Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp khắc ni...

Tài liệu đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp khắc niệm, thành phố bắc ninh, tỉnh bắc ninh

.DOC
78
803
133

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NGÔ THU TRANG ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN CÔNG NGHIỆP TẠI CỤM CÔNG NGHIỆP KHẮC NIỆMTHÀNH PHỐ BẮC NINH- TỈNH BẮC NINH CHUYÊN NGÀNH : KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG MÃ SỐ : 60.44.03.01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THANH LÂM HÀ NỘI – 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Bắc Ninh, ngày 30 tháng 8 năm 2015 Tác giả luận văn Ngô Thu Trang ii LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thanh Lâm, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi rất tận tình, chu đáo trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo Khoa Môi trường, Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam đã dành nhiều tâm huyết để truyền đạt những kiến thức quí báu về chuyên ngành khoa học môi trường cho chúng tôi. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ, chuyên viên Phòng Tài nguyên môi trường thành phố Bắc Ninh, Chi cục Bảo vệ Môi trường thuộc Sở Tài Nguyên Môi trường tỉnh Bắc Ninh; Chi cục thống kê thành phố Bắc Ninh, Ban quản lý Khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh, cán bộ Công ty Trách nhiệm hữu hạn Môi trường và Công trình đô thị Bắc Ninh đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát, thu thập thông tin và tài liệu liên quan để xây dựng luận văn. Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè, những người đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam. Bắc Ninh, ngày 30 tháng 08 năm 2015 Tác giả luận văn Ngô Thu Trang iii MỤC LỤC Trang Lời cam đoan ii Lời cảm ơn iii Mục lục iv MỞ ĐẦU 1 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 1.1 Quá trình hình thành và phát triển KCN trên thế giới và Việt Nam 3 1.1.1 Trên thế giới 3 1.1.2 Tại Việt Nam 5 1.2 Sự phát triển của khu công nghiệp và tác động của chúng đến môi trường 1.2.1 Sự phát triển KCN ở Việt Nam 5 5 1.2.2 Ảnh hưởng của phát triển khu công nghiệp đến đời sống kinh tế, xã hội và môi trường 7 1.3 Nguồn phát sinh và đặc điểm chất thải rắn công nghiệp 13 1.3.1 Nguồn phát sinh 13 1.3.2 Đặc điểm của chất thải rắn công nghiệp 15 1.4 Tổng quan về thực trạng quản lý chất thải rắn 18 1.4.1 Quản lý chất thải rắn trên thế giới 18 1.4.2 Quản lý chất thải ở Việt Nam 19 1.4.3 Quản lý chất thải rắn công nghiệp 21 Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30 2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 30 2.2 Nội dung nghiên cứu 30 2.3 Phương pháp nghiên cứu 30 2.3.1 Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp 30 2.3.2 Phương pháp điều tra ngoại nghiệp 30 2.3.3 Phương pháp xử lý số liệu 31 Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 32 iv 3.1 Hiện trạng quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp Khắc Niệm 32 3.1.1 Khái quát về cụm công nghiệp Khắc Niệm 32 3.1.2 Hiện trạng chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp Khắc Niệm 36 3.1.3 Cơ cấu tổ chức công ty TNHH Môi trường và Công trình đô thị Bắc Ninh 39 3.1.4 Đánh giá hiê êu quả quản lý chất thải rắn công nghiệp của CCN 46 3.2 Đề xuất mô hình hệ thống quản lý chất thải rắn công nghiệp hiệu quả hơn cho cụm công nghiệp Khắc Niệm 51 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO 59 PHỤ LỤC 61 v DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BTNMT CCN CHXHCN CT- UB CTCN CTNH CTR CTRCN CTRNH ĐTM HTMT KCN KKT KCX NĐ- CP ÔNMT PTBV QCVN QĐ- TTg TCVN TT TNHH UBND : Bộ tài nguyên Môi trường : Cụm công nghiệp : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam : Chỉ thị- Ủy ban : Chất thải công nghiệp : Chất thải nguy hại : Chất thải rắn : Chất thải rắn công nghiê êp : Chất thải rắn nguy hại : Đánh giá tác động môi trường : Hiện trạng môi trường : Khu công nghiệp : Khu kinh tế : Khu chế xuất : Nghị định- Chính phủ : Ô nhiễm môi trường : Phát triển bền vững : Quy chuẩn Việt Nam : Quyết định của Thủ tướng : Tiêu chuẩn Việt Nam : Thông tư : Trách nhiệm hữu hạn : Ủy ban nhân dân DANH MỤC BẢNG Số bảng Tên bảng 1.1 Một số liều lượng gây độc Trang 16 1.2 Liều lượng và tính độc 17 1.3 Lượng phát sinh chất thải nguy hại 22 3.1 Cơ cấu sử dụng đất 34 3.2 Thành phần các chất trong chất thải rắn công nghiệp 37 vi 3.3 Loại và lượng chất thải công nghiệp phát sinh trong cụm công nghiệp Khắc Niệm 3.4 38 Ý kiến nhận xét của cán bộ và người dân về các tác động mà các công ty, doanh nghiệp tại cụm công nghiệp gây ra 48 3.5 Ý kiến nhận xét của cán bộ và người dân xung quanh công ty 49 3.7 Tổng hợp ý kiến của cán bộ và người dân 51 vii DANH MỤC HÌNH Số hình Tên hình 1.1 Tình hình phát triển KCN qua các năm Trang 7 1.2 Quản lý chất thải nước Nhật 18 1.3 Quản lý chất thải ở Singapo 19 1.4 Hệ thống quản lý chất thải rắn đô thị 20 1.5 Quản lý chất thải ở các KCN ở Việt Nam 23 1.6 Mô hình hệ thống thu gom CTCN, CTNH từ các KCN, KCX 26 3.1 Biểu đồ hành chính phường Khắc Niệm- TP Bắc Ninh- tỉnh Bắc Ninh 33 3.2 Cơ cấu tổ chức Ban quản lý KCN Bắc Ninh 33 3.3 Cơ cấu ngành nghề sản xuất CCN Khắc Niệm 35 3.4 Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty TNHH Môi trường và Công trình đô thị Bắc Ninh 3.5 39 Quy trình quản lý chất thải của công ty TNHH Môi trường và Công trình đô thị Bắc Ninh tại cụm công nghiệp Khắc Niệm 41 3.6 Khối lượng chất thải công nghiệp trong năm 2014 46 3.7 Khối lượng chất thải rắn xử lý trong năm 2014 47 3.8 Đề xuất mô hình quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp Khắc Niệm 52 viii MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Phát triển công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của một quốc gia thông qua việc thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, phát triển công nghiệp cũng đang gây ra nhiều sức ép về môi trường ở hầu hết các quốc gia. Hàng ngày, các khu công nghiệp thải ra hàng nghìn tấn chất thải, trong đó chất thải rắn chiếm một phần không nhỏ. Hiện nay, việc quản lý chất thải nói chung và chất thải rắn công nghiệp nói riêng sao cho không gây tác động tiêu cực tới môi trường và cuộc sống của con người đang là vấn đề cấp thiết, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Ở nhiều quốc gia, các cơ quan quản lý và xử lý chất thải được thành lập, song hiệu quả về kinh tế và môi trường sinh thái của các hoạt động này vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Việt Nam là một quốc gia đang trong giai đoạn thực hiện mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và tạo nền tảng để đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Đại hội Đảng XI – 2011 đã đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh sự chú trọng về việc phát triển kinh tế, đất nước ta đang phải đối mặt nhiều vấn đề về môi trường. Đăc biệt là những khó khăn trong việc quản lý và xử lý chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng. Ở nhiều nơi trong cả nước, như ở các thành phố lớn, chất thải rắn đang là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái và sức khỏe con người. Ở các khu công nghiệp, việc quản lý và xử lý chất thải rắn công nghiệp hiện nay đang là một thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng và cơ quan quản lý của nhiều đô thị, nhất là những đô thị có khu công nghiệp tập trung như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương... Mặc dù, các Khu công nghiệp đã có hệ thống thu gom chất thải rắn nhưng cũng không tránh khỏi sự ô nhiễm mà chúng gây ra cho môi trường xung quanh. Quá trình công nghiệp hóa ở nước ta những năm qua đã hình thành nhiều KCN, CCN, KCX. Sự phát triển nhanh chóng những loại hình công nghiệp này đã làm gia tăng tốc độ ô nhiễm môi trường. 1 Hiện nay, hầu hết các loại hình công nghiệp đã có quy hoạch, thiết kế kỹ thuật, giải pháp công nghệ và quản lý để xử lý ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường KCN vẫn còn nhiều bất cập. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở KCN, CCN vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt là những KCN, CCN nằm trong đô thị, có mật độ dân số cao. Cụm công nghiệp Khắc Niệm - thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh có quy mô lớn, lại nằm trong khu vực thành phố, có mật độ dân số cao và đã đi vào hoạt động. Môi trường CCN này vẫn cần được quản lý, giám sát, đặc biệt đối với chất thải rắn công nghiệp, nguy hại. Những năm gần đây, Bắc Ninh trở thành điểm sáng trong thu hút đầu tư, công nghiệp phát triển nhanh, đời sống người dân nâng cao. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó, vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên bức xúc, đặc biệt là ô nhiễm chất thải . Việc quản lý chất thải rắn công nghiệp đã và đang là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Chính vì vậy tôi tiến hành thực hiện đề tài “Đánh giá tình hình quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp Khắc Niệm - thành phố Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh”. Chất thải rắn tại cụm công nghiệp Khắc Niệm do Công ty TNHH Môi trường và Công trình đô thị Bắc Ninh trực tiếp phụ trách thực hiện việc thu gom và xử lý chất thải. Mục đích nghiên cứu Đánh giá thực trạng công tác quản lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp Khắc Niệm- TP. Bắc Ninh và các phương thức xử lý chất thải rắn công nghiệp do công ty TNHH Môi trường và Công trình đô thị Bắc Ninh thực hiện. Yêu cầu của đề tài Đánh giá hiện trạng và công tác xử lý chất thải rắn công nghiệp tại cụm công nghiệp Khắc Niệm. Đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả hơn chất thải rắn công nghiệp đối với cụm công nghiệp Khắc Niệm. 2 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp trên thế giới và Việt Nam. 1.1.1. Trên thế giới Khu công nghiệp là một khái niệm chung bao gồm nhiều hình thức từ các hình thức truyền thống như: khu mậu dịch tự do, cảng tự do… xuất hiện từ thế kỷ XIX đến các hình thức mới xuất hiện cuối thế kỷ XX như khu công nghệ cao, khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu văn phòng, khu thương mại... Trên thế giới, sự tồn tại của khu công nghiệp đã trải qua nhiều bước phát triển, có thể kể ra bốn thế hệ của khu công nghiệp; gọi chung là Business Park (Nguyễn Cao Lãnh, 2009). Thế hệ đầu tiên của khu công nghiệp, được xây dựng vào những năm 1970, có thể được phân biệt với các thế hệ khác bởi cách sắp xếp văn phòng, kho tàng, kiến trúc khá đơn giản. Các khu vực của các tòa nhà hành chính chiếm 10 - 15% tổng diện tích của công viên, công trình theo mẫu và cho thuê ( Geneva,1993). Mặc dù hoàn hảo trong ý tưởng nhưng nhìn chung, tiêu chuẩn về quy hoạch và kiến trúc là thấp. Với chức năng cơ bản là công nghiệp và tỷ lệ các bộ phận chức năng, đặc biệt là cây xanh chưa hợp lý; KCN thế hệ thứ nhất luôn biệt lập vào ban ngày, vắng vẻ vào ban đêm và khó có thể đạt được một chất lượng môi trường, dịch vụ và hạ tầng cao (Nguyễn Cao Lãnh, 2009). Trong giai đoạn từ năm 1975 và 1985, các khu công nghiệp văn phòng, đã được sử dụng bởi các công ty kinh doanh với khoa học, công nghệ và kinh doanh chiếm không gian lớn hơn nhiều. Đặc điểm khu công nghiệp thế hệ thứ hai này là một kiến trúc phức tạp hơn (Nguyễn Văn Tuấn- 2007). Các KCN thế hệ thứ hai có xu hướng lấp đầy các khoảng trống còn lại ở vành đai đô thị, nhằm khôi phục và tiếp thêm sức sống cho các khu vực ngoại ô và nhằm xoá bỏ ấn tượng xấu về kiến trúc và cảnh quan của các khu vực công nghiệp. Ví dụ khu Chiswick (London, Anh), Irvine Spectrum (California, Hoa Kỳ) (Nguyễn Cao Lãnh,2009). Kể từ nửa cuối những năm 1980, thế hệ thứ ba khu công nghiệp được xây dựng. Các Business Park thế hệ thứ ba tuân thủ các nguyên tắc quy hoạch tổng thể 3 và xây dựng cơ sở hạ tầng của một đô thị nhỏ mới. Các công trình phục vụ công cộng được hợp thành một địa điểm nổi bật hay một trung tâm đô thị nhỏ phục vụ các đơn vị phát triển. Các đơn vị phát triển này với mật độ và kích thước lô đất khác nhau tạo ra sự đa dạng cho mọi đối tượng sử dụng trong KCN. Đại diện trong số này là một vài KCN thế hệ thứ ba như khu Stockley (Heathrow, Anh), Meridian (Carolina, Hoa Kỳ) (Nguyễn Cao Lãnh, 2009). Các tòa nhà hành chính và danh mục đầu tư các dịch vụ đặc trưng cho thế hệ thứ tư của khu công nghiệp đó bắt đầu phát sinh từ giữa những năm 1990 (Geneva, 1993). Kể từ nửa cuối những năm 1990, khu công nghiệp đã là một phần của một mạng lưới quốc tế các khu hợp tác. Tất cả Business Park thế hệ thứ tư đều đạt được một trình độ tổ chức kỹ thuật, xã hội rất cao và có thể trở thành địa điểm nổi bật, có giá trị và quan trọng của toàn vùng. Ví dụ khu Marina Village (California, Hoa Kỳ), Edinburgh (Edinburgh, Scotland) (Nguyễn Cao Lãnh, 2009). Nền tảng của các khu công nghiệp được tìm thấy tại Anh, là nơi có hệ thống nhà máy và khu công nghiệp đầu tiên được thành lập. Đây là những thiết lập bởi nhiều đơn vị sản xuất, các nhà máy đầu tiên xuất hiện ngẫu nhiên, tuy nhiên, sự xuất hiện sau đó lại đại diện cho một hành động có tổ chức theo ý tưởng nhất định về quy hoạch đô thị và chính sách khu vực. Khu công nghiệp đầu tiên, Trafford Park, được thành lập bởi một công ty tên là Shipcanal và Docks gần Manchester vào năm 1896 (Geneva, 1993). Các khu công nghiệp được thành lập ở Đức cũng vậy. Khu công nghiệp đầu tiên được thành lập năm 1963 (Euro-Industriepark Munchen). Số lượng lớn khu công nghiệp và công viên với các công ty công nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện sớm hơn trong nửa cuối của năm 1980 và cơ bản là một sáng kiến của nhà đầu tư tự do. Có 22 khu công nghiệp và đầu tư xuất hiện ở Tây Đức vào năm 1984. Bên cạnh đó, các khu tư nhân được thành lập. Có sự xuất hiện ở khu vực đông dân cư, diện tích khá nhỏ và tập trung vào các lĩnh vực thị trường khác nhau. Khu vực với nhiều loại hình khác nhau có thế kể đến khu Dussseldorf (23 dự án hoàn thành vào năm 1992) và Frankfurt am Mein (19 dự án hoàn thành vào năm 1992), vẫn còn tồn tại và phát triển đến ngày nay (Geneva, 1993). 4 Năm 1995, Liên Hiệp Quốc đã thống kê thế giới có khoảng 12.000 KCN với diện tích nhỏ nhất là 1ha, lớn nhất đến 10.000ha (Nguyễn Mộng, 2010). Theo chương trình môi trường Liên Hợp Quốc có thể phân các khu công nghiệp trên thế giới thành các loại hình sau đây: Khu công nghiệp tập trung; khu chế xuất; khu tự do; khu chế biến công nghiệp; trung tâm công nghệ cao; khu công nghệ sinh học; khu công nghệ sinh thái. Hiện nay, các KCN được phát triển ở hầu hết tất cả các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, để phục vụ các hoạt động công nghiệp hơn là nghiên cứu hay theo hướng thương mại. 1.1.2. Tại Việt Nam Từ ngày 24/9/1991 khu ủy ban hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư) được Chính phủ ủy nhiệm cấp giấy phép số 245 thành lập khu chế xuất đầu tiên với quy mô 300ha đất tại xã Tân Thuận Đông, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh, đến hết tháng 12/2001 trên địa bàn cả nước đã có 69 dự án khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành phát triển hoặc được Chính phủ cấp phép thành lập đang trong quá trình triển khai, giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng. Trong đó có 65 khu công nghiệp tập trung, 3 khu chế xuất, một khu công nghệ cao với tổng diện tích lên tới hơn 10.500 ha bình quân mỗi khu công nghiệp 160 ha. Các khu công nghiệp được hình thành tại 27 tỉnh thành trong đó các tỉnh miền Bắc có 15 KCN, miền Trung có 13 KCN, miền Nam có một khu công nghiệp (Bô ô Xây Dựng, 2005). Về loại hình có 16 KCN hình thành trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, 10 KCN phục vụ di dời, 22 KCN quy mô nhỏ ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, 21 KCN được xây mới với quy mô lớn trong đó có 13 KCN có hợp tác với nước ngoài để thu hút vốn vào, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. 1.2. Sự phát triển của khu công nghiệp và tác động của chúng đến môi trường 1.2.1. Sự phát triển KCN ở Việt Nam Những cụm sản xuất công nghiệp được hình thành trước năm 1975 chủ yếu tập trung ở miền Nam. Trong giai đoạn này, các cơ sở sản xuất công nghiệp còn mang 5 tính tự phát, phân tán rời rạc. Một số nhà máy, xí nghiệp tập hợp lại và cùng hoạt động trong một phạm vi địa lý nhất định cũng được gọi là “khu công nghiệp”. Công nghệ sản xuất của các cơ sở này còn lạc hậu, không có quy hoạch tổng thể và lâu dài, không quan tâm đúng mức đến vấn đề môi trường (Lê Quý An, 2004). Năm 2008 là năm đầu tiên thực hiện Nghị định số 29/2008/NĐ-CP quy định về việc thành lập, hoạt động, chính sách và quản lý của nhà nước đối với KCN, KCX và KKT (Báo cáo môi trường quốc gia 2009). Tình hình thế giới có nhiều đổi mới sâu sắc về thể chất, môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Bên cạnh đó, công tác quản lý của nhà nước cũng như hoạt động của các KCN, KKT ở Việt Nam đã có những điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, năng lực, chương trình và trọng tâm công tác để thích nghi với điều kiện mới. Vì vậy, trong năm 2008 nước ta đã có những bước phát triển mới mang tính đột phá và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Sau 20 năm (1991 - 2011) xây dựng và phát triển, kể từ khi KCX đầu tiên KCX Tân Thuận được hình thành tại TP.HCM đến nay hệ thống các KCN, KCX đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trên cả nước và có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 12/2011 cả nước đã có 283 KCN, KCX được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên hơn 76.000ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 46.000ha, chiếm 61% tổng diện tích đất tự nhiên, 15 khu kinh tế ven biển trải đều trên 58 tỉnh, thành phố. Các KCN, KCX được phân bố trên cơ sở phát huy lợi thế địa kinh tế, tiềm năng của các địa phương và của các vùng kinh tế trọng điểm (Mai Thanh Dung, 2011). Theo Quyết định 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2015, dự kiến thành lập mới 115 KCN và mở rộng 27 KCN với tổng diện tích gần 32.000 ha. Sau một thời gian thực hiện Quyết định nêu trên, một số KCN đã được thành lập và một số KCN đã được bổ sung vào quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2020. Tính chung từ nay đến năm 2020, số KCN quy hoạch thành lập sẽ là 295 KCN với tổng diện tích 81.100 ha (Báo cáo môi trường quốc gia 2009). 6 300 Số lượng KCN (khu) 76000 Số lượng KCN Diện tích KCN 250 283 70000 57264 200 223 60000 179 150 139 131 50000 42986 40000 29392 100 30000 26986 65 50 0 20000 11964 300 1 1991 2360 80000 10000 12 0 1995 2000 2005 2006 2007 2008 2011 Hình 1.1. Tình hình phát triển KCN qua các năm (Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư, 2011) 1.2.2. Ảnh hưởng của phát triển khu công nghiệp đến đời sống kinh tế, xã hội và môi trường a. Khu công nghiệp trong phát triển kinh tế và giải quyết lao động việc làm Qua hơn 20 năm phát triển, đến nay cả nước đã có 289 KCN được thành lập. Các KCN đóng góp quan trọng vào những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tại các vùng hay địa phương có các KCN hoạt động mạnh thì mức độ tăng trưởng kinh tế ở đó cao hơn những nơi KCN chưa phát triển. Khu công nghiệp ra đời đã tạo nên mảnh đất thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghiệp trong và ngoài nước có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất. Hiện nay đã có hơn 3.078 dự án đang sản xuất kinh doanh và 450 dự án đang trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản. Về tình hình đầu tư trong nước các KCN cả nước đã thu hút được 4.456 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 360.000 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 176.000 tỷ đồng, xấp xỉ 50% tổng vốn đăng ký. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, thì các khu, cụm công nghiệp đều đã đẩy nhanh tiến trình Công nghiệp hóa đất nước. Mặt khác, sự ra đời của Khu công nghiệp còn tác động mạnh mẽ tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng 7 công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng công nghiệp (Mai Thanh Dung, 2011). KCN đã góp phần quan trọng giải quyết việc làm, là nơi thu hút không ít lao động địa phương. Tính bình quân 1ha đất nông nghiệp đã cho thuê thu hút trên 70 lao động trực tiếp (trong khi 1ha đất nông nghiệp chỉ thu hút được từ 10 - 12 lao động). Đến thời điểm 31/12/2008, các khu công nghiệp đã thu hút trên 1,17 triệu lao động trực tiếp.. Chất lượng, trình độ đội ngũ lao động cũng tăng lên. Thống kê cho thấy, phần lớn lao động làm việc trong các KCN là lao động trẻ, có khả năng nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại, phương thức tổ chức và quản lý sản xuất tiên tiến. Các khu công nghiệp phát triển, kéo theo tốc độ đô thị hóa cũng diễn ra khá nhanh, với cơ sở hạ tầng được nâng cấp mọi mặt. Như vậy, các KCN với vai trò, tiền năng, sức hút đầu tư,... thực sự đã có những đóng góp không nhỏ trong phát triển KT-XH (Bô ô Tài Nguyên và Môi Trường, 2004). b. Tác động đến đời sống người dân Sự ra đời của KCN đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả thu được từ Khu công nghiệp thì cũng có không ít những vấn đề phát sinh và nếu chúng ta không sớm nhận ra, không có những giải pháp thích hợp thì hậu quả là rất lớn. Xét về mặt xã hội: * Chuyển đổi mục đích sử dụng đất và ảnh hưởng đến người dân Công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng diễn ra mạnh mẽ thì diện tích đất nông nghiệp càng bị thu hẹp. Điều này nếu thực sự không tính toán kỹ lưỡng thì sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, chỉ tính trong 3 năm (2008 - 2009), tổng diện tích đất chuyên dùng đã tăng lên 104.422ha, dẫn đến một lượng lớn đất nông nghiệp, trong đó có không ít đất trồng lúa đã được chuyển đổi mục đích Trên thực tế nhiều địa phương phát triển khu đô thị, khu công nghiệp, cụm công nghiệp một cách ồ ạt, dàn trải, kém hiệu quả. Đặc biệt nhiều địa phương dành những phần đất canh tác màu mỡ phì nhiêu ở ven quốc lộ để đổ cát xây dựng khu công nghiệp. Ví dụ như ở ven quốc lộ 5, khu vực Văn Lâm - Hưng Yên, Cẩm Giàng 8 - Hải Dương. Theo thống kê sơ bộ, có đến 20% diện tích đất thu hồi xây dựng KCN là đất nông nghiệp (khoảng trến 10.000ha). Tổng diện tích đất trồng lúa được chuyển đổi để phát triển các KCN đến năm 2015 từ 18.000 đến 20.000ha, chiếm khoảng 0,5% tổng diện tích đất trồng lúa trong cả nước (Báo cáo môi trường quốc gia 2009). Việc thu hồi đất nông nghiệp đã tác động tới đời sống của các hộ dân vì họ không được chuyển đổi cơ cấu ngành nghề hợp lý, thiếu phương tiện lao động và kế sinh nhai truyền thống, trong đó có nhiều hộ rơi vào tình trạng bần cùng hóa. Theo Nguyễn Lân Dũng, vùng đồng bằng sông Hồng có số hộ bị ảnh hưởng do thu hồi đất lớn nhất: khoảng 300.000 hộ; Đông Nam Bộ: khoảng 108.000 hộ (Nguyễn Lân Dũng, 2009). * Điều kiện lao động và đời sống vật chất của người lao động còn khó khăn Nhiều doanh nghiệp trong KCN chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về lao động, không đảm bảo quyền lợi của người lao động. Điển hình như vi phạm thời gian ký kết hợp đồng, vi phạm về thẩm quyền và nội dung hợp đồng. Việc kỷ luật, sa thải người lao động còn tùy tiện không tuân theo quy định của Nhà nước. Công tác an toàn vệ sinh môi trường và phòng tránh cháy nổ trong doanh nghiệp còn chưa được quan tâm đúng mức. Việc phải làm chế độ tăng ca, tăng giờ đã làm cho người lao động có ít thời gian nghỉ ngơi phục hồi sức khoẻ, kiệt sức và dễ mắc tai nạn lao động (Báo cáo môi trường quốc gia 2009). Chế độ bảo hiểm xã hội và chính sách tiền lương còn nhiều vi phạm. Qua khảo sát, TPHCM hiện có 16 KCX-KCN với 1.062 doanh nghiệp (DN) đang hoạt động đã có đã có 731 DN đăng ký thang, bảng lương, song tỉ lệ DN áp dụng tiền lương tối thiểu cao hơn luật định chỉ chiếm 32,3% (Lê Thành Quân, 2011). Trong chính sách đào tạo người lao động có hạn chế ở chỗ hiện chưa có các cơ chế mang tính “bắt buộc” đối với doanh nghiệp để yêu cầu họ phải tham gia và đóng góp vào quá trình đào tạo người lao động; mức chi phí cho học nghề ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn còn cao; nội dung đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu về kỹ năng lao động của doanh nghiệp. Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển KCN và KCX ở Việt Nam (Bộ KH&ĐT, 2006) cho thấy, đến 70% lao động trong các KCN là lao động nhập cư và 9 60% là lao động nữ làm việc trong các KCN (Báo cáo môi trường quốc gia 2009). Sự tập trung cao của lao động tại các Khu công nghiệp đang khiến cho vấn đề xã hội ngày càng trở thành áp lực đối với chính quyền địa phương và người dân xung quanh KCN. Đó là tình trạng thiếu nhà ở, điều kiện sinh hoạt khó khăn, giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng và đáng lo ngại nhất vẫn là nảy sinh tệ nạn xã hội. * Các vấn đề xã hội khác Do chỉ quan tâm thúc đẩy tăng trưởng nhanh các khu công nghiệp mà chưa thực sự quan tâm đúng mức từ đầu những yếu tố hạ tầng xã hội hỗ trợ thiết yếu như giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao,... Điều kiện sinh hoạt, môi trường sống không đảm bảo, thiếu các hoạt động văn hóa, tinh thần là nguyên nhân phát sinh ra nhiều tệ nạn xã hội. Như vậy cần phải xây dựng một môi trường sống tốt xung quanh KCN. Đẩy mạnh cung ứng các dịch vụ xã hội phục vụ đời sống người lao động KCN, KKT (Tổng cục Môi trường, 2009). c. Tác động đến môi trường Khu công nghiệp là nơi tập trung các cơ sở sản xuất thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng của các KCN, KCX sẽ kéo theo nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường nếu như các biện pháp xử lý, công tác phòng ngừa, ứng phó ô nhiễm môi trường không kịp thời. * Chất thải rắn Hoạt động sản xuất tại các khu công nghiệp làm phát sinh một lượng lớn chất thải, trong đó có một tỷ lệ không nhỏ là chất thải nguy hại. Theo báo cáo của Vụ Quản lý KCN & KCX (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tổng lượng rác thải ước tính bình quân một ngày đêm của cả nước đã tăng từ 25.000 tấn (năm 1999) lên khoảng 30.000 tấn (năm 2010); trong đó, lượng chất thải công nghiệp chiếm khoảng 20%, phần lớn tập trung tại các KCN, KCX ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam (chiếm khoảng 50%) ( Nguyễn Phương Nhung, 2010). Thành phần, khối lượng chất thải rắn phát sinh tại mỗi KCN tùy thuộc vào loại hình công nghiệp đầu tư, quy mô đầu tư và công suất của các cơ sở công nghiệp trong KCN. Qua khảo sát một số KCN cho thấy, trong thành phần chất thải rắn của các KCN, tỷ lệ chất thải nguy hại chiếm dưới 20% nếu được phân loại tốt, trong đó 10 tỷ lệ các chất có thể tái chế cao. Tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh, lượng chất thải công nghiệp trên điạ bàn tỉnh phát sinh ước tính khoảng 408 tấn/ngày, trong đó chất thải nguy hại khoảng 39 tấn/ngày (chiếm 9.56%). Hầu hết các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh đều không xây dựng khu vực tập kết, trung chuyển chất thải rắn tập trung (Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Ninh, 2014). Nhiều doanh nghiệp có chức năng thu gom và xử lý chất thải nguy hại đã triển khai các hoạt động tái chế thu lại tài nguyên có giá trị sử dụng nhưng do công nghệ chưa hoàn chỉnh, phù hợp nên hiệu quả thu hồi, tái chế kém gây ra những ô nhiễm thứ cấp đặc biệt là đối với dầu và dung môi. Nghiêm trọng hơn một số doanh nghiệp không thực hiện xử lý chất thải nguy hại mà sau khi thu gom lại đổ lẫn vào cùng chất thải thông thường hoặc đổ xả ra môi trường. Bên cạnh đó, có một thực tế trong việc quản lý chất thải rắn là trong một số trường hợp, chất thải rắn phát sinh trong quá trình sản xuất có tỷ lệ chất thải nguy hại thấp (nước thải lẫn dầu mỡ, giẻ lau nhiễm dầu, bóng đèn huỳnh quang, pin, ắc quy....) nên nhiều nhà máy thường để lẫn với chất thải sinh hoạt, nếu có phân loại thì với khối lượng nhỏ không đủ để hợp đồng với đơn vị có chức năng xử lý chất thải nguy hại (Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Bắc Ninh, 2014). * Môi trường nước Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết năm 2012 Việt Nam có 285 KCN. Hiện có 125 KCN đã xây dựng xong hệ thống xử lý nước thải tập trung, chiếm 53,7% tổng số KCN đã vận hành; 64 KCN đang xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung. Tại các KCN chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung thì sau khi xử lý cục bộ đều thải trực tiếp ra sông với tải lượng ô nhiễm cao. Ngay cả tại các KCN đã có nhà máy xử lý nước thải thì hiệu quả hoạt động không cao; trên thực tế là không hoạt động hoặc chỉ hoạt động đối phó khi có các đoàn về thanh tra, kiểm tra để tiết kiệm chi phí vận hành. Khoảng 70% trong số hơn một triệu m3 nước thải/ngày từ các khu công nghiệp (KCN) được xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường (Nguyễn Xuân Thành, 2007). Điển hình như vụ công ty Vedan xả thải ra sông Thị Vải (Đồng Nai) tới 5.000m3 chất thải/ngày trong nhiều năm; Nhà máy Tung Kuang xả nước thải đầu 11 độc sông Cầu Giẽ. Nếu không xử lý nhiều hóa chất độc hại như chrome 6 (cao gấp 10 lần tiêu chuẩn cho phép), mangan, sắt,... đều có nồng độ vượt quy định sẽ xâm nhập nguồn nước (Sơn Định, 2008). Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2009 do Bộ tài nguyên môi trường công bố ngày 1/6/2010 thì tình trạng ô nhiễm không chỉ dừng lại ở hạ lưu các con sông mà lan lên tới cả phần thượng lưu. Kết quả quan trắc chất lượng cả 3 lưu vực sông Đồng Nai, Nhuệ - Đáy và sông Cầu đều cho thấy bên cạnh nguyên nhân do tiếp nhận nước thải sinh hoạt, những khu vực chịu tác động của nước thải KCN có chất lượng nước sông bị suy giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu cao hơn quy định nhiều lần (Báo cáo môi trường quốc gia 2009). Tại Bắc Ninh, trung bình mỗi ngày các KCN thải ra khoảng 12.000 m 3/ngày đêm chiếm 5% tổng lượng nước thải các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nước thải tại các nhà máy chỉ được xử lý sơ bộ rồi thải vào hệ thống thoát nước thải của các khu công nghiệp sau đó được xử lý tại hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN đảm bảo đạt Quy chuẩn trước khi xả ra môi trường. * Môi trường không khí Tại không ít khu công nghiệp, hệ thống lọc khí, bụi và hạn chế tiếng ồn tại các cơ sở sản xuất còn nhiều hạn chế, mang tính hình thức. Khí thải không thể xử lý tập trung như nước thải cần phải được xử lý ngay tại nguồn. Khí thải do các cơ sở sản xuất thải ra chứa nhiều chất độc hại đều được xả trực tiếp vào môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân quanh khu công nghiệp cũng như lao động trong KCN. Kết quả quan trắc nồng độ SO2, CO, NO2 gần hoặc trong các KCN đang có chiều hướng gia tăng cục bộ. Nồng độ bụi tại ven các trục giao thông chính đều đã vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2-6 lần. Trong KCN nồng độ bụi và khí độc hại (điển hình là các khí SO2) trong không khí xung quanh đã quá trị số tiêu chuẩn cho phép từ 2-5 lần (Vĩnh Tùng, 2011). Theo số liệu ước tính tải lượng các chất ô nhiễm không khí từ các KCN, tại Bắc Ninh tải lượng các chất ô nhiễm như bụi: 3.020 kg/ngày; NO 2: 5.580 kg/ngày; CO: 1036 kg/ngày; SO2: 52.110 kg/ngày (Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Bắc Ninh, 2014). - Ô nhiễm bụi: diễn ra rất phổ biến, đặc biệt là mùa khô đối với các KCN đang 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan