Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đặc sắc trong truyện dài nguyễn nhật ánh (qua tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, ch...

Tài liệu đặc sắc trong truyện dài nguyễn nhật ánh (qua tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng)

.PDF
86
1066
106

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THÁI SƠN ĐẶC SẮC TRUYỆN DÀI NGUYỄN NHẬT ÁNH (Qua Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ HƯƠNG THỦY HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình. TÊN TÁC GIẢ Nguyễn Thái Sơn MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ NHÀ VĂN NGUYỄN NHẬT ÁNH VÀ VĂN HỌC THIẾU NHI 7 1.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Nhật Ánh 8 1.2. Hành trình sáng tác văn chương của Nguyễn Nhật Ánh 13 1.3. Phác thảo về văn học thiếu nhi Việt Nam và vị trí của Nguyễn Nhật Ánh 18 Chương 2. NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ MẶT NỘI DUNG 23 2.1. Xây dựng thế giới tuổi thơ trong trẻo và hấp dẫn 24 2.2. Những suy tư cho “những ai từng là trẻ em” 35 2.3. Tạo dựng một thế giới loài vật sống động, ngộ nghĩnh 44 Chương 3. NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ MẶT NGHỆ THUẬT 55 3.1. Cốt truyện và tình huống 56 3.2. Người kể chuyện 61 3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu 68 KẾT LUẬN 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT Nxb: Nhà xuất bản Cách chú thích tài liệu trích dẫn: Gồm thứ tự tài liệu trong danh mục Tài liệu tham khảo và số thứ tự trang chứa trích dẫn. Ví dụ: kí hiệu [10, tr. 45] tức là số thứ tự của tài liệu trong thư mục Tài liệu tham khảo là 10, nhận định được trích dẫn nằm ở trang 45 của tài liệu này. Còn kí hiệu [20] nghĩa là số thứ tự của tài liệu trong thư mục Tài liệu tham khảo. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn có số đầu sách kỉ lục về lượng phát hành, đạt nhiều giải thưởng cả trong nước và quốc tế, tạo được dấu ấn trong lòng công chúng. Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh được tái bản nhiều lần với số bản in tương đối lớn và một số còn được dịch ra tiếng nước ngoài, luôn được bạn đọc yêu mến và nồng nhiệt đón mừng. Sáng tác của anh cũng thực sự góp phần vào sự đổi mới diện mạo văn học thiếu nhi nước ta trong mấy thập niên gần đây. Đã có nhiều bài viết đăng tải trên báo, tạp chí, internet, các giáo trình, luận văn, luận án nhìn nhận, đánh giá tác phẩm của anh ở nhiều phương diện khác nhau. Mỗi tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh được xuất bản đều được quan tâm, thể hiện thông qua bài giới thiệu đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nó cho thấy sức hút không nhỏ của nhà văn này đối với cả bạn đọc chuyên và không chuyên. Thời gian gần đây, một số tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh còn được dựng thành những bộ phim điện ảnh gây được tiếng vang càng khiến cho tên tuổi của nhà văn được khẳng định. Trong bối cảnh chung của văn học đương đại, Nguyễn Nhật Ánh có thể được coi là một hiện tượng đặc biệt với một sức hấp dẫn không nhỏ. Vậy đâu là nét đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh khiến cho tác phẩm của ông được quan tâm đến như vậy? Đặc biệt là khi đặt trong bối cảnh văn học cũng như văn hóa đọc đang bị canh tranh khốc liệt với nhiều loại hình giải trí khác, khi văn học thiếu nhi đương đại chưa có những đột phá thu hút được sự chú ý của độc giả? 1.2. Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào. Điều này được thể hiện khá rõ qua số lượng các tác phẩm của ông. Sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh có thể loại truyện ngắn và đặc biệt là các truyện dài. Hơn nữa Nguyễn Nhật Ánh chủ yếu sáng tác cho thiếu nhi, cho tuổi học trò. Chúng ta ai cũng hiểu rằng viết về thiếu nhi không phải là điều dễ dàng. Bản thân nhà văn phải có khả năng hóa thân, trẻ hóa tâm hồn để có thể phản ánh thế giới trẻ thơ trong trẻo như chính đôi mắt trẻ 1 thơ đang nhìn vậy. Bên cạnh đó, những đòi hỏi về ngôn ngữ, hình ảnh, cốt truyện khi viết về thiếu nhi cũng rất khác. Phải chăng vì thế mà mảng văn học thiếu nhi không nở rộ như các mảng văn học khác. Chọn một con đường khó đi gắn bó với nó cả đời, Nguyễn Nhật Ánh đã có những thành công riêng, đóng góp không nhỏ vào đời sống văn học đương đại nước nhà. Có thể khẳng định ông là một trong những nhà văn viết cho thiếu nhi thành công nhất trong giai đoạn văn học hiện nay. Trong truyện viết về thiếu nhi có thể thấy có hai loại: một là truyện dành dành cho thiếu nhi, hai là truyện lấy thế giới trẻ thơ để viết cho người lớn. Cái hay của Nguyễn Nhật Ánh có lẽ là truyện của ông đi được giữa hai lằn ranh này. Vậy điều gì làm nên sự độc đáo đó? Tại sao bạn đọc của Nguyễn Nhật Ánh không chỉ là các em thiếu nhi, các em ở lứa tuổi học trò mà còn là chính mỗi người lớn chúng ta? Điều gì giúp ông duy trì được sức hấp dẫn ấy qua rất nhiều tác phẩm cùng chủ đề? Trả lời được những câu hỏi trên có lẽ chúng ta đã khám phá ra những nét đặc sắc nhất trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh cũng như đưa mỗi chúng ta trở về với những kí ức tuổi thơ tươi đẹp của mình. 1.3. Nghiên cứu đánh giá về văn chương Nguyễn Nhật Ánh không phải là ít. Do đó, đây cũng không còn là một tác giả mới mẻ, một mảnh đất chưa có người khai phá cho các nhà nghiên cứu tìm tòi. Nhưng không phải vì thế mà các tác phẩm của ông mất đi sự hấp dẫn mời gọi đối với những người nghiên cứu văn chương. Xuất phát từ những lí do chủ quan và khách quan trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Đặc sắc trong truyện dài Nguyễn Nhật Ánh (qua Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng) làm đề tài luận văn của mình. Chúng tôi lựa chọn ba tác phẩm trên vì đó là những tác phẩm được xếp vào loại xuất sắc của Nguyễn Nhật Ánh và gây được chú ý của đông đảo bạn đọc, trong đó có tác phẩm mới được xuất bản của ông. Hi vọng thông qua những tác phẩm tiêu biểu này có thể làm rõ được những đặc điểm độc đáo trong sáng tác của nhà văn. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Như đã trình bày ở trên, Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn có số lượng sách phát hành lớn, tần suất ra sách cao và chỉ viết chủ yếu ở mảng văn học thiếu nhi. Các tác phẩm của ông được yêu mến và đánh giá cao. Do đó, mỗi một tác phẩm của ông ra đời đều thu hút được sự chú ý của dư luận của các nhà nghiên cứu chuyên và không chuyên. Các bài viết về Nguyễn Nhật Ánh có thể chia thành các nhóm như: Các bài giới thiệu sách, giới thiệu tác phẩm đăng trên các báo như Người lao động, Tiền phong, Tuổi trẻ, Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Mực tím,… Các bài báo giới thiệu sách thường không đi sâu vào các đặc điểm truyện Nguyễn Nhật Ánh mà chủ yếu mang tính chất giới thiệu về các tác phẩm mới của nhà văn. Tuy nhiên nó cho thấy sức hấp dẫn của tên tuổi Nguyễn Nhật Ánh với đông đảo bạn đọc, không chỉ là thiếu nhi hay các em trong độ tuổi học trò mà còn với cả người lớn – những người đã từng là thiếu nhi. Nhóm thứ hai là các bài viết mang tính chuyên sâu hơn về Nguyễn Nhật Ánh. Các công trình nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh có thể là các công trình chuyên biệt, cũng có thể là các bài viết đánh giá chung về văn học thiếu nhi sau 1975, trong đó truyện Nguyễn Nhật Ánh như một đối tượng tiêu biểu được nhắc đến. Các bài viết này có thể kể đến công trình Truyện viết cho thiếu nhi sau 1975: Diện mạo và quá trình phát triển của Lã Thị Bắc Lý; Bách khoa toàn thư văn học thiếu nhi Việt Nam của Vân Thanh và Nguyên An, … không chỉ nhắc tới Nguyễn Nhật Ánh như một ví dụ mà có lẽ nó còn là ví dụ tiêu biểu và điển hình bậc nhất. Tuy các công trình này không lấy riêng tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh làm đối tượng chuyên biệt nhưng đã phần nào giới thiệu được những đặc trưng cơ bản trong một số sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Ngoài ra còn có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Nghiên cứu văn học, Văn nghệ, Văn nghệ trẻ… nghiên cứu về các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. Có thể kể đến các bài viết như Nguyễn Nhật Ánh - nhà văn thân quý của tuổi thơ của Vân Thanh trên Tạp chí Văn học số 6 năm 1998, Kính Vạn Hoa – phép lạ giữa ngày thường in trên Tuần báo Văn nghệ số 23 của Vân Hồng năm 1996, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của Nguyễn Thị Thanh 3 Xuân trên Tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 273 (ra ngày 26/12/1996), Nguyễn Nhật Ánh – người bạn thân mến của độc giả trẻ của Vũ Ân Thy đăng trên báo Sài Gòn giải phóng (1997)… Ở nhóm các bài viết này, dù là nghiên cứu về một tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh hay tìm hiểu về nhiều tác phẩm của ông, chúng ta cũng nhận thấy các công trình đã phần nào chỉ ra những đặc trưng trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Các công trình đều ghi nhận những đóng góp của Nguyễn Nhật Ánh cho văn học thiếu nhi. Gần đây có hai cuốn sách về Nguyễn Nhật Ánh được bạn đọc chú ý. Cuốn thứ nhất là cuốn Nguyễn Nhật Ánh – hoàng tử bé trong thế giới tuổi thơ (Lê Minh Quốc biên soạn) ra đời vào năm 2013, đây là cuốn sách đầu tiên giới thiệu khá đầy đủ các thông tin liên quan đến tiểu sử, hành trình sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Cuốn thứ hai là cuốn Nguyễn Nhật Ánh – hiệp sĩ của tuổi thơ, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2015 ra đời sau hội thảo Nguyễn Nhật Ánh – Hành trình chinh phục tuổi thơ gồm, 37 bài viết được chia làm 2 phần là: Nguyễn Nhật Ánh trong cõi văn chương và Nguyễn Nhật Ánh nhìn từ tác phẩm. Hai cuốn sách là tập hợp của nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về nhiều góc độ khác nhau trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Nhóm tài liệu thứ ba mà chúng tôi muốn kể đến đó là các luận văn, khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, học viên cũng có khá nhiều công trình lấy tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh làm đối tượng nghiên cứu như: Thế giới trẻ thơ qua cái nhìn của Nguyễn Nhật Ánh trong bộ truyện Kính vạn hoa của Phạm Thị Bền, Luận văn thạc sĩ năm 2005 trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật Ánh của Vũ Thị Hương, Luận văn thạc sĩ năm 2009 trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Thế giới nhân vật trong bộ truyện Chuyện xứ Lang Biang của Nguyễn Nhật Ánh của Nguyễn Thị Liên, luận văn thạc sĩ năm 2012, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Nhật Ánh của Bùi Thị Thu Thủy, luận văn thạc sĩ năm 2011 trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,…. Các công trình này tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau nhưng đều chú ý đến nhân vật và thế giới tuổi thơ được phản ánh qua truyện của Nguyễn Nhật Ánh. 4 Các công trình nghiên cứu về Nguyễn Nhật Ánh có thể chưa có hệ thống nhưng số lượng các công trình đã cho thấy sức hấp dẫn của đối tượng nghiên cứu và gợi mở cho chúng tôi nhiều điều khi tiếp cận đề tài của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích: Thấy được những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh thông qua các tác phẩm khảo sát; từ đó đánh giá được những đóng góp của nhà văn vào diện mạo chung của văn học thiếu nhi đương đại. 3.2. Nhiệm vụ: Khảo sát các tác phẩm, làm rõ các phương diện đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Những đặc điểm nổi bật, những đặc sắc về mặt nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Tập trung vào ba tác phẩm chính: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng. - Ngoài ra còn khảo sát thêm các tác phẩm khác của Nguyễn Nhật Ánh, các tác phẩm viết cho thiếu nhi của các tác giả khác để so sánh. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp hệ thống, phương pháp loại hình và phương pháp lịch sử. - Phương pháp phân tích, tổng hợp được dùng trong việc phân tích các luận chứng, từ đó có những đánh giá và kết luận khách quan, khoa học. - Phương pháp so sánh, đối chiếu nhằm chỉ ra những nét chung và nét độc đáo riêng của Nguyễn Nhật Ánh so với các nhà văn khác cùng viết cho thiếu nhi. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Đề tài thể hiện các phương diện đặc sắc về nội dung và nghệ thuật qua ba tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, qua đó khẳng định vị trí của Nguyễn Nhật Ánh ở mảng truyện viết cho thiếu nhi (chủ yếu là truyện dài). - Đề tài sẽ góp phần nhận diện tác giả Nguyễn Nhật Ánh trong toàn bộ hành trình sáng tác đầy sáng tạo và phong phú của ông. 5 - Đề tài cũng góp phần lý giải những xu hướng của truyện dài đương đại viết cho trẻ thơ nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được triển khai trong 3 chương: Chương 1: Giới thiệu sơ lược về nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và văn học thiếu nhi Chương 2: Những đặc sắc về mặt nội dung Chương 3: Những đặc sắc về mặt nghệ thuật 6 Chương 1 GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ NHÀ VĂN NGUYỄN NHẬT ÁNH VÀ VĂN HỌC THIẾU NHI Văn học thiếu nhi là một mảng đề tài hấp dẫn nhưng lại không dễ viết. Hấp dẫn có lẽ vì ai cũng có những kí ức tuổi thơ trong trẻo, ai cũng có trong mình một “thiếu nhi” mãi mãi không trưởng thành. Nhưng cũng thật khó vì người lớn dẫu sao cũng không còn cái hồn nhiên của trẻ em để cảm, để viết cho ra được cái chất trong trẻo của lứa tuổi đó. Đặc biệt, khi xã hội ngày càng phát triển, quá trình hội nhập ngày càng nhanh trên nhiều lĩnh vực đời sống, trẻ em có nhiều phương tiện giải trí ngoài sách và văn chương. Làm sao viết cho thiếu nhi hay tạo được chỗ đứng và nhất là có thể kéo các em đến với các sáng tác của mình là thử thách đối với những nhà văn viết cho trẻ em. Văn học thiếu nhi ở giai đoạn sau 1975 cũng có nhiều thay đổi. Đứng trước những thay đổi của bối cảnh văn học xã hội, nhà văn không thể không tìm cách đổi mới chính ngòi bút của mình. Còn có nhiều ý kiến về văn học thiếu nhi. Hiểu thế nào về khái niệm thiếu nhi? Văn học thiếu nhi là văn học dành cho độ tuổi nào? Văn học thiếu nhi có phải là văn học hay là “cận văn học”? Văn học thiếu nhi là viết về thiếu nhi, viết cho thiếu nhi, hay viết cho cả người lớn? Văn học thiếu nhi có chức năng gì là chủ yếu: giáo dục hay thẩm mĩ? Đó là những câu hỏi cần một câu trả lời chính xác để có thể có cơ sở cho việc tiếp cận đề tài nhưng không phải lúc nào cũng có sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu. Nguyễn Nhật Ánh có cả những sáng tác không phải dành cho thiếu nhi. Nhưng nói đến các nhà văn tiêu biểu của văn học thiếu nhi sau 1975, người ta không thể không nhắc đến ông, vì phần lớn số lượng tác phẩm của ông thuộc nhóm văn học này. Đây là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại. Do đó, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về nhà văn cũng như hành trình sáng tác của ông. Từ đó có thể hiểu sâu hơn những vấn đề trong tác phẩm của nhà văn. 7 1.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Nhật Ánh Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 07/5/1955, quê ở Bình Quế, Thăng Bình, Quảng Nam. Có thể nói mảnh đất Quảng Nam với các đặc trưng văn hóa riêng đã in sâu vào tâm hồn nhà văn, để rồi đi vào các sáng tác của ông một cách tự nhiên và sâu lắng. Một tuổi thơ với miền kí ức xa xăm nhưng không thể phai mờ dần trở lại trong các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Nếu như không có quê hương với xóm làng và tuổi thơ nhiều trải nghiệm chắc thật khó để Nguyễn Nhật Ánh có thể viết được những trang sách hay đến thế về tuổi thơ nơi những miền quê nghèo dân dã. Theo những chia sẻ của ông, ông chỉ sống ở ngôi làng Đo Đo, Bình Quế khoảng 8 năm nhưng nó đã trở thành một miền kí ức rực rỡ và tươi đẹp nhất: “Tôi xa quê hương, gia đình từ rất sớm – do đó nỗi nhớ xứ sở trong tôi bao giờ cũng vẹn nguyên và rực rỡ. Như một người đánh mất tuổi thơ sớm nên khi cầm bút viết về tuổi thơ mới lớn là biết bao kỉ niệm ùa về, xúc cảm cứ tràn vào trang viết”. Một lần khác Nguyễn Nhật Ánh viết: “Tôi là nhà văn. Nên tôi thỏa nỗi nhớ quê của mình theo cách của người hành nghề con chữ. Những kỉ niệm những vùng đất những gương mặt bạn bè ấu thơ thi nhau hiện lên trong hết cuốn sách này đến cuốn sách khác. Đến bây giờ tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: có phải đó là nguyên nhân sâu xa khiến tôi trở thành nhà văn chuyên viết cho tuổi thơ – một thế giới lung linh mà một kẻ tha hương không nguôi nhớ đến và tìm mọi cách tái tạo trong những trang viết của mình” [47]. Dường như quê hương và tuổi thơ chính là chất xúc tác đầu tiên, là cơ duyên đưa Nguyễn Nhật Ánh trở thành một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Khi viết, nhà văn như đang trở về với chính mình, chìm trong những cảm xúc của bản thân. Ở đâu đó, những câu chuyện của tuổi học trò như chính một phần kí ức của nhà văn, là phần hòa quyện của trí tưởng tượng sáng tạo và những chi tiết có thực của đời sống, là sự “nhập nhằng” của quá khứ và hiện tại. Trên trang facebook cá nhân của mình, ông đã có nhiều bài viết chia sẻ về cảm xúc khi quay lại miền quê xưa, gặp lại những con người xưa. Trong những chia sẻ đó, ta bắt gặp hình ảnh của một cậu bé tinh nghịch, hồn nhiên, giàu cảm xúc và tinh ý. Một trong những phẩm chất của cậu bé tinh nghịch ngày nào đó là sự say mê với những trang sách: “Thuở bé tôi rất mê 8 đọc sách. Tôi bị quyến rũ bởi các tác phẩm của Thạch Lam, Khái Hưng, Tô Hoài, Thế Lữ, đắm chìm trong những trang sách của Edmonnd de Amicis, Victo Huygo, Hector Ma lot, và tôi mơ ước sau này mình sẽ trở thành một nhà văn” [47, tr. 14]. Dường như những phẩm chất ấy cũng góp phần làm nên một nhà văn sau này. Được trải nghiệm với những vốn sống và cảm xúc phong phú chính là đôi cánh cho tâm hồn mỗi con người được thăng hoa và sáng tạo. Sau khi rời Đo Đo, tiếp tục theo học tiểu học rồi những năm tháng phổ thổng ở Quảng Nam – Đà Nẵng, năm 1973, ông rời mảnh đất miền trung vào Sài Gòn. Ở đây ông theo học khoa Văn, trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Sau khi đất nước thống nhất ông tiếp tục cuộc sống tự lập kiếm sống bằng nhiều nghề ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đó có lẽ cũng là một trải nghiệm đáng quý đối với nhà văn. Những biến động của lịch sử đất nước, những năm tháng bươn chải mưu sinh đã giúp nhà văn có thêm sự trưởng thành và vững vàng. Năm 1976, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư Phạm, Nguyễn Nhật Ánh tình nguyện tham gia phong trào thanh niên xung phong do không thể xin việc vì lí do gia đình. Đây là một biến cố có thể để lại những bất mãn, những tổn thương nhưng với ông nó lại trở thành một cơ hội để bản lĩnh của ông được tôi rèn. Nhà văn chia sẻ: “Môi trường thanh niên xung phong đã rèn luyện cho tôi thành một con người biết vượt khó, có nghị lực, luôn yêu đời. Nó giúp cho con người sáng tác của tôi có một niềm tin và cái nhìn trong trẻo với cuộc sống. Nếu không có thời gian đi Thanh niên xung phong thì không hẳn tôi đã có những trang viết tươi tắn như bây giờ” [47, tr. 18]. Có lẽ với Nguyễn Nhật Ánh những thử thách chính là cơ hội để nhà văn vươn lên. Ông luôn tìm thấy niềm tin và hướng đi đúng đắn cho bản thân, luôn hướng tới những điều tốt đẹp, luôn tự đấu tranh để thanh lọc tâm hồn mình. Những năm 80, Nguyễn Nhật Ánh về làm công việc dạy học. Quãng thời gian đứng trên bục giảng của ông không nhiều nhưng là khoảng thời gian nhà văn được tiếp xúc với các em thiếu nhi, được gắn bó với tuổi học trò. Nếu chỉ có kỉ niệm tuổi thơ của bản thân thôi có lẽ chưa đủ để ông hiểu biết sâu sắc, am hiểu tường tận đến thế tâm lý lứa tuổi, để viết những trang văn về học trò một cách trong trẻo và chân 9 thực đến thế. Chính những năm tháng dạy học rồi chuyển qua làm công tác Đoàn ông đã quan sát, lắng nghe và thấu hiểu hơn lứa tuổi tươi đẹp nhất mà cũng ẩm ương nhất đấy. Những trang viết của nhà văn trong thời gian này vừa có tính giáo dục cao lại vừa nhẹ nhàng, hồn nhiên, mang tính hướng thiện. Từ năm 1986 đến nay, Nguyễn Nhật Ánh làm phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng ngoài ra ông còn là một bình luận viên thể thao xuất sắc. Trong cương vị một nhà báo, ông nhanh chóng khẳng định được khả năng của mình. Bên cạnh đó ông vẫn tiếp tục viết văn thậm chí viết nhiều và số lượng ấn bản đạt tới kỉ lục. Công việc của một nhà báo tuy bận rộn và có cường độ lao động cao nhưng bù lại lại giúp cho ông có thể đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều con người với nhiều góc nhìn trải nghiệm mới. Vì vậy nó đã hỗ trợ cho việc viết văn của ông tốt hơn, đưa nhà văn tới gần đời sống hằng ngày hơn. Nguyễn Nhật Ánh luôn khẳng định mình có cái tạng phù hợp với văn học thiếu nhi. Dường như trong ông luôn có sẵn “đứa trẻ con” nào đó, bất kể tuổi tác thật sự của ông. Ông là một người vui tươi, dí dỏm, thích đùa luôn có nét tinh nghịch, dễ thương. Ngoài cái “tạng” trời cho để phù hợp với tuổi học trò thì cũng phải kể đến chính tính cách và sự nuôi dưỡng tâm hồn của tác giả đã giúp ông luôn giữ được giọng văn hồn nhiên, trong trẻo gần gũi với tuổi học trò. Nguyễn Nhật Ánh đã làm nhiều công việc, ở những vị trí khác nhau. Chính những công việc ấy cũng đã giúp ông hình thành nên vốn sống, tạo ra chất liệu để sáng tạo. Song một phần khác là ở thái độ lao động nghiêm túc và trách nhiệm của ông. Khi dạy học, làm công tác đoàn hay có thể ngay từ những ngày còn học sư phạm, nhà văn đã được tiếp xúc với các bạn trẻ, có kĩ năng nghiệp vụ sư phạm để gần gũi tuổi “thần tiên”. Không những vậy, chính ông đã đăng kí học một lớp tiếng Anh buổi tối để có thêm dịp tiếp xúc với các bạn ở lứa tuổi học trò. Ông dành khá nhiều thời gian để quan sát, tâm tình trò chuyện với các bạn trẻ quanh ông, với chính con gái và các bạn của con. Ông còn sưu tầm toàn bộ sách giáo khoa từ lớp 1 tới lớp 12 để đọc, để hiểu, để chia sẻ hơn với các bạn. Có lẽ chính thái độ chủ động, nghiêm túc và chuyên nghiệp đó của nhà văn khiến cho các tác phẩm của ông dù 10 viết chung về một đề tài cũng không bao giờ cũ, vẫn luôn được đông đảo bạn đọc chú ý và đón nhận. Ông viết về tuổi học trò bằng tâm tình của một người trong cuộc chứ không phải bằng cảm nhận của một người lớn đứng bên ngoài thế giới đó rồi quan sát mà viết. Như vậy, thành công của ông là thành công của một nghệ sĩ chân chính, lao động nghệ thuật nghiêm túc, luôn tâm huyết và trách nhiệm với nghề chứ không chỉ là cơ duyên của nhà văn với mảng văn học thiếu nhi. Quan điểm sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh: “Trong con người tôi luôn có một đứa trẻ con. Khi tôi lớn lên, khi tôi già đi, đứa trẻ con trong tôi không chịu lớn và làm sao để nuôi dưỡng đứa trẻ con đó trong con người là một điều không dễ lý giải và tôi nghĩ đó là quà tặng của số phận. Đứa trẻ con đó đã nuôi tôi và biết đâu một ngày nào đó đứa trẻ con đó… già đi thì không biết tôi làm sao sống được”… Đó là chia sẻ của nhà văn khi trả lời phỏng vấn trên báo Tuổi trẻ ra ngày 24/11/2013 với nhan đề Nguyễn Nhật Ánh: Trong tôi luôn có một đứa trẻ. Lời chia sẻ cho thấy sự chân thành và tâm huyết. Nguyễn Nhật Ánh thừa nhận mình may mắn có được cơ duyên với lứa tuổi học trò, với văn học thiếu nhi. Và với Nguyễn Nhật Ánh, ông luôn biết ơn vì điều đó. Đó chính là thái độ trân trọng với nghề, là tấm lòng của một nghệ sĩ thực thụ dành cho nghề của mình. Ông không che giấu tình yêu dành cho nghề viết văn, niềm hạnh phúc được viết của mình: “Nếu bây giờ tôi kiếm được rất nhiều tiền mà không bằng nghề mình yêu thích, có lẽ tôi không cảm thấy hạnh phúc thực sự” [47, tr. 14]. Cũng bởi với Nguyễn Nhật Ánh nghề là đam mê chứ không chỉ là phương tiện mưu sinh, thế nên sống bằng nghề là một hạnh phúc, được sống bằng nghề đó là một niềm vui mà không dễ gì đánh đổi được. Sự đam mê và tình yêu dành cho nghề đã biến nhà văn thành người “không có Chủ nhật”, “người mê công việc” như bạn bè ông thường gọi. Nguyễn Nhật Ánh suy nghĩ về nghề rất nghiêm túc. Ông luôn khẳng định yêu nghề là tiêu chí đầu tiên của một người làm nghề. Nhưng đặc biệt hơn với văn chương người ta không nên mưu cầu danh lợi mà trước hết phải viết như một sự thôi thúc từ bên trong nội tâm mình. Có thế tác phẩm mới có giá trị: “tiền bạc đối với một nhà văn nếu có chỉ là cái đến sau. Nếu để kiếm tiền, không ai chọn nghề viết văn. Khi ngồi vào bàn viết, nhà văn chỉ tìm kiếm một 11 thứ duy nhất: những ý tưởng. Tôi rất thích một câu không biết của ai: lợi và danh đi trước sáng tác là một tai họa, đi song hành với sáng tác là một cản trở còn đến sau sáng tác là hợp quy luật” [47, tr. 17]. Nghĩa là nhà văn hãy cứ cống hiến đi, cứ như con tằm rút ruột nhả tơ đi, anh sẽ được trả công xứng đáng. Còn nếu cầm bút đã vì những toan tính thì thường lại ít khi đạt được thành công. Chính quan điểm nghiêm túc và đúng đắn này đã giúp ông ghi được tên tuổi của mình trong lòng bạn đọc, gặt hái được những thành công nhất định. Nguyễn Nhật Ánh khi cầm bút rất chú trọng tới độc giả. Ông cho rằng đó là đối tượng quan trọng nhất trong quá trình sáng tác của mình. Ông luôn tâm niệm văn học thiếu nhi là không chỉ viết về thiếu nhi mà phải là thực sự viết cho thiếu nhi, phải làm sao để “trẻ em khen hay, phụ huynh khen tốt” nghĩa là có cả tính giáo dục và cả tính thẩm mĩ phù hợp với tâm lý lứa tuổi của trẻ em. Ông hiểu được trọng trách trên mỗi trang văn của mình sao cho phải trở thành một “trụ đỡ tinh thần” cho các em mà vẫn phải tránh được mọi sự “gượng gạo và áp đặt”. Ông hiểu rằng nghề viết văn cũng giống như nhiều nghề khác trong xã hội nhưng nó khác ở chỗ nó còn mang một “sứ mệnh” đó là: “là một nhà văn chuyên tâm viết cho thiếu nhi, tôi nghĩ công việc của tôi là giúp cho các bạn đọc trẻ giàu có cảm xúc hơn, qua đó sống tốt hơn” [47, tr. 9]. Nguyễn Nhật Ánh ý thức được những khó khăn của văn học thiếu nhi trong một thời đại mới. Nhưng càng khó khăn, nhà văn càng cần phải nỗ lực: “Trong tình hình các em chơi nhiều hơn đọc, đọc truyện tranh nhiều hơn truyện chữ, đọc truyện dịch nhiều hơn truyện trong nước, tôi nghĩ nhà văn viết cho thiếu nhi phải cố viết làm sao để thu hút các em đến với sách, đến với truyện chữ, đến với văn học Việt Nam. Tôi tin rằng đó là một cuộc chiến đấu mang ý nghĩa xã hội, một cuộc chiến không cân sức nhằm thử thách tinh thần trách nhiệm của nhà văn” [47, tr. 9]. Thực hiện chức năng giáo dục của văn chương nhưng không được đánh mất đi tính thẩm mĩ. Từ chỗ xác định được đối tượng của mình, Nguyễn Nhật Ánh xác định phương thức tiếp cận và lựa chọn kĩ thuật viết sao cho phù hợp. Viết cho thiếu nhi, viết về thiếu nhi nhà văn phải cố giữ cho được cái trong trẻo và giản dị của mình, vì thế: “những thủ pháp nghệ thuật được vận dụng trong các tác phẩm viết 12 cho người lớn không phải bao giờ cũng tìm thấy chỗ đứng thích hợp trong các tác phẩm viết cho trẻ em” [47, tr. 21]. Nguyễn Nhật Ánh đã tìm ra chiếc chìa khóa để bước vào thế giới trẻ thơ đó chính là “sự nhạy cảm đặc biệt của chính mình”. Bí quyết thành công của Nguyễn Nhật Ánh có lẽ chính là dồn toàn bộ tâm trí cho mỗi trang sách. Mỗi khi viết, nhà văn như bỏ lại phía sau lưng mình những bụi bặm của cuộc sống để có thể giữ được sự trong trẻo thong dong: “Tôi có thể viết trong không khí ồn ào, náo nhiệt lẫn yên tĩnh. Thậm chí tôi có thể gác việc viết lách sang một bên để trả nợ một bài báo hoặc giải quyết một công việc gấp rút nào đó. Tuy vậy khi ngồi vào bàn sáng tác tôi hoàn toàn sống trong thế giới của riêng mình” [47, tr. 9]. Như vậy, có thể thấy Nguyễn Nhật Ánh có một quan niệm sáng tác đúng đắn. Và suốt hành trình sáng tác của mình, ông đã nỗ lực giữ vững quan điểm sáng tác ấy. Có lẽ chính sự nghiêm túc, bền bỉ đó đã đưa nhà văn đến được thành công của ngày hôm nay. 1.2. Hành trình sáng tác văn chương của Nguyễn Nhật Ánh Nguyễn Nhật Ánh bắt đầu sáng tác từ khá sớm, khoảng những năm nhà văn 13 tuổi ông đã có những tác phẩm đầu tay. Được biết đến với các bút danh như Anh Bồ Câu với chuyên mục gỡ rối tơ lòng cho tuổi mới lớn, Chu Đình Ngạn khi bình luận thể thao, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,… nhưng có lẽ cái tên Nguyễn Nhật Ánh là cái tên để lại dấu ấn trong lòng độc giả hơn cả. Tính tới thời điểm này, trong mảng văn học thiếu nhi hiện đại khó có tác giả nào có thể vượt qua được Nguyễn Nhật Ánh về số lượng đầu sách, số lượng bản in các tác phẩm văn học thiếu nhi cũng như các giải thưởng. Trước khi viết văn, Nguyễn Nhật Ánh được biết đến như một nhà thơ, trong đó có bài thơ nổi tiếng của ông đã được phổ nhạc là bài Thành phố tình yêu và nỗi nhớ. Tính đến nay ông đã có 5 tập thơ được xuất bản là: Thành phố tháng 4 (in cùng Lê Thị Kim), Đầu xuân ra sông giặt áo, Thơ tình Nguyễn Nhật Ánh, Tứ tuyệt cho nàng và Lễ hội của đêm đen. Ngoài thơ, ông đã từng thử sức viết ở các thể loại khác nhau. Ông từng viết theo đơn đặt hàng của Nxb Kim Đồng về đề tài thanh niên 13 xung phong. Nhưng cuối cùng tác phẩm của ông không được in vì không thực sự có chất lượng. Chỉ khi đến với mảng văn học thiếu nhi với tác phẩm đầu tiên được xuất bản là Trước vòng chung kết (xuất bản năm 1985), Nguyễn Nhật Ánh mới khẳng định được sở trường của mình. Từ đây ông được biết đến như một nhà văn thiếu nhi với gia tài sáng tác đáng nể: - Trước vòng chung kết (truyện dài 1985) - Cú phạt đền (truyện dài, 1985) - Chuyện cổ tích dành cho người lớn (Tập truyện, 1987) - Bàn có năm chỗ ngồi (truyện dài, 1987) - Còn chút gì để nhớ (truyện dài, 1988) - Bí mật của một võ sĩ (tập truyện, 1989) - Cô gái đến từ hôm qua (truyện dài, 1989) - Nữ sinh (truyện dài, 1989) - Chú bé rắc rối (truyện dài, 1989) - Thiên thần nhỏ của tôi (truyện dài, 1990) - Phòng trọ ba người (truyện dài, 1990) - Mắt biếc (truyện dài, 1990) - Thằng quỷ nhỏ (truyện dài, 1990) - Hoa hồng xứ khác (truyện dài, 1991) - Hạ đỏ (truyện dài, 1991) - Bong bóng lên trời (truyện dài, 1991) - Bồ câu không đưa thư (truyện dài, 1993) - Những chàng trai xấu xí (truyện dài, 1993) - Trại hoa vàng (truyện dài, 1994) - Út Quyên và tôi (truyện dài, 1995) - Đi qua hoa cúc (truyện dài, 1995) - Buổi chiều Windows (truyện dài, 1995) - Quán gò đi lên (truyện dài, 1999) 14 - Những cô em gái (truyện dài, 2000) - Ngôi trường mọi khi (truyện dài, 2001) - Tôi là Bêtô (truyện, 2007) - Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (truyện, 2008) - Đảo mộng mơ (truyện dài, 2009) - Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (truyện dài, 2010) - Lá nằm trong lá (truyện dài, 2011) - Có hai con mèo nằm trên cửa sổ (truyện dài, 2012) - Sương khói quê nhà (tạp văn, 2012) - Ngồi khóc trên cây (truyện dài, 2013) - Chúc một ngày tốt lành (truyện dài, 2014) - Bảy bước tới mùa hè (truyện dài, 2015) - Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (truyện dài, 2016) - Ngày xưa có một chuyện tình (truyện dài, 2016) Ngoài ra còn có 2 tập truyện dài kỳ là tập Kính vạn hoa (54 tập, trong đó có 45 tập được in trong khoảng từ năm 1995 – 2002) và tập Chuyện xứ Lang Biang (4 tập in trong khoảng 2004 – 2006), cuốn tạp văn Người Quảng đi ăn mì Quảng (2012), Thương nhớ Trà Long (2014), bộ truyện tranh cho thiếu nhi Bim và những chuyện kì thú (1998). Có thể nói với 5 tập thơ, trên 30 tập truyện và truyện dài, 2 cuốn tạp văn và 3 bộ truyện lớn, ông đã có một gia tài tác phẩm lớn thể hiện sức sáng tạo, khả năng lao động và sự chăm chỉ, cần mẫn trên mỗi trang sách của mình. Nguyễn Nhật Ánh còn sở hữu những giải thưởng như: Văn học trẻ hạng A năm 1990 với tác phẩm Chú bé rắc rối do Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng, giải nhà văn yêu thích trong 20 năm từ 1975 – 1995 qua cuộc bình chọn của bạn đọc do Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ phối hợp tổ chức; Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh chọn là một trong 20 nhà văn tiêu biểu giai đoạn 1975 – 1995; năm 1998 Nguyễn Nhật Ánh được trao giải thưởng tác giả có sách bán chạy nhất do NXB Kim Đồng trao tặng, giải thưởng Vì thế hệ trẻ cho bộ truyện Kính vạn hoa vào năm 2003 do Trung ương Đoàn Thanh 15 niên cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng; Kính vạn hoa còn được bầu chọn là 10 cuốn sách được yêu thích nhất do Ban văn học Thiếu nhi Hội nhà văn Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, nxb Kim Đồng, Nxb Trẻ và Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em phối hợp tổ chức; Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ được giải thưởng cuốn sách hay nhất của năm 2007 do báo Người Lao động bình chọn và Hội Nhà văn trao giải thưởng sách hay; đến năm 2010 cuốn sách này giành được giải thưởng Văn học ASEAN; … Những giải thưởng này ở những quy mô khác nhau, có những giải thưởng là của giới nghiên cứu phê bình nhưng cũng có những giải thưởng là bình chọn của bạn đọc, có giải thưởng trong nước và có giải thưởng quốc tế. Điều đó một lần nữa minh chứng cho tài năng của Nguyễn Nhật Ánh, cho khả năng sáng tạo và không ngừng tìm tòi của ông. Các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh còn được dịch ra tiếng nước ngoài như Mắt biếc được dịch sang tiếng Nhật, Cô gái đến từ hôm qua được dịch ra tiếng Nga và trở thành tài liệu học tiếng Việt cho người Nga, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ được dịch sáng tiếng Thái, tiếng Anh và tiếng Hàn để xuất bản tại Thái và Hàn. Điều đó cho thấy sức hấp dẫn của các tác phẩm không chỉ với độc giả trong nước mà còn có thể “xuất khẩu văn chương” đến với bạn đọc nước ngoài. Nguyễn Nhật Ánh đã cạnh tranh thành công với các tác phẩm văn học dịch, thậm chí ông còn có cuộc “phản công” ngược trở lại, mang sáng tác của mình đến với bạn bè thế giới. Không những vậy, các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh đang được nhiều đạo diễn chú ý. Bộ phim truyền hình Kính vạn hoa đã thu hút được sự quan tâm của không chỉ các khán giả nhí mà cả ở những người đã qua tuổi “nhí”. Bộ phim điện ảnh Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã tạo nên một kỉ lục phòng vé vào thời điểm bộ phim ra đời, thu hút được sự chú ý của dư luận. Các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh có thể chia làm 2 nhóm: một nhóm là các sáng tác dành cho tuổi học trò mà ở đây là lứa tuổi cấp 3 với các tác phẩm như Ngôi trường mọi khi, Cô gái đến từ hôm qua, Bong bóng lên trời, Bồ câu không đưa thư, … Các tác phẩm này thường thể hiện tâm lý lứa tuổi khá chân thực. Đó là những 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan