Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa tại tp. cầ...

Tài liệu đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa tại tp. cần thơ

.PDF
57
6
62

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2005 1 MỤC LỤC MỤC LỤC..................................................................................................................1 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................Error! Bookmark not defined. MỤC LỤC BIỂU BẢNG ............................................Error! Bookmark not defined. LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................3 U CHƯƠNG 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CPH DNNN..6 1.1 Một số vấn đề về DNNN..................................................................................6 1.1.1 Khái niệm DNNN .......................................................................................6 1.1.2 Tình hình hoạt động của các DNNN. .........................................................6 1.2 Khái niệm và đặc điểm công ty cổ phần......................................................10 1.2.1 Khái niệm công ty cổ phần .......................................................................10 1.2.2 Đặc điểm công ty cổ phần ........................................................................10 1.3 Cơ sở lý luận về CPH DNNN........................................................................11 1.3.1 Khái niệm CPH DNNN ...........................................................................11 1.3.2 CPH DNNN là một xu thế tất yếu ............................................................12 1.3.4 Mục tiêu CPH DNNN...............................................................................14 1.4 Kinh nghiệm thực tiễn CPH ở một số quốc gia trên thế giới. ...................16 CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNNN CPH TẠI TP CẦN THƠ ..................................................................................................21 2.1 Thực trạng tình hình CPH DNNN ở Việt Nam ..........................................21 2.1.1 Những kết quả đạt được của tiến trình CPH DNNN. ...............................23 2.1.2 Những tồn tại yếu kém của tiến trình CPH DNNN Việt Nam .................24 2.2 Khái quát về tình hình KT-XH Thành phố Cần Thơ. ...............................26 2.3 Thực trạng CPH ở TP. Cần Thơ..................................................................30 2.3.1 Theo số liệu thống kê của Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Cần Thơ .............30 2.3.2 Theo số liệu điều tra năm 2004.................................................................31 2.3.2.1 Cơ cấu ngành nghề và qui mô của các DNNN đã được CPH............32 2.3.2.2 Tiến trình CPH ...................................................................................33 Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 2 2.3.2.3 Cơ cấu sở hữu của các doanh nghiệp sau CPH..................................35 2.3.2.4 Lao động ............................................................................................36 2.3.2.5 Hiệu quả kinh doanh của các DNNN sau CPH..................................37 2.4 Những tồn tại làm chậm tiến trình CPH ở TP. Cần Thơ ..........................39 2.4.1 Nhận thức của các cấp các ngành, cán bộ, công nhân viên:.....................39 2.4.2 Chủ trương, chính sách về CPH: ..............................................................39 2.4.3 Xác định giá trị doanh nghiệp...................................................................39 2.4.4 Chế độ ưu đãi, ưu tiên..............................................................................40 2.4.5 Vấn đề hậu CPH .......................................................................................40 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CPH CÁC DNNN TẠI TP. CẦN THƠ .........................................................................................................42 3.1 Giải pháp ở tầm vi mô...................................................................................42 3.1.1 Nâng cao nhận thức về CPH.....................................................................42 3.1.2 Xử lý nợ khó đòi, nợ tồn đọng trước khi CPH .........................................43 3.1.3 Hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp. ............................................44 3.1.4 Đảm bảo lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp CPH...............46 3.1.5 Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp khi CPH ....................48 3.1.6 Tiếp tục xử lý hệ quả của quá trình CPH..................................................49 3.2 Giải pháp ở tầm vĩ mô...................................................................................50 3.2.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc thực hiện CPH..........................50 3.2.2 Cải tiến các thủ tục hành chính liên quan đến CPH .................................50 3.2.3 Chính sách ưu đãi đối với DNNN thực hiện CPH...................................51 3.2.4 Xây dựng tiền đề và tiến tới thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán ở TP. Cần Thơ.......................................................................................................52 3.2.5 Thiết lập cơ quan chuyên trách về CPH DNNN.......................................53 3.2.6 Quan tâm hơn nữa tình hình sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần ...53 KẾT LUẬN ..............................................................................................................55 PHỤ LỤC .....................................................................Error! Bookmark not defined. TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................Error! Bookmark not defined. Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 3 LỜI MỞ ĐẦU DNNN được xem là xương sống của nền kinh tế Việt Nam. Nhìn chung, DNNN đang chiếm tới 70% tài sản quốc gia, 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Chính vì vậy, DNNN hiện nay đang giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế và có nhiều đóng góp rất lớn vào các nguồn thu của NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì khu vực kinh tế này vẫn bộc lộ rất nhiều mặt yếu kém. Trong nền kinh tế ở nước ta, có nhiều khu vực hoạt động tương đối kém hiệu quả và khu vực DNNN là một trong những khu vực điển hình. Chỉ có khoảng 77,2% số DNNN hiện hoạt động có lãi, số còn lại bị lỗ hoặc hoà vốn. Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Đây được xem như là một việc làm mang tính tất yếu khách quan. Để đổi mới cách quản lý, huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thì việc thực hiện CPH các DNNN là con đường đúng đắn và phù hợp nhất trong giai đoạn hiện nay. CPH DNNN là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động thêm nguồn vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động để sử dụng có hiệu quả vốn và tài sản của Nhà nước cũng như của toàn xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Đây được xem là một trong những giải pháp chủ yếu để đổi mới cơ bản khu vực kinh tế nhà nước, tăng khả năng cạnh tranh của các DNNN nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung trong điều kiện hội nhập. Tuy nhiên, trong thời gian qua, bên cạnh những thành tích đạt được rất đáng khích lệ, chương trình CPH so với yêu cầu và kế hoạch đề ra diễn ra còn chậm. Kế hoạch CPH đưa ra hàng năm nhưng chưa có năm nào thực hiện đạt được kết quả Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 4 như mong muốn. Một vấn đề đáng lưu tâm nữa là hiện tượng CPH “khép kín” trong nội bộ doanh nghiệp. Sau khi CPH, về nhiều mặt từ nhân sự đến tài chính, quản trị … doanh nghiệp vẫn chưa trở thành công ty cổ phần đích thực, khả năng giám sát của cổ đông bị hạn chế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự nhận thức, về cơ chế chính sách, về bộ máy và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Cần Thơ cũng không là một ngoại lệ, tình hình CPH ở TP. Cần Thơ cũng chậm như tình hình chung của cả nước. CPH DNNN với mục tiêu chính là nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty đã CPH trên cả nước cũng như ở TP. Cần Thơ. Tuy nhiên, sau CPH, các DNNN đã CPH có đạt được mục tiêu đề ra lúc đầu hay không, thực trạng hoạt động như thế nào ? Để giải đáp các vấn đề trên tôi chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN CPH tại Thành phố Cần Thơ” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của tôi. Mục tiêu bao quát trong luận văn này là đánh giá thực trạng tiến trình CPH của Việt Nam nói chung và của TP. Cần Thơ nói riêng; tìm ra những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tiến trình CPH và những tác động của CPH đến sự phát triển và hiệu quả hoạt động của các DNNN ở TP. Cần Thơ; đề ra một số biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại của tiến trình CPH ở TP. Cần Thơ. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, đề tài đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan đến tình hình CPH các DNNN ở Việt Nam, tập trung phân tích và đánh giá tác động của CPH đến hiệu quả hoạt động của các DNNN trước và sau khi tiến hành CPH diễn ra trên địa bàn Thành phố Cần Thơ. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện thành công và có hiệu quả công cuộc CPH DNNN ở TP. Cần Thơ. Với phạm vi nêu trên, đề tài sử dụng số liệu thứ cấp từ đề tài cấp Bộ của thạc sỹ Trương Đông Lộc về CPH ở Việt Nam, Niên giám thống kê, Ban đổi mới doanh nghiệp, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Cần Thơ, internet, sách báo, tạp chí và các Nghị định, các văn bản có liên quan của Chính phủ về CPH DNNN. Để làm nổi bật các Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 5 mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp phân tích định tính và định lượng dựa trên các biểu bảng thống kê. Nội dung đề tài được trình bày trong 3 chương chính. Sau lời mở đầu, chương 1 trình bày một số cơ sở lý luận và thực tiễn CPH các DNNN. Chương 2 phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN CPH tại TP. Cần thơ. Trước khi kết luận, chương 3 đề ra một số giải pháp thích hợp cho tiến trình CPH ở TP. Cần Thơ. Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 6 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CPH DNNN 1.1 Một số vấn đề về DNNN. 1.1.1 Khái niệm DNNN Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân, được thành lập theo Luật DNNN, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư trực tiếp của nước ngoài hoặc theo Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài. Thực chất DNNN là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hay một phần. Quyền sở hữu thuộc về nhà nước là đặc điểm phân biệt DNNN với các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân, còn hoạt động kinh doanh là đặc điểm để phân biệt chúng với các tổ chức và cơ quan khác của Chính phủ. DNNN được phân ra các loại khác nhau căn cứ xuất phát từ góc độ hành chính, góc độ nguồn vốn, theo phương thức hoạt động. 1.1.2 Tình hình hoạt động của các DNNN. Trong bối cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn và phức tạp, DNNN đã vượt qua, đứng vững và không ngừng phát triển góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Chính nhờ vào những kết quả mà khu vực kinh tế này mang lại đã đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do thực hiện chủ trương đổi mới, tổ chức sắp xếp lại, bán, cho thuê, giải thể và CPH các DNNN nên số lượng các doanh nghiệp và phần tài trợ của Nhà nước đã giảm mạnh. ™ Trong những năm qua các DNNN đạt được những mặt tích cực như sau: Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động của các DNNN có nhiều thay đổi, môi trường thông thoáng hơn, từng bước xóa bỏ cơ bản tình trạng thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, thích ứng với hoàn cảnh mới. DNNN đã góp phần chủ yếu để kinh tế Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 7 nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời giải quyết các vấn đề về việc làm, thu nhập cho người lao động. Về hiệu quả hoạt động kinh doanh: Năm 2003, tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp quốc doanh là 189.293 tỷ đồng. Trong số 4.800 DNNN có 77,2% doanh nghiệp kinh doanh có lãi, trong đó khoảng 40% doanh nghiệp có lãi cao hơn lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tổng lợi nhuận trước thuế là 20.428 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sau thuế đạt 7,34%. Về công nghiệp: DNNN đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, nhất là trong các ngành như công nghiệp, vận tải, bưu chính viễn thông ... Năm 2003, DNNN đóng góp 38,7% giá trị sản xuất công nghiệp. Về xuất nhập khẩu: Tỷ trọng DNNN chiếm khá cao. Bình quân tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 20%/năm, đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu năm 2003 đã đóng góp khoảng 40% (không kể dầu thô) và các công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài. Với tỷ trọng chiếm trên 98% tổng dự án liên doanh với nước ngoài, DNNN cũng đã tạo ra nguồn thu tương đối lớn. Về thu ngân sách: DNNN phát triển tương đối ổn định có vai trò vị trí vô cùng quan trọng trong việc đóng góp làm tăng nguồn thu cho NSNN. Tỷ lệ nộp ngân sách trên vốn nhà nước tăng tương ứng từ 14,7% năm 1991 lên 27,89% năm 1997 và đến năm 2003 đóng góp trên 39% tổng thu NSNN. Những kết quả có được bên cạnh nhờ vào đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã đề ra mà còn dựa vào sự đóng góp đáng kể của các DNNN như tính chủ động sáng tạo, trình độ quản lý; các đội ngũ cán bộ quản lý và đông đảo người lao động đã có sự nỗ lực, cố gắng vượt khó trong cơ chế thị trường mới. ™ Bên cạnh những mặt tích cực, DNNN cũng còn tồn tại những mặt hạn chế, yếu kém như: Các DNNN có hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, còn trông chờ vào nguồn ngân sách do Nhà nước cấp, khi vay vốn được hưởng chế độ lãi suất ưu đãi nhiều hơn các doanh nghiệp khác (được vay trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 8 đãi). Các DNNN có công nợ quá lớn, nợ quá hạn, nợ khó đòi ngày càng tăng. Cụ thể các DNNN chiếm tới 74,8% tổng số nợ quá hạn của ngân hàng thương mại quốc doanh. Số thuế Nhà nước miễn giảm cho các DNNN