HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM NGỌC ĐẠI
ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM NGỌC ĐẠI
ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. TRẦN THỊ THU HƯƠNG
2. TS. NGUYỄN THẮNG LỢI
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Phạm Ngọc Đại
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
7
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
7
1.2. Kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan và những nội
dung luận án tập trung nghiên cứu
20
Chương 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2010
22
2.1. Những yếu tố tác động đến quá trình thực hiện chính sách dân tộc
ở tỉnh Đắk Lắk
22
2.2. Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc
trong điều kiện lịch sử mới (2003-2010)
38
Chương 3: ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2015
76
3.1. Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk về thực
hiện chính sách dân tộc
76
3.2. Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc trên
các lĩnh vực cụ thể
88
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
112
4.1. Một số nhận xét
112
4.2. Một số kinh nghiệm
134
KẾT LUẬN
148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
152
PHỤ LỤC
171
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
BCH
Ban Chấp hành
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
CSDT
Chính sách dân tộc
DCTD
Di cư tự do
DTTS
Dân tộc thiểu số
HĐND
Hội đồng Nhân dân
HTCT
Hệ thống chính trị
MTTQ
Mặt trận Tổ quốc
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
UBND
Ủy ban Nhân dân
XĐGN
Xóa đói, giảm nghèo
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ các nhóm dân cư tỉnh Đắk Lắk năm 2005
25
Biểu số 3.1: Tốc độ gia tăng dân số tỉnh Đắk Lắk
79
Biểu số 3.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Đắk Lắk
81
Biểu số 4.1: Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tỉnh
Đắk Lắk
Biểu số 4.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân tỉnh Đắk Lắk
122
127
Biểu số 4.3: Tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc thiểu số tại chỗ so với tỷ lệ hộ
nghèo chung tỉnh Đắk Lắk
Biểu số 4.4: Số hộ có nhu cầu đất ở, đất sản xuất và nhà ở tỉnh Đắk Lắk
129
130
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc (tộc người). Dân tộc Kinh là dân tộc đa số, các
dân tộc thiểu số (DTTS) còn lại cư trú trên diện tích rộng lớn tới ¾ lãnh thổ, thường ở
khu vực miền núi, biên giới. Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các dân tộc
đã luôn đoàn kết, sát cánh bên nhau với truyền thống: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Thấy rõ đặc điểm ấy, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định vấn đề dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng đối
với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân.
Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân
tộc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng và không ngừng phát triển, hoàn
thiện chính sách dân tộc (CSDT). Chính sách dân tộc là bộ phận cấu thành chính sách
chung của Đảng và Nhà nước, vạch ra những nguyên tắc, biện pháp đối xử và giải
quyết vấn đề dân tộc. CSDT thể hiện quan điểm chính trị của Đảng trong việc giải
quyết mối quan hệ dân tộc, bao gồm những chính sách tác động trực tiếp đến các dân
tộc và quan hệ giữa các dân tộc, nhằm mục đích phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở các vùng dân tộc thiểu số; xây dựng khối
đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất
quán trong mọi thời kỳ. Qua các giai đoạn lịch sử cụ thể, CSDT của Đảng luôn được
bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước. Khi
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, CSDT của Đảng được triển
khai ngày càng hiệu quả ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều đồng bào các dân tộc
sinh sống. Trong đó tỉnh Đắk Lắk là một trong những vùng có tính đặc thù.
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng về kinh tế, quốc phòng - an ninh và môi trường sinh thái của vùng Tây
Nguyên và cả nước. Ngay sau ngày giải phóng (3-1975), xác định công tác dân tộc là
nhiệm vụ chiến lược, lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk đã chú trọng và quan tâm đến CSDT:
Vấn đề kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên luôn gắn chặt với vấn đề dân tộc, nếu không
2
nói là vấn đề dân tộc có tính chất quyết định đối với các nội dung kinh tế - xã hội trên
địa bàn này... Có thể trong xu thế phát triển chung, tỉ lệ đồng bào dân tộc thiểu số
giảm đi trong tổng số dân, nhưng tầm vóc của việc thực hiện CSDT không hề giảm
nhẹ, ngược lại ngày càng phải được đề cao [146, tr.50-51].
Để thực hiện mục tiêu “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát
triển" giữa các dân tộc, Đảng và Nhà nước đã đề ra các chủ trương, CSDT, đặc biệt là
được thể hiện tập trung toàn diện tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
(BCH) Trung ương Đảng (khóa IX, năm 2003) về công tác dân tộc. Triển khai nghị
quyết, nhiều chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Trung ương và
của tỉnh Đắk Lắk đã được thực hiện nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các
dân tộc, giữa các khu vực dân cư. Thực hiện hệ thống CSDT khá toàn diện, với
nguồn lực thực hiện lớn, đã tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội; cơ sở hạ
tầng từng bước tăng cường; giảm tỉ lệ hộ nghèo; đời sống vật chất và tinh thần của
người dân được nâng lên. Diện mạo vùng DTTS, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn đã có những thay đổi căn bản.
Tuy nhiên, cho đến năm 2015, vùng DTTS tỉnh Đắk Lắk vẫn là một trong
những nơi khó khăn nhất. Nhiều vấn đề quan hệ dân tộc bức xúc ở Đắk Lắk chưa
được giải quyết tốt, như mức sống, trình độ phát triển giữa vùng đồng bào DTTS so
với vùng đồng bào Kinh ngày càng cách xa; tác động tiêu cực của di cư tự do
(DCTD) và mâu thuẫn về quyền sở hữu - sử dụng đất, rừng diễn biến phức tạp; lĩnh
vực an ninh chính trị luôn tiềm ẩn những yếu tố bạo loạn; hệ thống chính trị (HTCT)
ở cơ sở hiệu quả hoạt động còn thấp. Các chính sách được ban hành nhiều, nhưng
hiệu lực, hiệu quả chưa cao, nhiều đầu mối quản lý. Phương thức hỗ trợ của một số
chính sách còn chưa phù hợp. Nguồn lực đầu tư chính sách chưa bảo đảm thực hiện
các mục tiêu; cơ chế phối hợp tổ chức thực hiện chính sách có mặt chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá quá trình lãnh đạo thực hiện CSDT trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết lần thứ 7 BCH Trung ương
Đảng (khóa IX) và cũng là hơn 10 năm đầu chia tách tỉnh (2003-2015) là việc làm
cần thiết, để từ đó rút ra những kinh nghiệm thành công và chưa thành công, góp
phần thực hiện tốt hơn CSDT của Đảng.
3
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh
đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 2003 đến năm 2015 làm đề tài luận án tiến
sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ quá trình lãnh đạo thực hiện CSDT của Đảng bộ tỉnh Đắk
Lắk trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2015, từ đó rút ra một số kinh nghiệm chủ
yếu để thực hiện CSDT ở tỉnh nói riêng, cả nước nói chung, trong thời gian tới đạt
hiệu quả cao hơn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận án hệ thống hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk về chính sách dân tộc từ năm 2003 đến
năm 2015.
- Luận án đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của quá trình chỉ đạo thực
hiện các chính sách dân tộc, từ đó chỉ ra nguyên nhân của sự lãnh đạo và kết quả
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh.
- Luận án rút ra 5 kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk thực
hiện chính sách dân tộc sau hơn 10 năm chia tách tỉnh (2003 - 2015).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng về CSDT và quá trình
Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo thực hiện CSDT từ năm 2003 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Lấy mốc thời gian nghiên cứu từ năm 2003 đến năm
2015 với hai lý do: Một là, nhằm tổng kết Chương trình số 18/TU, ngày 14 tháng 05
năm 2003 của Tỉnh ủy Đắk Lắk, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
của BCH Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc. Hai là, ngày 26-11-2003,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đã thông qua Nghị
quyết số 22/2003/QH11 về việc chia tách tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và
Đắk Nông. Thực hiện Nghị quyết trên, ngày 01-01-2004, tỉnh Đắk Lắk (mới) được
chính thức thành lập.
4
Không gian nghiên cứu: Đề tài luận án chủ yếu khảo sát tại địa bàn tỉnh Đắk
Lắk sau khi chia tách tỉnh (năm 2004 có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, năm 2015
có 15 đơn vị hành chính cấp huyện).
Nội dung nghiên cứu:
- Chính sách là cách thức tác động có chủ đích của một nhóm, tập đoàn xã hội
này vào những nhóm, tập đoàn xã hội khác thông qua các thiết chế khác nhau của
HTCT nhằm thực hiện các mục tiêu đã được xác định trước.
- Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tổng hợp các quan
điểm, nguyên tắc, chủ trương, giải pháp tác động đến các dân tộc, vùng dân tộc, nhằm
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa các dân tộc theo hướng bảo đảm khối đại đoàn kết
thống nhất giữa các dân tộc và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam [14, tr.8].
CSDT là toàn bộ những chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước tác động vào
tất cả các lĩnh vực đời sống của các DTTS, các vùng dân tộc và có thể đối với từng
dân tộc riêng biệt, nhằm thay đổi tình trạng lạc hậu, biệt lập, phân biệt, bất bình đẳng
giữa các dân tộc, hướng tới sự đoàn kết, bình đẳng và tương trợ lẫn nhau cùng phát
triển [90, tr.52-53].
Biểu hiện của CSDT là ở nhiều cấp độ khác nhau, trong nhiều loại hình văn
bản khác nhau: Như các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị do Đảng Cộng sản ban hành
ban hành; Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh, các loại văn bản quy phạm pháp luật
khác do Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước các cấp ban hành
theo thẩm quyền.
- Chính sách dân tộc có nội dung rất rộng, thể hiện trên tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh,... Tuy nhiên, luận án giới hạn ở
năm nhóm chính sách chủ yếu: Phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS; Bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa các DTTS; Xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS và nâng
cao chất lượng HTCT cơ sở; Chính sách quốc phòng - an ninh và một số chính
sách đặc thù khác.
- Thực hiện CSDT là quá trình đưa chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc
sống, đến với người dân. Các ý tưởng của Đảng, mong muốn của người dân đã được
thể hiện trong các văn bản tài liệu, nghị quyết sẽ phải cụ thể hóa thành lợi ích vật chất
xã hội. Công tác tổ chức thực hiện chính sách không chỉ có tác dụng một chiều là đưa
5
chính sách vào cuộc sống mà còn thông qua thực tiễn cuộc sống để điều chỉnh và hoàn
thiện chính sách. Tổ chức thực hiện CSDT của Đảng ở tỉnh Đắk Lắk có sự tham gia
của nhiều lực lượng, cấp quản lý gồm cả cấp trung ương, địa phương (tỉnh, huyện, xã),
cộng đồng (buôn/làng), doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và CSDT, đặc biệt là chủ
trương của Đảng về CSDT trong thời kỳ đổi mới.
4.2. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu của luận án chủ yếu dựa vào số liệu khảo sát ở một số địa phương
thuộc tỉnh Đắk Lắk, đồng thời luận án tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên
cứu của các công trình có liên quan đã được công bố; các văn kiện của BCH Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị, các văn bản pháp luật của Quốc hội, các văn bản điều hành của
Chính phủ, các báo cáo của Uỷ ban Dân tộc, Ban chỉ đạo Tây Nguyên; những văn kiện
của tỉnh Đắk Lắk.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic.
Ngoài ra, tác giả đã vận dụng một số phương pháp khác như: phương pháp tiếp cận
liên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn; phân tích, tổng hợp, so sánh đối
chiếu, phương pháp chuyên gia, phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn các đối
tượng như nhà quản lý, cán bộ thực hiện CSDT, phỏng vấn người dân - đối tượng thụ
hưởng chính sách.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Trên cơ sở phân tích đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa tín ngưỡng;
luận án làm sáng rõ tính đặc thù, sự khó khăn phức tạp của điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội, dân cư, tộc người, các nhân tố bên ngoài tác động đến quá trình thực hiện
CSDT ở tỉnh Đắk Lắk.
- Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk về CSDT
từ năm 2003 đến năm 2015.
6
- Đánh giá một cách khách quan những thành tựu, hạn chế; lý giải nguyên
nhân của những thành tựu, hạn chế; rút ra một số nhận xét về ưu, khuyết điểm, những
kinh nghiệm chủ yếu về thực hiện CSDT của Đảng ở tỉnh Đắk Lắk từ năm 2003 đến
năm 2015.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện CSDT và thực hiện CSDT của Đảng ở Đắk Lắk, các tỉnh
Tây Nguyên và cả nước.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cấp, các ngành của tỉnh
Đắk Lắk và các tỉnh khu vực Tây Nguyên trong việc thực hiện CSDT. Ở một mức độ
nhất định, kết quả đạt được trong luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy về vấn đề có liên quan đến CSDT và thực hiện CSDT của
Đảng và Nhà nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4
chương, 8 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Trong quá trình khảo sát tư liệu, tác giả luận án nhận thấy vấn đề “Đảng bộ tỉnh
Đắk Lắk lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 2003 đến năm 2015” được đề
cập đến nhiều trong các công trình, bài viết, có thể chia theo 3 nhóm như sau:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu chung về vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc ở Việt Nam
Cuốn sách 50 năm các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-1995) của Bế Viết
Đẳng [38] đã tập trung nghiên cứu khá đầy đủ về các DTTS Việt Nam trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng
cuộc sống mới trên các lĩnh vực: xây dựng và phát triển kinh tế; thực hiện định
canh, định cư; xây dựng quan hệ xã hội mới; xây dựng văn hóa và phát triển y tế.
Cuốn sách cung cấp những luận cứ thực tiễn nhằm đổi mới CSDT phù hợp với yêu
cầu và nhiệm vụ mới của cách mạng, nhất là khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Cuốn sách Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội
ở miền núi của Bế Viết Đẳng [39] đã đánh giá vấn đề dân tộc và việc thực hiện
CSDT ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng kinh tế - xã hội và những vấn
đề cấp bách đối với CSDT, tác giả đã đưa ra những nhận định và nêu một số nhận
xét về CSDT trong thời kỳ mới. Trong đó khẳng định: Phát triển kinh tế - xã hội là
cơ sở để thực hiện CSDT.
Công trình Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ
dân tộc hiện nay của Phan Hữu Dật [23] và Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam
của Đặng Nghiêm Vạn [192] đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về quan
hệ tộc người ở Việt Nam, trong đó dành một phần đáng kể đề cập đến quan hệ tộc
người ở Tây Nguyên.
Viện nghiên cứu Chính sách Dân tộc và Miền núi có báo cáo Vấn đề dân tộc và
định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
[193]. Công trình nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về CSDT của Đảng và những
8
định hướng cơ bản trong quy hoạch dân cư, đẩy mạnh nhịp độ phát triển kinh tế hàng
hoá phù hợp với đặc điểm từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn. Kiến nghị những giải pháp nhằm sớm ổn định và cải thiện
đời sống đồng bào dân tộc.
Cuốn Miền núi Việt Nam thành tựu và phát triển những năm đổi mới của Trần
Văn Thuật và các cộng sự [100], trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát về sự đa dạng của
điều kiện tự nhiên - môi trường, văn hóa và kinh tế miền núi Việt Nam, các tác giả đã
nêu định hướng và nguyên tắc phát triển miền núi và vùng DTTS của Đảng. Đánh giá
thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội và đặt ra những vấn đề về phát triển miền núi
trong giai đoạn mới. Nhóm tác giả đã dành một chương bàn về xóa đói, giảm nghèo
(XĐGN), đề ra những giải pháp thực hiện mục tiêu XĐGN. Về vấn đề bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa các dân tộc, vấn đề môi trường tự nhiên - quá trình khai thác,
bảo vệ và biến đổi cũng được nghiên cứu khá đầy đủ.
Cuốn Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay của
Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng [90] đã nêu rõ những vấn đề cơ bản về dân tộc
và CSDT của Đảng qua các thời kỳ cách mạng; phân tích những vấn đề đang đặt
ra trong việc thực hiện CSDT và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện
tốt CSDT ở Việt Nam hiện nay. Cuốn sách trình bày những nhận thức cơ bản về
dân tộc và CSDT của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ từ 1930 đến 2006. Cuốn
sách có những đánh giá tổng kết và phân tích sâu sắc đối với những vấn đề đang
đặt ra cho việc thực hiện CSDT ở Việt Nam, như sự tranh chấp nguồn lợi và sự
xung đột dân tộc, vấn đề nghèo đói, hoạt động của các thế lực thù địch. Đồng thời
tác giả bước đầu đưa ra những quan điểm, giải pháp góp phần thực hiện tốt CSDT
hiện nay ở Việt Nam.
Cuốn sách Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay của Hoàng Chí Bảo [12] đã đánh giá
thực trạng công bằng bình đẳng và hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế
- xã hội tại vùng đa dân tộc, cũng như quá trình thực hiện CSDT hướng tới mục tiêu
phát triển bền vững. Tác giả đã đưa ra 4 giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm công
bằng, bình đẳng trong phát triển kinh tế, xã hội giữa các dân tộc ở miền núi. Cùng
9
với đổi mới nhận thức về dân tộc, xây dựng HTCT và đào tạo nguồn nhân lực thì
thực hiện tốt CSDT trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội được xem là giải pháp
cơ bản để thực hiện công bằng, bình đẳng trong phát triển vùng đa tộc người ở Việt
Nam hiện nay.
Cuốn sách Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc sau 5 năm thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX của Ủy ban Dân tộc - Viện
Dân tộc [140] đã cung cấp những thông tin đa chiều nhằm làm rõ kết quả, hạn chế,
yếu kém, đề xuất các giải pháp, góp phần đổi mới và thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa IX) về công tác dân tộc của Đảng.
Cuốn sách Một số vấn đề về đổi mới xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc
của Hoàng Hữu Bình, Phan Văn Hùng [14] đã tổng kết, đánh giá về công tác dân tộc
và xây dựng, thực hiện CSDT, nhất là vấn đề đổi mới xây dựng và thực hiện CSDT.
Cuốn sách Một số vấn đề mới trong quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc ở
nước ta hiện nay của Phan Văn Hùng [75] đã làm rõ những vấn đề về CSDT ở Việt
Nam hiện nay trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài "Những vấn đề mới trong
quan hệ dân tộc và định hướng hoàn thiện chính sách dân tộc ở nước ta", mã số KX
04.18/2011-2015 do Ủy ban Dân tộc chủ trì. Đó là những vấn đề cơ bản về quan hệ
dân tộc, các yếu tố chủ yếu tác động đến quan hệ dân tộc, nguồn gốc bất bình đẳng và
xung đột dân tộc; chủ trương, CSDT của Đảng và Nhà nước Việt Nam và một số
định hướng CSDT trong thời gian tới; vấn đề nghèo, khoảng cách giàu nghèo giữa
các dân tộc, các vùng dân tộc; vấn đề thiếu đất sản xuất, đất ở và tranh chấp đất đai
trong vùng đồng bào DTTS. Cuốn sách có những đánh giá, luận chứng có giá trị tham
khảo tốt cho đề tài luận án.
Bên cạnh đó, còn có những công trình nghiên cứu về thực hiện CSDT ở các địa
phương trong cả nước:
Cuốn sách Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại các vùng đa dân
tộc ở các tỉnh miền núi trong những năm gần đây. Hiện trạng, vấn đề các bài học
kinh nghiệm trong xử lý tình huống của Lưu Văn Sùng [91] đã khảo sát đánh giá
về điểm nóng chính trị - xã hội và xử lý điểm nóng trên địa bàn Tây Bắc, Tây
10
Nguyên, Tây Nam Bộ từ đó đề ra một số giải pháp và bài học kinh nghiệm trong
xử lý điểm nóng nhằm giải quyết quan hệ dân tộc trong một quốc gia đa tộc người.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc ở một số
tỉnh Tây Bắc từ năm 1996 đến năm 2006 của Trần Thị Mỹ Hường [77] đã đánh giá
thành tựu và hạn chế của quá trình đổi mới, lãnh đạo của Đảng thực hiện CSDT ở
Tây Bắc từ năm 1996 đến 2006, đúc kết 4 kinh nghiệm lãnh đạo của các đảng bộ
tỉnh khu vực Tây Bắc: Một là, phát triển toàn diện, đồng bộ về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng; Hai là, lựa chọn đầu tư có trọng điểm. Đồng
thời, phát huy nội lực, tiềm năng, thế mạnh cũng như tính chủ động sáng tạo của
địa phương; Ba là, thực hiện tốt định canh, định cư, bảo đảm ổn định đời sống
Nhân dân; Bốn là, chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ người DTTS.
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh miền núi
Đông Bắc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010 của Hoàng Thu Thủy [101] đã
làm sáng tỏ nhận thức khoa học về chính sách dân tộc của Đảng và quá trình tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh vùng Đông Bắc của
Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010; đánh giá những thành tựu, hạn chế của quá
trình tổ chức thực hiện CSDT của Đảng ở một số tỉnh vùng Đông Bắc Việt Nam từ
năm 1996 đến năm 2010; tổng kết 5 kinh nghiệm chủ yếu về tổ chức thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh vùng Đông Bắc từ năm 1996 đến năm
2010: Một là, bám sát đặc điểm cấu trúc xã hội tộc người ở vùng miền núi Đông
Bắc để cụ thể hoá, vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng cho phù hợp với
thực tiễn; Hai là, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm để đầu tư các nguồn lực, tạo
ra các bước phát triển đột phá; Ba là, gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm
an ninh, quốc phòng vùng đồng bào DTTS là chủ trương nhất quán, xuyên suốt
trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện CSDT; Bốn là, coi trọng nâng cao vai trò của
HTCT địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện CSDT; Năm là, phải tạo mọi
điều kiện để thu hút sự tham gia của đồng bào DTTS tại chỗ trong quá trình hoạch
định và thực thi CSDT.
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
đồng bào Khơ-me ở đồng bằng sông Cửu Long của Nguyễn Thanh Thủy [103], đã
11
tập trung nghiên cứu CSDT của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đồng bào Khơme cũng như quá trình thực hiện chính sách. Từ những kết quả về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội đạt được trong quá trình thực hiện CSDT, tác giả đã mạnh dạn đưa
ra một số kiến nghị và giải pháp để thực hiện có hiệu quả CSDT vùng đồng bào dân
tộc Khơ-me...
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về khu vực Tây Nguyên
1.1.2.1. Công trình của các tác giả nước ngoài
Do vị trí và tầm quan trọng về địa lý - dân tộc học nên Tây Nguyên đã thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội trong và ngoài nước.
Đầu thế kỷ XX, H. Bernard với công trình Les populations Moi du Darlac
(Những cư dân Mọi ở Đắk Lắk) [13] đã mang đến cho người đọc một cái nhìn tổng
thể về cư dân các DTTS ở Đắk Lắk nói chung và tộc người Ê-đê nói riêng.
Henri Maitre, Les jung les Moi - Rừng người Mọi [80] đã phân chia vùng đất
Tây Nguyên và Nam Trường Sơn theo địa lý vùng, chia cư dân thành những nhóm
theo ngôn ngữ - dân tộc một cách khoa học. Đây là công trình lịch sử tộc người đầu
tiên viết về cao nguyên nằm giữa Việt Nam, Campuchia và Lào.
Công trình Monographie de province du Darlac, Extrême-Orient (Chuyên khảo
về tỉnh Đắk Lắk, vùng Viễn Đông) của Mus P. [81]; “Bài ca Đam San” do Sabatier L.
sưu tầm, công bố năm 1934; công trình “L’habitation Rhade” (Nhà ở của người Rađê) của M. Ner [82] nghiên cứu về nhà ở, kiến trúc của người Ê-đê.
Jacques Dournes là một trong những nhà Tây Nguyên học say mê nhất. Ông
sống ở Tây Nguyên gần ba mươi năm, am hiểu sâu sắc các DTTS ở đây, nói thành
thạo ngôn ngữ của họ và đã viết hàng chục công trình có thể coi là những nghiên
cứu cơ bản nhất về Tây Nguyên.
Dam Bo (Jacques Dournes), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi Nam
Đông Dương) [22], đã mô tả một hệ thống thần linh khá giàu có, người dân tộc Tây
Nguyên được hít thở trong một môi trường tâm linh phong phú, định hướng cho
những gì tốt đẹp trong tâm hồn. Những giá trị tâm hồn ấy toả sáng, nhưng mong
manh và đang đương đầu với những thử thách trước cái văn minh và hiện đại đầy
thực dụng đang tràn vào.
12
Tác giả đã phác thảo các cộng đồng với những chuyện kể thú vị: người Ra-glai
ở Đông - Nam Tây Nguyên sống hiếu khách và thuận hoà, thích giao lưu; người Srê ở
cao nguyên Kon Tum hướng ngoại và dễ bị nền văn minh tác động, người Cil ở cao
nguyên Lang Biang nghèo đói cam phận, người Ê-đê ở vùng Ðồng Nai Thượng và
cao nguyên Đắk Lắk thì đầy ý chí học hỏi, v.v. Nó như những đoạn phim tài liệu quý
đầy tính gợi tả trên nền khảo cứu khoa học tinh tế, nhạy cảm được khảo sát trên các
bình diện nhân chủng, văn hoá, đời sống…
Dam Bo viết: Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể
hiểu. Bài toán về sự phát triển của các dân tộc Tây Nguyên không hề là một bài toán
đơn giản, dễ dàng. Cần phải yêu, một tình yêu đầy kính trọng và cả ưu tư như Dam
Bo đã yêu đối với đất nước và con người Tây Nguyên để có thể hiểu nó một cách
thấu đáo, từ đó có thể xử lý những câu hỏi không hề dễ dàng đặt ra vừa bức bách vừa
lâu dài, cơ bản.
Georges Condominas, Chúng tôi ăn rừng [20] đã khắc họa lại một bức tranh
chân thực về cuộc sống của người Mnông Gar. Cuộc sống của người Mnông Gar luôn
tuân thủ chặt chẽ theo vô số nghi lễ từ nhỏ đến lớn: lễ kết nghĩa, hội cúng đất, lễ buộc
thóc, v.v.. Cuốn sách trình bày những tư liệu thu thập được trong diễn biến của một
chu kỳ nông nghiệp trọn vẹn trong một năm, là cơ sở thực tiễn đề xuất các giải pháp
phát triển, trên nhiều lĩnh vực đối với đồng bào Mnông Gar cũng như các nhóm dân
tộc thiểu số tại chỗ khác ở Đắk Lắk.
Anne de Hautecloque Howe, Người Ê Đê, một xã hội mẫu quyền [1] đi sâu
nghiên cứu và giới thiệu về cơ cấu tổ chức, các quan hệ xã hội của dân tộc Ê-đê, đặc
biệt xã hội Ê-đê là xã hội mẫu quyền điển hình nhất ở Tây Nguyên. Những hiểu biết
sâu sắc về dân tộc Ê-đê giúp cho các nhà nghiên cứu dân tộc học, xã hội học, văn
hóa học, là tài liệu tham khảo tốt cho những người làm công tác thực tiễn và quản lý
địa phương hiện nay. Tác giả đã gợi mở những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu: đó là
vị trí của người đàn ông trong xã hội Ê-đê; vấn đề đất đai và tái định cư người Việt
tác động đến mọi mặt cấu trúc xã hội truyền thống, đặc biệt là phạm trù sở hữu mới.
Công trình của G. Hickey, Tự do trong rừng thẳm (Lịch sử các sắc tộc vùng Tây
Nguyên Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1976) [79], cuốn sách phản ánh chính sách
13
đồng hóa người Tây Nguyên của Ngô Đình Diệm, như: bãi bỏ chế độ Hoàng triều
cương thổ, di cư người Việt từ các tỉnh ven biển lên Tây Nguyên, thành lập Bộ Sắc
tộc, xây dựng lại nền hành chính, thực hiện chính sách cải cách ruộng đất tại cao
nguyên miền Nam… gây ra làn sóng bất mãn, dẫn đến sự ra đời của tổ chức bí mật
Mặt trận giải phóng Tây Nguyên (Le Front pour la Libération des Montagnards) năm
1955 và sau đó đổi tên thành Bajaraka năm 1958…
Nhìn chung, tuy mỗi công trình không giống nhau về chính kiến và mục đích
nghiên cứu cũng như cách tiếp cận, nhưng đây là những công trình đi sâu nghiên cứu
tộc người, đóng góp những giá trị khoa học nhất định khi tìm hiểu tất cả các vấn đề
văn hóa, kinh tế, xã hội của các tộc người ở Tây Nguyên. Đặc biệt, nhiều vấn đề có
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị ở Tây Nguyên vẫn còn
mang tính thời sự nóng hổi.
1.1.2.2. Công trình của các tác giả trong nước
Thời kỳ thuộc Pháp, có công trình Mọi Kon Tum của Nguyễn Kinh Chi,
Nguyễn Đổng Chi [17]. Cuốn sách Mọi Kontum đã cho người đọc những hiểu biết
tương đối cụ thể về Kon Tum nói riêng, Bắc Tây Nguyên nói chung. Cuốn sách đã
bước đầu nghiên cứu đặc điểm dân tộc, đời sống vật chất và văn hoá của các DTTS
ở Kon Tum.
Trong thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975, ở miền Nam có một số công trình
nghiên cứu về các tộc người Tây Nguyên. Đáng chú ý là cuốn sách Đường lên xứ
Thượng của Bùi Đình [59]; các công trình: Tìm hiểu phong trào tranh đấu FULRO
(1958-1969) của Bộ Phát triển sắc tộc [15]; Đồng bào các sắc tộc thiểu số ở Việt
Nam, nguồn gốc và phong tục của Nguyễn Trắc Dĩ [24]; Cao nguyên miền Thượng
của Cửu Long Giang, Toan Ánh [61]. Các công trình này chủ yếu đi sâu khảo sát và
mô tả địa bàn cư trú, nguồn gốc, nếp sống cá nhân, đời sống xã hội, tinh thần của các
tộc người ở Tây Nguyên nói riêng và miền Nam nói chung.
Ở miền Bắc có một số công trình của Y Điêng, Ngọc Anh, Lê Bá Thảo... giới
thiệu về vùng đất, văn hóa và con người Tây Nguyên, trong đó có các tộc người ở
Đắk Lắk.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc nghiên cứu về Tây Nguyên
nhằm đưa ra những luận cứ khoa học để khai thác tiềm năng thế mạnh về điều kiện
14
tự nhiên, những đặc điểm về văn hóa - xã hội của quá trình xây dựng cuộc sống mới
ấm no, hạnh phúc cho đồng bào các DTTS, thực hiện mục tiêu bình đẳng, đoàn kết
dân tộc được Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm. Trong đó thành tựu
nổi bật nhất là việc Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam) thực hiện thành công hai chương trình nghiên cứu khoa học
cấp nhà nước: Chương trình Tây Nguyên 1 (1978-1983) và Chương trình Tây
Nguyên 2 (1984-1988). Hai Chương trình này đã điều tra cơ bản điều kiện tự nhiên,
đặc điểm con người và xã hội các dân tộc, cung cấp những cơ sở khoa học cho việc
hoạch định các chủ trương, chính sách của nhà nước. Kết quả phần khoa học xã hội
được tập hợp và xuất bản trong hai cuốn sách Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã
hội Tây Nguyên [145] và Tây Nguyên trên đường phát triển [146], trong đó đã làm
sáng tỏ thực trạng phát triển kinh tế - xã hội, quản lý và sử dụng đất đai, khai thác
tài nguyên rừng, DCTD, quan hệ tộc người. Cùng với đó còn có những thành tựu
khác về dân tộc học, văn hóa học, xã hội học đã điều tra, xác định thành phần dân
tộc, giới thiệu đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa các dân tộc, góp phần thực hiện
CSDT của Đảng.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng quan tâm chỉ đạo quá trình đưa Tây Nguyên
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), trong đó chú ý đặc điểm dân tộc, dân cư và có
chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên phù hợp với
đặc điểm địa lý, dân tộc, dân cư ở vùng này. Lê Duẩn trong bài Tây Nguyên đoàn kết
tiến lên [30]; Trường Chinh trong bài Đưa đồng bào các dân tộc Đắk Lắk lên chủ
nghĩa xã hội [18] đã phân tích những đặc thù về tộc người, dân cư và chỉ đạo các
đảng bộ tỉnh khu vực Tây Nguyên phải nghiên cứu, vận dụng để đề ra chủ trương,
giải pháp cho phù hợp.
Trong điều kiện khó khăn về kinh tế, tình hình an ninh chưa ổn định do hoạt
động của lực lượng phản động FULRO (Front unifine pour la liberation des races
opprimees (Mặt trận thống nhất giải phóng các dân tộc bị áp bức), đặc biệt là thiếu
tư liệu, nhưng nhiều nhà khoa học quan tâm đến nghiên cứu lịch sử, văn hoá tộc
người, đặc biệt tham gia tích cực vào công tác xác định thành phần dân tộc ở các tỉnh
vùng Tây Nguyên. Một số công trình chuyên khảo về lịch sử, văn hoá và dân tộc học
- Xem thêm -