khá, trung bình, yếu mà giáo viên giao cho HS những
nhiệm vụ tương ứng); phân hóa giờ học theo động cơ, lợi ích học tập của
người học (với nhóm HS có nhu cầu tìm tòi, hiểu biết cao cần xác định
nhiệm vụ học tập cao hơn và đưa thêm nhiều nội dung, tài liệu học tập cho
11
HS tự học. Với nhóm HS có nhu cầu học tập không cao thì việc phân hóa
dạy học phải chú ý đến nhiệm vụ, nội dung cơ bản và bổ sung những vấn đề
thực tiễn giúp người học hào hứng học tập). [3]
1.1.2. Yêu cầu đối với giáo viên trong dạy học phân hóa
Đối với dạy học phân hóa, giáo viên cần hiểu rõ đối tượng giáo dục.
Từ năng lực hiểu đối tượng giáo dục, giáo viên cần có một năng lực quan
trọng là thiết kế công cụ dạy học. Đó là hệ thống câu hỏi, phiếu bài tập, bài
kiểm tra,... phù hợp với từng đối tượng học sinh và thể hiện được sự phân
hóa.
Những công cụ ấy phải vừa đảm bảo được mục đích chung là giúp
học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản vừa phù hợp với nhận thức và
học lực của từng đối tượng học sinh để góp phần phân hóa được đối tượng
học sinh.
Năng lực thiết kế công cụ dạy học đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức
chuyên môn vững, hiểu sâu đối tượng học sinh. Đồng thời, giáo viên cần
dành nhiều thời gian, công sức đầu tư trong việc lựa chọn và thiết kế công
cụ dạy học.
Năng lực thứ hai giáo viên cần có trong dạy học phân hóa là năng lực
sáng tạo. Sáng tạo trong cách dạy, sáng tạo trong lựa chọn phương pháp,
công cụ, tổ chức hoạt động, sáng tạo trong cách đánh giá... là một trong
những năng lực quan trọng của người giáo viên.
Cùng một phương pháp dạy học, nội dung dạy học nhưng giáo viên
cần có sự tổ chức hợp lý để đạt được mục đích phân hóa đối tượng học sinh
mà không làm học sinh yếu kém phải tự ti, mặc cảm hay học sinh khá giỏi
trở nên tự cao, tự đại. Đó là nghệ thuật giảng dạy của giáo viên.
Như vậy, dạy học phân hóa (DHPH) đòi hỏi giáo viên phải có tâm và
phải phát hiện được năng khiếu của mọi học sinh. Để tổ chức DHPH thành
12
công, người giáo viên cần tạo mối quan hệ dân chủ giữa thầy và trò, giữa trò
và trò để giúp HS cởi mở, tự tin hơn. Đặc biệt, trong DHPH cần tuân thủ
quy trình 4 bước, gồm: Điều tra, khảo sát đối tượng HS trước khi giảng dạy;
lập kế hoạch dạy học, soạn bài từ việc phân tích nhu cầu của HS; trong giờ
dạy, giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học, lựa chọn những
hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mục tiêu bài học, kiểm tra, đánh giá
sự tiến bộ của HS trong suốt quá trình giảng dạy.
Như vậy, để triển khai rộng rãi và có hiệu quả quan điểm DHPH thì
các lực lượng tham gia công tác giáo dục cần nắm được bản chất của vấn đề,
đồng thời phải thay đổi nhận thức trong xây dựng nội dung, chương trình
cũng như trong giảng dạy và kiểm tra, đánh giá
1.2. Dạy học phân hóa chủ đề Phương trình - Hệ phương trình lớp 9
1.2.1. Các dạng bài toán trong chủ đề Phương trình - Hệ phương trình ở
lớp 9
Chủ đề Phương trình - Hệ phương trình ở lớp 9 có thể phân thành ba
dạng chính:
Dạng 1: Các bài toán giải hệ phương trình
Dạng này gồm hệ hai phương trình bậc nhất hai ẩn. Có ba phương pháp
chính để giải hệ này là: Giải hệ phương trình bằng phương pháp thế, phương
pháp cộng đại số, đặt ẩn phụ.
Dạng 2: Các bài toán giải phương trình và một số phương pháp chính để
giải phương trình là:
Dạng này gồm: Phương trình bậc hai một ẩn, phương trình quy về
phương trình bậc hai (đặt ẩn phụ)
Dạng 3: Các dạng bài toán "giải bài toán bằng cách lập phương trình, hệ
phương trình có thể kể ra các dạng toán cơ bản sau:
+ Dạng toán chuyển động
13
+ Dạng toán liên quan đến các kiến thức hình học
+ Dạng toán công việc làm chung, làm riêng
+ Dạng toán tìm số
+ Dạng toán sử dụng các kiến thức về phần trăm
+ Dạng toán sử dụng các kiến thức vật lý, hóa học….
1.2.2. Chủ đề Phương trình - Hệ phương trình ở lớp 9 phù hợp với
phương pháp dạy học phân hóa
Chính vì chủ đề Phương trình - Hệ phương trình ở lớp 9 khá phong
phú về các dạng và các phương pháp giải các dạng phương trình và hệ
phương trình nên có không ít em không thể hiểu được tất cả các dạng và khó
có thể vận dụng giải toán trong những trường hợp không cơ bản. Bởi vậy,
giáo viên cần có sự quan tâm đặc biệt, vừa phải dạy học phân hóa ngay
trong quá trình dạy học ở trên lớp – phân hóa trong, vừa phải dạy riêng –
phân hóa ngoài, giúp các em theo được trình độ chung của hầu hết các bạn
trong lớp.
1.3. Giới thiệu về các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ
và khảo sát tình hình phân hoá về học lực của học sinh lớp 9 trường
Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ khi học phương trình – hệ
phương trình
1.3.1. Các trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ
Hệ thống trường Phổ thông Dân tộc Nội trú ở Việt Nam được hình
thành và phát triển từ rất sớm, đến nay đã phủ kín khắp các huyện miền núi
ở các tỉnh. Tỉnh Phú Thọ có 5 trường PT DTNT trong đó có 01 trường PT
DTNT tỉnh (Đào tạo HS THPT), 04 trường PT DTNT THCS ở các huyện
Yên Lập, Đoan Hùng, thành Sơn, Tân Sơn.
14
Là một ngôi trường chuyên biệt, từ khi thành lập các nhà trường luôn
nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo: Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh, Sở GD&ĐT Phú Thọ, các ban, ngành của tỉnh, các địa phương.
Cơ sở vật chất của nhà trường được đầu tư xây dựng đáp ứng đủ nhu cầu
học tập và sinh hoạt của HS và cán bộ, giáo viên, nhân viên. 100% HS được
nuôi dưỡng, sinh hoạt tại trường đảm bảo sức khỏe để học tập và tuyệt đối
an toàn. HS được tạo điều kiện tham gia đầy đủ các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể thao, ngoại khóa,...
Các trường được thành lập tạo cơ hội cho con em dân tộc vùng sâu,
vùng xa được hòa mình với nền giáo dục có chất lượng. Mang trên mình
nhiệm vụ cao cả đó, các Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ đã
luôn cố gắng, nỗ lực trở thành mái nhà chung, là cánh cửa mở ra tương lai
cho hàng nghìn học sinh người dân tộc thiểu số. Nhà trường có nhiệm vụ
chính trị là nuôi và dạy các học sinh THPT, THCS của con, em các dân tộc
thiểu số của các xã nghèo của huyện huyện Tân Sơn, Thanh Sơn, Yên Lập,
Đoan Hùng.
Hàng năm học sinh được tuyển vào trường Phổ thông Dân tộc Nội trú
cụ thể như đối với Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Yên Lập chủ yếu là
con em đồng bào các dân tộc như Mường, Dao ở các khu đặc biệt khó khăn
của các xã nghèo. Do đó, trình độ nhận thức của các em không đồng đều, có
em còn chưa đọc thông viết thạo chữ Tiếng Việt. Nhiều em nói tiếng phổ
thông cũng còn khó khăn, các em ít giao tiếp. Một số em còn bị phụ thuộc
vào những phong tục, tập quán lạc hậu của bản làng, trình độ nhận thức còn
hạn chế, có em vẫn còn tư tưởng ngại khó, ngại khổ, thiếu kiên trì. Do vậy là
GV chúng tôi luôn nỗ lực bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ áp dụng PPDH
phù hợp nhất đối với các em.
15
1.3.2. Khảo sát tình hình phân hoá về học lực của học sinh lớp 9 trường
Dân tộc Nội trú tỉnh Phú Thọ khi học phương trình – hệ phương trình
Để nắm được tình hình học tập, khó khăn của HS lớp 9 khi học Phương
trình – Hệ phương trình lớp 9, chúng tôi đã điều tra bằng phiếu hỏi 100 HS
lớp 9 ở các trường phổ thông Dân tộc Nội trú (THCS) tỉnh Phú Thọ, với nội
dung như trong phụ lục 1.
Kết quả thu được thống kê với tỉ lệ % như sau:
Bảng 1.1: Kết quả thống kê (theo tỉ lệ %) phiếu hỏi ý kiến của HS về tình hình
học tập chủ đề phương trình – hệ phương trình lớp 9
Câu
A
B
C
1
62
29
9
2
7
88
5
3
10
58
32
4
52
42
6
5
75
25
0
6
9
22
69
7
9
22
69
8
11
78
11
9
33
56
11
10
12
70
18
16
Biểu đồ 1.1. Kết quả thống kê (theo tỉ lệ %) phiếu hỏi ý kiến của HS
về tình hình học tập chủ đề phương trình – hệ phương trình lớp 9
Một số nhận xét rút ra từ điều tra:
Nhiều em (62%) cho rằng phương trình – hệ phương trình là một nội dung
khó học?, chỉ có một số ít em (9%) cho rằng dễ; mặc dù nội dung kiến thức
trong mỗi giờ học về phương trình – hệ phương trình không ít cũng không
nhiều, theo đánh giá của đa số các em (88%). Có tới 32% các em cho rằng nội
dung này các em khó có thể hiểu bài và làm được bài ngay trên lớp.
Hơn một nửa số HS được hỏi (52%) cho rằng khó khăn nhất khi học
phương trình – hệ phương trình là nội dung này có nhiều dạng toán mới, đặc
biệt có 6% các em cho rằng dạng toán này khó cơ bản vì các em không biết
cách làm bài. Dẫn đến 25% các em không thích học nội dung phương trình -
hệ phương trình bởi vì các em không hiểu bài.
Tuy nhiên cũng không có em nào (0%) cho rằng bài giảng của thầy cô không
hay. Nhiều em (69%) ít phát biểu ý kiến hay nêu thắc mắc của mình trong quá
trình học tập, mặc dầu bài giảng của thầy cô thường ở dạng bình thường,
không chậm cũng không nhanh (78%). Có 33% các em làm được bài tập về
nhà, 56% các em làm được ít bài tập về nhà và cá biệt có 11% các em không
biết cách làm bài tập về nhà.
17
Như vậy, có thể nói dạng toán phương trình – hệ phương trình thuộc
loại khó vì nội dung này có nhiều dạng toán mới, dẫn đến nhiều em học tập ở
dạng thụ động, ít phát biểu, ít hỏi bài và thường làm không hết bài tập về nhà.
1.3.3. Tham khảo ý kiến giáo viên
Chúng tôi lập phiếu khảo sát thực trạng dạy và học phương trình từ 10
giáo viên của các trường phổ thông Dân tộc nội trú (THCS) tỉnh Phú Thọ.
Mẫu phiếu khảo sát xin xem phụ lục 2 và kết quả khảo sát như sau:
Bảng 1.2: Kết quả của phiếu điều tra (theo tỉ lệ %) tham khảo ý kiến của GV
về tình hình dạy phương trình – Hệ phương trình ở lớp 9.
Câu
A
B
C
1
0
10
90
2
70
10
20
3
70
10
20
4
60
30
10
5
100
0
0
6
0
100
0
7
70
20
10
8
10
80
10
18
120
100
80
A
60
B
C
40
20
0
1
2
3
4
5
6
7
8
Biểu đồ 1.2: Kết quả của phiếu điều tra ( theo tỉ lệ %) tham khảo ý
kiến của GV về tình hình dạy phương trình – Hệ phương trình ở lớp 9.
*Một số nhận xét rút ra từ điều tra:
Hầu hết các thầy cô (90 %) đều cho rằng phân phối chương trình cho
số tiết học phương trình – Hệ phương trình (PT - HPT) ở lớp 9 thuộc loại ít;
trong khi đó kiến thức về PT - HPT lớp 9 so với trình độ chung của học sinh
lại thuộc loại khó (70 %). Bởi thế, có sự phân hóa rất rõ về học lực của HS
khi học nội dung PT – HPT (70 %).
Trong quá trình dạy học PT – HPT ở lớp 9, nhiều thầy cô rất chú ý tới
PPDH phân hóa cho HS (60 %); tuy nhiên cũng có một số ít giáo viên (10%)
ít chú ý tới điều này. Tất cả các thầy cô được hỏi đều nắm vững PPDH phân
hóa và cho rằng việc áp dụng PPDH phân hóa không khó thực hiện và cũng
không dễ thực hiện.
Khi áp dụng PPDH phân hóa, có 70% số thầy cô thường áp dụng
phương pháp sử dụng phiếu học tập phân hóa khi dạy học trên lớp hoặc ra bài
tập phân hóa về nhà phù hợp với từng nhóm đối tượng theo học lực, 20% các
thầy cô tổ chức cho HS học hợp tác để các đối tượng khác nhau về học lực
19
giúp đỡ lẫn nhau; có 10% thầy cô áp dụng dạy riêng từng nhóm đối tượng
theo học lực (bồi dưỡng HS giỏi, phụ đạo HS yếu).
Có 10% số thầy cô cho rằng áp dụng PPDH phân hóa là rất hiệu quả, 10% cho
rằng ít hiệu quả và 80% cho rằng kết quả bình thường.
Như vậy, có thể thấy: Đa số giáo viên dạy Toán 9 đều biết và đã áp
dụng PPDH phân hóa. Tuy nhiên hiệu quả áp dụng thì chưa được khả quan.
1.4. Tiểu kết chương 1
Dạy học phân hóa là một nguyên tắc sư phạm. Nguyên tắc này đòi hỏi
phải tính đến những khác biệt của học sinh và đặc điểm tâm - sinh lý, sở
trường, nguyện vọng, hứng thú, điều kiện sống v.v... để đạt được hiệu quả
đối với mỗi cá nhân.
Để tạo điều kiện phát huy năng lực cá nhân người học, cần tiến hành
dạy học phân hóa trong nhà trường. Bản chất của việc phân hóa trong dạy
học là tạo ra những khác biệt nhất định trong nội dung và phương thức hoạt
động (nghĩa chung bao gồm mục tiêu, phương pháp, phương tiện, môi
trường, kết quả, thời gian) của CTGD (tổng thể hoặc ở từng cấp học, môn
học) bằng cách thiết kế và thực hiện CTGD theo nhiều hướng khác nhau dựa
vào năng lực, hứng thú hoặc nhu cầu học tập của người học và mục tiêu giáo
dục của xã hội.
Dạy học phân hoá như là một hướng đổi mới PPDH nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS được hiểu là quá trình GV tổ chức
và hướng dẫn các hoạt động học tập. Bao gồm:
Huy động mọi khả năng của từng HS để tự HS tìm tòi, khám phá ra
những nội dung mới của bài học.
Nội dung phương trình và hệ phương trình ở lớp 9 khá phong phú về
các dạng và các phương pháp giải các dạng phương trình và hệ phương trình
nên có không ít em không thể nắm được tất cả các dạng và khó có thể vận
- Xem thêm -