từ năm 1996 đến nay khoảng 2.288 tỷ đồng, xóa nợ 1.088,5 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ đồng, cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng. Thêm vào đó hàng năm các DNNN đều được Nhà nước hỗ trợ vốn với một tỷ lệ nhất định. Do mục tiêu phấn đấu chưa cao nên kết quả còn nhiều hạn chế chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, điển hình là số thu nộρ NSNN không nhiều hơn số mà Nhà nước đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. Trình độ kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, đây là một trong những nhân tố quan trọng làm cản trở sự phát triển khả năng cạnh tranh và phát triển của các doanh nghiệp nói chung và của DNNN nói riêng. Các trang thiết bị máy móc của các DNNN được nhập từ các nước khác nhau, nhưng chủ yếu là từ nước Liên Xô (cũ), các nước Đông Âu, ASEAN, Bắc Âu … thuộc các thế hệ khác nhau. Viện Khoa học bảo hộ lao động thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã khảo sát với 727 thiết bị và 3 dây chuyền nhập khẩu ở 42 cơ sở của một ngành. Kết quả là phần lớn máy móc thiết bị được nhập vào thuộc thế hệ những năm 50-60 chiếm 76%; trên 70% là những máy móc thiết bị đã hết khấu hao; gần 50% là máy móc thiết bị được tân trang lại. Quy mô hoạt động của các DNNN còn nhỏ, phần lớn số DNNN chủ yếu là dưới 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ rất cao là 65,45% trong số 5.280 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 20,89%. Một số tỉnh có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm đến 90%, đặc biệt có 6 tỉnh có vốn dưới 1 tỷ đồng như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Kon Tum, Hà Tây, Nam Định và Hà Nam. Ngoài ra, những ngành có hàm lượng công nghệ cao phát triển chậm. Năng lực cạnh tranh của các DNNN còn hạn chế. Hiện nay, DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. ™ Nguyên nhân để dẫn đến những hạn chế, yếu kém. Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 9 - Mở cửa nền kinh tế một mặt giúp cho việc tăng trưởng nền kinh tế, mặt khác phải chịu ảnh hưởng của những tác động tiêu cực nên ngoài như suy thoái kinh tế, diễn biến bất thường của giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới. - Hệ thống kế toán, kiểm toán yếu kém; hiệu lực của luật pháp thấp dẫn đến không quản lý được một cách hữu hiệu và không đánh giá được một cách đúng đắn tình hình tài chính của doanh nghiệp. Điều này dễ dẫn đến tình trạng tham nhũng, trốn lậu thuế, gian lận thương mại xảy ra phổ biến; không tạo ra một “luật chơi” bình đẳng, rõ ràng cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh. - Máy móc, trang thiết bị, công nghệ còn quá cũ và lạc hậu ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các DNNN hiện nay đang thiếu vốn rất nghiêm trọng nên buộc họ phải vay ngắn hạn để kinh doanh. Với tình trạng như thế này, càng vay vốn khả năng trả nợ lại gặp nhiều khó khăn và có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán ở nhiều doanh nghiệp. - Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường, đặc biệt là cơ chế tài chính mặc dù có tiến bộ nhưng chưa tạo động lực mạnh mẽ cho các DNNN phát triển, chưa thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Các DNNN công ích có quá nhiều chính sách ưu đãi. - Cơ chế theo dõi, tuyển chọn và đào tạo đội ngũ Ban giám đốc chưa được đổi mới một cách nhanh chóng, chẳng hạn như trường hợp nếu giám đốc không vi phạm kỷ luật gì thì dù cho doanh nghiệp có hoạt động kém hiệu quả đi chăng nữa họ vẫn vó thể làm giám đốc cho đến khi nghỉ hưu. Thực tế một số giám đốc ở các DNNN còn thiếu năng lực và trình độ quản lý. - Quản lý nhà nước đối với DNNN còn nhiều yếu kém, vướng mắc, cải cách hành chính còn chậm; đầu tư mới còn tràn lan kém hiệu quả, chưa gắn trách nhiệm của chủ đầu tư với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 10 1.2 Khái niệm và đặc điểm công ty cổ phần 1.2.1 Khái niệm công ty cổ phần Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn gọi chung là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. 1.2.2 Đặc điểm công ty cổ phần Công ty cổ phần là hình thức tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có những đặc điểm sau: Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần góp vốn của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Mỗi công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất định. Lúc đầu các công ty thường phát hành hết số cổ phiếu được phát hành, nhưng sau khi hoạt động và có lợi nhuận, các công ty thường chuộc lại một số cổ phiếu từ tay các cổ đông để dự trữ nhằm mục đích sử dụng sau này như: tăng số vốn cổ phần hoặc dùng để trả lãi lợi tức cổ phiếu cho các cổ đông. - Vốn cổ phần được cơ cấu bởi 2 bộ phận: Thứ nhất là vốn cổ phần được hình thành do công ty phát hành cổ phiếu thường. Đây là cổ phiếu không thể thiếu được trong công ty cổ phần. Nếu không có loại cổ phiếu này thì không thể có một công ty cổ phần nào tồn tại. Thứ hai là vốn được hình thành do công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi. Trong cơ cấu cổ phiếu thì vốn cổ phiếu ưu đãi chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. - Vốn cổ phiếu của công ty được pháp luật công nhận để bảo đảm các cam kết của công ty khi công ty đi vay. Ngoài vốn góp của cổ đông, các công ty cổ phần còn có quyền đi vay nợ rồi trả lãi tức theo tỷ lệ thỏa thuận, có quyền phát hành hối phiếu, tín phiếu và các giấy nợ khác. Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 11 Như vậy, vốn cổ phần là do các cổ đông đóng góp bất cứ ai kể cả tư nhân, tập thể, Nhà nước và cá nhân. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ đồng sở hữu. Quyền trách nhiệm và lợi ích của mỗi người chủ sở hữu phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối hoạt động của công ty. Khi muốn thu hồi vốn nhanh, các cổ đông chỉ có cách là bán các cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán. 1.3 Cơ sở lý luận về CPH DNNN 1.3.1 Khái niệm CPH DNNN Xét về mặt thực chất, CPH chính là phương thức thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại. CPH DNNN là quá trình chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Hay nói cách khác, CPH là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu đối với đối với DNNN nhằm thu hút các nguồn vốn và kinh nghiệm tổ chức sản xuất từ các nhà đầu tư và người lao động. Đồng thời, nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan hệ quản lý và phân phối sản phẩm. CPH DNNN tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp, khai thác mọi tiềm năng trong các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh. CPH góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, hình thành loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu gồm Nhà nước và đông đảo người lao động. Bảo đảm việc làm cho người lao động, bảo đảm hài hoà và đem lại lợi ích cho Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động. Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 12 CPH ở nước ta không phải là tư nhân hóa, không biến các công ty cổ phần thành công ty của số ít cổ đông của một số cá nhân mà làm cho đông đảo những người lao động đều có cổ phần, trở thành người chủ thật sự của công ty. CPH là chủ trương đúng đắn của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các DNNN và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH, đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế, hội nhập với khu vực và thế giới. Các hình thức CPH DNNN ở Việt Nam. ™ Theo Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, có 3 hình thức CPH DNNN như sau: - Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp CPH có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ. - Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn. - Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn. 1.3.2 CPH DNNN là một xu thế tất yếu Trong nền kinh tế thị trường, các DNNN Việt Nam đóng vai trò quan trọng, hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Nhà nước và kinh tế Nhà nước chủ yếu giữ chức năng điều tiết nhằm duy trì hoạt động thông suốt của toàn nền kinh tế. Bằng chức năng này, Nhà nước tham gia vào việc tạo ra những thành tựu kinh tế vĩ mô mà không một tư nhân nào đảm đương nổi, Nhà nước điều tiết nền kinh tế và thực sự có vai trò quyết định đến hiệu quả, ổn định, công bằng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu vượt khỏi chức năng vĩ mô trong việc điều tiết nền kinh tế để tham gia và mở rộng phạm vi kinh doanh, vượt quá yêu cầu của nền kinh tế, Nhà nước sẽ tự mình lâm vào tình trạng hoạt động không hiệu quả. Chính vì vậy, Nhà nước nên cần tậρ trung vào một số ngành kinh tế trọng điểm. Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 13 Chỉ có khoảng 77,2% DNNN là làm ăn có hiệu quả. Hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN rất thấp. Mỗi đồng vốn chỉ tạo được 2,3 đồng doanh thu và 0,1 đồng lợi nhuận. Tài sản cố định trong các DNNN chiếm từ 70% - 80% nhưng chỉ cung cấp được 44% tổng sản phẩm xã hội. Nguyên nhân do cơ cấu kinh tế chưa phù hợp, chủ yếu là ngành nông nghiệp chiếm 27%, thương mại 43%, công nghiệp và xây dựng 30% (trong khi các nước phát triển là 70% - 80%); cơ cấu vốn chưa hợp lý (81% cố định và 19% lưu động). Quy mô DNNN nhỏ dưới 1 tỷ đồng chiếm 68%. Mặt khác, các trang thiết bị quá lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ (Theo báo cáo của Bộ Tài Chính). Các DNNN Việt Nam không đủ sức cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và thế giới. Vì vậy, để tạo được chỗ đứng trên thương trường, Việt nam cần phải cải cách DNNN để tìm ra con đường mới cho sự phát triển. Nhiều giải pháp được đưa ra: cơ cấu lại vốn và lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp; sáp nhập các doanh nghiệp có vốn nhỏ, hoạt động trong các lĩnh vực tương đối giống nhau; liên doanh, liên kết với nước ngoài để tận dụng nguồn nước ngoài nâng cấp các trang thiết bị lạc hậu, tiếp cận phương thức quản lý tiên tiến. Song những giải pháp này vẫn chưa tạo được sự thay đổi về chất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của đa số các doanh nghiệp vẫn thấp, sức cạnh tranh còn yếu, chưa có sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Trước thực trạng này, Nghị quyết Trung ương 2 khóa VII đã đưa ra một giải pháp quan trọng để cải cách DNNN. Theo đó, “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần, phải chỉ đạo chặt chẽ quy mô, hình thức thí điểm, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp” Chủ trương, chính sách là rất rõ ràng. Việc đẩy mạnh CPH những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn là bước đi tất yếu, và đó được coi là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN. CPH đã giúp các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn về vốn, huy động được vốn nhàn rỗi trong dân cư, người lao động và tranh thủ được vốn từ các tổ chức KT-XH bằng hình thức phát hành cổ phiếu bán trên thị trường. Có vốn, các Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 14 doanh nghiệp có thể đổi mới thiết bị, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, trên cơ sở tăng lợi nhuận sẽ tăng đầu tư từ lợi nhuận để lại. CPH giúp Nhà nước tái cơ cấu lại các DNNN trong ổn định, sở hữu Nhà nước không bị thu hẹp mà ngược lại, Nhà nước có thể thu hồi vốn để mở rộng đầu tư ở lĩnh vực thiết yếu khác, đồng thời huy động tiềm năng xã hội ở mức cao hơn. CPH còn giúp các DNNN được hưởng lợi từ các yếu tố hiệu quả là cơ chế quản lý linh hoạt, cho phép thu hút những nhà quản lý giỏi vào làm việc trong các công ty cổ phần độc lập với vai trò kiểm soát và mục đích của giới chủ sở hữu; khả năng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhờ việc phát hành cổ phiếu và khả năng xâm nhập lẫn nhau của các công ty cổ phần bằng các cổ phần đóng góp, hình thành nên các tập đoàn kinh tế giỏi. 1.3.4 Mục tiêu CPH DNNN Mỗi quốc gia khi tiến hành CPH đều đặt ra những tham vọng riêng cho mục tiêu phát triển KT-XH. Vì vậy, kết quả thu được ở mỗi quốc gia tuy có những thành công và vướng mắc khác nhau nhưng đều có những điểm chung về mục tiêu. Thứ nhất, CPH DNNN là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động vốn vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Thứ hai, huy động và tăng thêm nguồn vốn. Các doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu ra ngoài. Tuy nhiên, việc huy động vốn chỉ là một phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu là nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, nhưng nếu số vốn huy động được mà không được quản lý và sử dụng tốt thì sẽ không mang lại hiệu quả như mong muốn. Thêm vào đó, mặc dù doanh nghiệp bán một phần tài sản của mình bằng hình thức bán cổ phần hoặc gọi thêm vốn bằng hình thức mua cổ phần thì vốn tiền của doanh nghiệp đều tăng lên trong khi vốn hữu hình của doanh nghiệp vẫn còn nguyên đó. Điều này giúp cho việc phát triển tài sản Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 15 cố định và giúp phát triển cả vốn lưu động và càng cần thiết hơn đối với những doanh nghiệp đang làm ăn có hiệu quả. Trong thực tiễn CPH, vốn nhà nước vẫn có thể tăng lên do định giá lại tài sản doanh nghiệp theo giá trị thị trường và cả giá cả của những thương hiệu nổi tiếng. Thứ ba, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN. Lợi tức cổ phần là động cơ trực tiếp thôi thúc các cổ đông mà tiêu biểu là Hội đồng quản trị quan tâm quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao. Lợi tức cổ phần hiện nay thường đạt 12% đến 15% cao hơn mức lãi suất ngân hàng. Thứ tư, tạo nguồn để giải quyết các vấn đề KT-XH khác như bảo đảm và có thể mở rộng việc làm, tăng thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp. Nếu CPH chỉ nhằm mục đích là tăng lợi tức cổ phần, làm giảm việc làm hoặc giảm thu nhập của người lao động, thì điều này phản ảnh một bước tụt lùi của doanh nghiệp, không đúng với chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Thứ năm, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Thứ sáu, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Đồng thời giảm thiểu số DNNN làm ăn thua lỗ, tối đa hóa các đơn vị làm ăn có lãi và các khoản thu cho NSNN. Ngoài ra, qua công tác CPH, hầu hết chính phủ các nước đều muốn chuyển một số lĩnh vực ngành nghề mà các khu vực kinh tế khác có thể đảm nhận, giảm bới gánh nặng và thâm hụt cho ngân sách, cân đối khả năng thanh toán nợ nước ngoài; phát triển thị trường vốn trong nước. Các mục đích trên có mối liên quan mật thiết và tác động qua lại với nhau. CPH được xem là một bộ phận cấu thành quan trọng của quá trình cải cách và cải tổ kinh tế ở nhiều nước mà ở đó có khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. CPH ở nước ta là nhằm mục đích tăng thêm việc làm và cải thiện đời Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 16 sống của người lao động, tăng thêm thực lực và hiệu quả của kinh tế Nhà nước mà Nhà nước này là của dân, do dân, vì dân và mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tóm lại, mục tiêu chính của chương trình CPH DNNN là nhằm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh trên sơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người chủ sở hữu tài sản. Qua đó, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Huy động vốn bằng bán cổ phần và phát hành cổ phiếu là điền kiện cần thiết để tạo thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và vốn huy động. 1.4 Kinh nghiệm thực tiễn CPH ở một số quốc gia trên thế giới. Chương trình chuyển đổi sở hữu trong tiến trình cải cách DNNN trên thế giới đã diễn ra mạnh mẽ sôi động ngay từ đầu thập kỷ 80 với xuất phát điểm là nước Anh và sau đó lan rộng sang các nước khác. Ở các nước Đông Âu, phong trào CPH và đa dạng hóa sở hữu DNNN được phát động ngay từ đầu thập niên 90 và hiện vẫn đang tiếp diễn khá sôi động. Khác với đa số các nước phát triển và đang phát triển, nơi có một nền kinh tế thị trường hỗn hợp đang vận động và quá trình CPH ở đó hướng vào việc thúc đẩy các hoạt động thị trường sẵn có thì đối với các nước XHCN cũ ở Đông Âu, quá trình CPH đã trở thành cuộc thử nghiệm quan trọng đối với các Chính phủ mới thành lập trong việc cam kết thực hiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và sang một hệ thống chính trị dựa trên quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do cá nhân. Ở Đông Âu, với chủ trương chuyển nhanh sang nền kinh tế thị trường từ một nền kinh tế kế hoạch mà DNNN chiếm vị trí độc tôn (100%). Chính phủ Nga lựa chọn tư nhân hóa nhanh trong thời gian từ 3- 4 năm. Với chỉ tiêu năm 1993 tư nhân hóa 30% tổng giá trị tài sản thuộc sở hữu Nhà nước; năm 1994 là 60%. Trong giai đoạn đầu, song song với việc chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, chính phủ Nga đã cho phát hành phiếu tư nhân hóa, đây là biện pháp nhằm thực hiện nhanh quá trình tư nhân hóa. Tính đến tháng 7/1994 đã có hơn 45,3 triệu phiếu tư nhân hóa (chiếm 31,4% tổng số phiếu) được 660 quỹ đầu tư mua lại và đầu tư vào các xí Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 17 nghiệp, công ty; trong đó gần 75,2% số phiếu tư nhân hóa đã biến thành cổ phiếu của 22,8 triệu công dân Nga. Mặc dù chính phủ Nga đã đưa ra nhiều chính sách ưu đãi cho người lao động, nhưng những ưu đãi có thực sự mang tính tích cực không lại phụ thuộc nhiều vào quá trình tổ chức thực hiện. Vì vậy, những ưu đãi trên đã không được người lao động đón nhận một cách hào hứng và nhiệt tình. Mặt khác, do những tệ nạn tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa cũng góp phần cản trở người dân tham gia đầu tư. Kết quả từ năm 1991-1996, CHLB Nga đã chuyển đổi sở hữu được một khối lượng lớn DNNN trong thời gian ngắn là 122.000 DNNN (chiếm 53,3% tổng số doanh nghiệp). Trong đó, số doanh nghiệp có quy mô nhỏ là 79.090 (chiếm 64,8%), còn lại là các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn. Các nước khác như: Bungary đã CPH và đa dạng hóa sở hữu 20% tài sản nhà nước, Rumania là 16,5% giá trị tài sản và 44% DNNN, Ba Lan có 1.886 DNNN được chuyển đổi chiếm 28%. Đặc biệt ở Hungary, quá trình chuyển đổi sở hữu đã tạo thêm 500 nghìn việc làm mới và thu hút khoảng 18 tỷ USD nguồn vốn đầu tư. Tuy nhiên, mặc dù các nước như Tiệp Khắc (cũ), Hungari, Ba Lan, CHLB Nga ... đều đặt ra một hệ thống pháp lý cần thiết cho việc CPH các DNNN và đã vượt qua được những trở ngại ban đầu do việc chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Tuy nhiên, số DNNN đã CPH vẫn còn rất hạn chế so với dự kiến. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối, nên việc tiến hành tư nhân hóa và CPH ở các nước này gặp nhiều khó khăn trở ngại. Điển hình như đối với nước Hungari, tổng số tài sản của khu vực kinh tế nhà nước được đánh giá khoảng 2.000 tỷ forint (khoảng 30 tỷ USD) với khoản nợ nước ngoài khổng lồ là 1.400 tỷ forint (khoảng 20 tỷ USD). Mặt khác, do không hạn chế các nhà đầu tư nước ngoài khiến thị trường của một số ngành truyền thống của nước này như ngành chăn nuôi bò không phát triển được. Vì các doanh nghiệp chế biến sữa chỉ nhập nguyên liệu của nước ngoài với giá rẻ hơn nguyên liệu sản xuất trong nước. Sự đầu cơ trục lợi ngày càng ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Đa dạng hóa sở hữu DNNN bị biến tướng đã tạo cơ hội cho sự ra đời của những tư Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 18 nhân độc quyền thay thế độc quyền Nhà nước. Đối với CHLB Nga khi bước vào công cuộc CPH, nước này đang phải gánh trên lưng hàng chục vạn DNNN với tổng nguồn vốn cơ bản là 3.500 tỷ rúp tính theo giá năm 1990, trong đó vốn cố định là 2.700 tỷ rúp và vốn lưu động là 800 tỷ rúp. Còn với Ba Lan, với 7.000 DNNN thì trong đó chỉ có 500 doanh nghiệp có quy mô lớn và có một khoản nợ nước ngoài cũng không nhỏ. Với chủ trương không khép kín CPH cho các thành viên trong doanh nghiệp có thể góp phần đẩy nhanh tiến độ CPH. Tiến độ CPH ngày càng được đẩy nhanh hơn nếu như chủ trương gắn cổ phần, cổ phiếu với thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, để chủ trương đó được thực hiện một cách lành mạnh, tích cực thì phải có những biện pháp khác quản lý kèm theo. Điển hình là CPH ở Nga đã vấp phải những sai lầm lớn. Ví dụ trường hợp ở Nga có xí nghiệρ sản xuất máy bay trực thăng chuyên cung cấp cho quốc phòng và dân dụng CHLB Nga cùng nhiều nước khác, đã phát hành cổ phiếu nhưng cổ phiếu này không ghi tên. Điều này có nghĩa là loại cổ phiếu này có thể mua bán trên thị trường chứng khoán, Nhà nước lại không giữ tỷ lệ cổ phần khống chế. Chính vì vậy, một nhà tư bản Mỹ đã mua được 60% số cổ phiếu và đã trở nên người chủ sở hữu nhà máy này. Một ví dụ khác cũng ở Nga cho thấy mặt trái của việc cổ phần cũng là con dao hai lưỡi dẫn đến nguy cơ mất độc lập tự chủ và dẫn đến bị lệ thuộc. Một nhà máy chế tạo than chì (grafit) chuyên cung cấp cho công nghiệp quốc phòng và nhiều công nghiệp khác được bán cho tư nhân. Một nhà tư bản Mỹ đã mua nhà máy đó rồi tuyên bố đóng cửa nhà máy. Như vậy, toàn bộ số than chì cần thiết của CHLB Nga đều phải nhập từ Mỹ. ™ Một số kinh nghiệm rút ra từ các nước này: Ở các nước Đông Âu khi quan hệ sản xuất XHCN bị phá vỡ, CPH và tư nhân hoá DNNN được đẩy mạnh và ngày càng sôi động, đặc biệt là các nước Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungari, Đức, Ba Lan… Do quy mô và phạm vi tiến hành quá lớn trong khi thời gian thực hiện đòi hỏi ngắn hơn nhiều so với các nước khác. Điều này dẫn đến tiến trình tư nhân hóa và CPH ở các nước Đông Âu gặp không ít khó khăn và phức tạp và đây được xem là công việc thực hiện “liệu pháp sốc” trong cải cách Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5 19 kinh tế từ nền kinh tế chỉ huy sang cơ chế thị trường của các nước này. Ví dụ, nước CHLB Nga dự kiến bán hơn 100.000 xí nghiệp thuộc các ngành thương nghiệp và công nghiệp nhẹ đến hết năm 1992 và hơn 850 rúp giá trị tài sản của các xí nghiệp công nghiệp sẽ được đem bán trong 2 năm 1993 – 1994. Trong khi đó, Tiệp Khắc, Hungari và Balan đều muốn bán tới 60% giá trị cổ phần của Nhà nước, dự định CPH trong thời gian 1991-1994. Tuy nhiên, với tính phổ biến của quá trình CPH, tư nhân hóa và CPH là một trong những phương pháp giúp cho việc khắc phục được những hiện tượng trì trệ trong nền kinh tế do hoạt động kém hiệu quả các DNNN và thâm hụt ngân sách kéo dài. Mặt khác, do các nước Đông Âu có thị trường vốn kém phát triển, thêm vào đó các khu vực kinh tế tư nhân còn quá nhỏ, nên Chính phủ đã định hướng vào các nhà đầu tư nước ngoài và xem đây như là nhân tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thực tế đã không đem lại những điều như họ đã mong muốn. Một lý do rất quan trọng khiến cho các nhà đầu không dám mạo hiểm đầu tư vào là do môi trường kinh tế vĩ mô của các nước này chưa ổn định. Bên cạnh đó, các nước đối thủ như Châu Mỹ Latinh và Châu Á lại là những nước có điều kiện thuận lợi hơn cũng đang rao bán thì các nước Đông Âu khó tìm được ngay những người mua tiềm tàng. Đối với những nước chưa có nền kinh tế thị trường phát triển, hoạt động của thị trường chứng khoán còn yếu hoặc chưa hình thành được thị trường chứng khoán thì việc tiến hành CPH gặp rất nhiều khó khăn. Đông Âu là một trong những nước nói trên. Do đó, tiến trình CPH ở các nước Đông Âu phải thực hiện theo những phương pháp đặc thù riêng và quá trình này đã diễn ra lâu hơn và phức tạp hơn nhiều so với các nước tư bản phát triển. Ví dụ như muốn thực hiện CPH thì trước tiên các nước Đông Âu phải “thương mại hóa” các xí nghiệp quốc doanh như là điều kiện tiên quyết để thực hiện quá trình CPH. Việc thương mại hóa này cho phép xác định được quyền sở hữu và quyền kinh doanh đối với các tài sản của Nhà nước, tạo điều kiện để chuyển đổi chúng thành công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần. Biện pháp thích hợp để CPH các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước là Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan