Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm đặc điểm nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong truyện ngắn của tô hoài...

Tài liệu đặc điểm nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong truyện ngắn của tô hoài

.PDF
81
923
104

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong khóa luận là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác. Đồng Hới, tháng 05 năm 2015 Tác giả Phạm Thị Bích Diệp i Lêi c¶m ¬n Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô Trường Đại học Quảng Bình và các thầy cô trong khoa Sư phạm Tiểu học – Mầm non đã truyền đạt cho em những kiến thức cơ bản trong suốt bốn năm học tại trường. Đó là hành trang quý giá để em tự tin, vững vàng hơn trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp sau này của mình. Em đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Tiến sĩ Mai Thị Liên Giang đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, cung cấp tài liệu và động viên em trong suốt thời gian qua để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Cảm ơn những người thân yêu trong gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi trong thời gian học tập và thực hiện khóa luận. Tác giả Phạm Thị Bích Diệp ii KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI STT 1 Kí hiệu [1, tr.120] Chú giải Trích dẫn tài liệu tham khảo 1, trang 120 iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. i KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI .................................................................... iii MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài: .................................................................................................... 1 2. Lịch sử đề tài nghiên cứu. ........................................................................................ 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. ............................................................................... 5 4. Nhiệm vụ nghiên cứu. .............................................................................................. 6 5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 6 6. Đóng góp của khóa luận........................................................................................... 7 7. Cấu trúc đề tài nghiên cứu. ...................................................................................... 7 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA TÔ HOÀI. ............................................................................. 8 1.1. Nhân vật văn học và chức năng của nhân vật văn học ........................................... 8 1.1.1. Nhân vật văn học. .............................................................................................. 8 1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học. ....................................................................... 9 1.2. Phân loại nhân vật văn học. ................................................................................. 11 1.3. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Tô Hoài. .............................................. 14 1.3.1. Nhân vật nông dân, thợ thủ công ...................................................................... 14 1.3.2. Nhân vật trí thức .............................................................................................. 18 1.3.3. Nhân vật loài vật .............................................................................................. 20 1.3.4. Nhân vật trẻ em. ............................................................................................... 22 CHƯƠNG 2. TÊN GỌI, NGOẠI HÌNH, TÍNH CÁCH, HÀNH ĐỘNG VÀ DIỄN BIẾN TÂM LÍ CỦA NHÂN VẬT TRẺ EM VÀ NHÂN VẬT LOÀI VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA TÔ HOÀI ............................................................................ 25 2.1. Tên gọi của nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật. ................................................ 25 2.2. Tính cách và hành động của các nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật. ................. 34 2.2.1. Ngây thơ, hồn nhiên, vô tư. .............................................................................. 35 2.2.2. Hiếu thảo, chăm ngoan, biết vâng lời. .............................................................. 37 2.2.3. Nghịch ngợm, thích được trêu đùa. .................................................................. 41 iv 2.3. Diễn biến tâm lí nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật.. ........................................ 46 CHƯƠNG 3. NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRẺ EM VÀ NHÂN VẬT LOÀI VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA TÔ HOÀI .............................................................. 51 3.1. Khái quát về ngôn ngữ văn học. .......................................................................... 51 3.1.1. Ngôn ngữ văn học là gì? .................................................................................. 51 3.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ văn học. ............................................................................ 52 3.2. Ngôn ngữ nhân vật. ............................................................................................. 54 3.3. Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong các truyện ngắn của Tô Hoài. .................................................................................................................... 55 3.3.1. Tính tự nhiên, đơn giản, gần gũi. .................................................................. 57 3.3.2. Tính sinh động, hấp dẫn, giàu cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ. ........... 61 3.3.3. Tính hài hước, hóm hỉnh. ................................................................................. 64 3.3.4. Tính giáo dục. .................................................................................................. 67 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 75 v MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đến với con đường nghệ thuật từ những năm ba mươi đến nay, Tô Hoài là một trong số những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại. Tác phẩm của ông phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống của người dân Việt Nam. Chân dung con người trong tác phẩm của Tô Hoài là cả một dòng sông cuộc đời trôi chảy của bao nhiêu sự việc, câu chuyện, đời người. Người đọc quan tâm đến ông không chỉ vì ông là một cây bút có bút lực dồi dào mà còn thấy ở ông những ý tưởng mới mẻ, táo bạo và khá sâu sắc trong việc khám phá, lí giải con người. Đóng góp ấy của ông cùng với một số nhà văn đương thời đang làm nên một diện mạo mới cho nền văn học Việt Nam đương đại. Tô Hoài bước vào nghề văn khá sớm và nổi danh từ trước năm 1945, ông có một khả năng quan sát đặc biệt, rất thông minh, hóm hỉnh và tinh tế. Những nhân vật, những cảnh đời trong tác phẩm của Tô Hoài có vẻ hồn nhiên như hơi thở của sự sống, một dáng dấp dân gian mạnh khỏe, thuần phác, trữ tình. Lối viết chân thực, giản dị rất đời thường trong cách xây dựng nhân vật. Đọc tác phẩm của Tô Hoài, chúng tôi nhận thấy, kiểu nhân vật được nhà văn quan tâm và thể hiện nhiều là nhân vật người dân miền núi, người anh hùng dân tộc, nhân vật cán bộ và nông dân trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật loài vật và trẻ em. Những kiểu nhân vật này xuất hiện trong các sáng tác của ông và tạo nên một xúc cảm mạnh mẽ trong lòng độc giả. Trong tác phẩm văn học, đặc biệt là thể loại truyện ngắn, xây dựng nhân vật là vấn đề rất quan trọng mà nhà văn quan tâm. Bởi bản chất của văn học là mối quan hệ với đời sống, văn học tái hiện đời sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò như những tấm gương của đời sống. Nhân vật trong tác phẩm không chỉ thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm mà còn thể hiện quan điểm nghệ thuật về con người của một nhà văn ở những thời điểm lịch sử nhất định. Nhà văn Tô Hoài cho rằng nhân vật không chỉ là nơi bộc lộ tư tưởng, chủ đề tác phẩm mà còn là nơi tập trung các giá trị của tác phẩm. Thành bại của một đời văn, của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng nhân vật. Khi nhắc đến tên của tác giả hoặc tác phẩm của nhà văn, người đọc thường nhớ đến tên nhân vật của họ. Chẳng hạn khi nhắc đến Nam Cao, người đọc nghĩ ngay đến các nhân vật văn học: Chí Phèo, Lão Hạc, Thứ, Hộ, … nhắc đến Vũ Trọng Phụng người ta nghĩ ngay đến Xuân Tóc Đỏ, Nghị Hách,… Nhân vật vừa mang chức năng xã hội, vừa phải làm tròn chức năng văn học của nó. Nhân vật thể hiện 1 những quy luật của cuộc sống con người, những hiểu biết, ao ước và kỳ vọng về con người. Chính vì thế, thành công trong việc xây dựng nhân vật chính là sự thành công của tác phẩm văn học. Để đánh giá thành công của một nhà văn nói chung, chúng ta không thể không quan tâm đến nhân vật, nhất là kiểu nhân vật đặc biệt, xuất hiện với tần số cao và gây được ấn tượng mạnh mẽ với độc giả. Nhân vật không chỉ là nơi thể hiện những chiêm nghiệm cuộc sống, tư duy nghệ thuật mà còn là nơi ký thác, bày tỏ những ước mơ khát vọng của nhà văn về xã hội và con người. Vì vậy, muốn hiểu và đánh giá đúng về nhà văn Tô Hoài, chúng ta không thể không đi sâu tìm hiểu một cách nghiêm túc và khoa học về kiểu nhân vật trong các tác phẩm của ông. Thế giới nhân vật của ông đa dạng và hết sức bình dị, thế giới ấy luôn gần gũi với mỗi chúng ta, trong bất kỳ hoàn cảnh nào thế giới nhân vật của ông cũng gắn với công việc, cũng được đặt trong môi trường sinh hoạt thường ngày và gắn bó thiết tha với con người, với quê hương đất nước. Tô Hoài là nhà văn của chuyện thường, của người thường, của đời thường. Và khi chúng ta nhắc đến thế giới nhân vật trong truyện của Tô Hoài thì không thể không nhắc đến thế giới nhân vật loài vật và nhân vật trẻ em. Đó quả là yếu tố đặc sắc và độc đáo trong thế giới truyện Tô Hoài. Qua việc nghiên cứu về thế giới nhân vật, chúng ta có cái nhìn đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn về tài năng của ông. Đó là lí do để chúng tôi lựa chọn đề tài: “ Đặc điểm nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong truyện ngắn của Tô Hoài” để nghiên cứu. 2. Lịch sử đề tài nghiên cứu Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu bàn về nhân vật văn học. Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện nay, những bài viết, công trình nghiên cứu về thế giới thế giới nhân vật trong các tác phẩm truyện ngắn nói chung còn đang hạn chế về số lượng. Tô Hoài sinh năm 1920, đến nay đã có 80 năm tuổi đời, và 60 năm tuổi viết. Ông có nhiều đóng góp đặc sắc cả trước và sau cách mạng tháng 8. Truyện ngắn là mảng sáng tác khá thành công với phong cách riêng. Đã có rất nhiều bài viết trên các tạp chí, những tham luận, luận văn, luận án, chuyên khảo, đánh giá, nghiên cứu về mảng sáng tác này. Dõi theo lịch sử phê bình, chúng tôi thống kê, đã có khoảng trên dưới 97 công trình nghiên cứu về tác giả Tô Hoài. Đặc biệt, trong đó có 3 nhà nghiên cứu người nước ngoài với bốn bài viết rất độc đáo. “(Đó là các tác giả G.Gôlôpnép, Nicullin, 2 Accađi Xtơrugaxki). Tổng hợp lại chúng tôi cho rằng: hiện có bốn hướng cơ bản nghiên cứu về Tô Hoài. Hướng 1: Đề cao các sáng tác cho thiếu nhi của Tô Hoài. Những nhà nghiên cứu theo hướng này hầu như xem tất cả công sức lao động nghệ thuật của Tô Hoài tập trung vào “Dế mèn phiêu lưu ký” và những sáng tác viết cho lứa tuổi học sinh Tiểu học, học sinh phổ thông cơ sở. Từ đó các nhà nghiên cứu đi sâu phân tích một số tác phẩm cụ thể. Ví dụ: “Dế mèn phiêu lưu ký”, “Con mèo lười”,…. Tiêu biểu cho quan điểm viết theo hướng này có G.Gôlôpnép, Accađi Xtơrugaxki, Phan Cự Đệ, Vân Thanh,…. Hướng 2: Tập trung khai thác giá trị những tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài sau cách mạng như: “Cát bụi chân ai”, “Vợ chồng A Phủ”, “truyện Tậy Bắc”,… Các tác giả đi theo hướng này, cho dù có một số vấn đề chưa đồng tình với tác giả nhưng đều thừa nhận những cách tân nghệ thuật của Tô Hoài. Hướng 3: Nghiên cứu một cách khái quát từ cách nhìn tổng hợp về quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật của Tô Hoài. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các tác giả: Vũ Ngọc Phan, Vũ Quần Phương, Vương Trí Nhàn,… Các bài viết đề cập nhiều đến những thăng trầm trong cuộc đời Tô Hoài ảnh hưởng đến sáng tác. Hướng 4: Đánh giá phong cách tác giả qua những thời gian được làm việc, tiếp xúc, trò chuyện, phỏng vấn nhà văn. (Ví dụ: Bài viết của Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Văn Bổng, Phan Thị Thanh Nhàn,..) Qua bốn hướng nghiên cứu như đã nêu, chúng tôi tìm thấy một số ý kiến liên quan đến các phương diện nhân vật, kết cấu và ngôn ngữ trong sáng tác của Tô Hoài như sau: 1.Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan bằng cách viết khái quát, đã đánh giá cao sáng tác của Tô Hoài trước cách mạng. Ông cho rằng: “Tô Hoài tỏ ra không giống một nhà văn nào trước ông và cũng không giống một nhà văn nào mới nhập tịch làng văn như ông. Truyện của ông có những tính chung nửa tâm lý, nửa triết lý mà các vai lại là loài vật. Mới nghe tưởng như truyện ngụ ngôn, nhưng thật không có tính cách ngụ ngôn chút nào”(52-123). 2. Ở tác phẩm “Đi tìm chân lý nghệ thuật” nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cũng rất khâm phục tài năng của Tô Hoài. Giáo sư tổng kết: “ Trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, tác phẩm viết về loài vật không phải là chủ yếu. Tuy nhiên bộ phận tác phẩm 3 này đã góp phần chứng minh cho phong cách đa dạng và ngòi bút tài hoa của ông” (34-42). Những nhận định này giúp chúng tôi tìm hiểu phần nhân vật loài vật trong sáng tác Tô Hoài được chính xác hơn. 3. Nói về nhân vật loài vật ở sáng tác Tô Hoài; trong cuốn văn học Việt Nam 1945-1975 (tập II) NXBGD 1990, Trần Hữu Tá viết: “Dưới ngòi bút Tô Hoài, những con vật ấy cũng có tình cảm, cá tính và cả tâm trạng, số phận nữa. Thông qua thế giới loài vật này, tác giả muốn nói truyện loài người, đến số phận người thợ thủ công vùng Bưởi” (45-143). 4. Giáo sư Phan Cự Đệ nhận định: “Trong tác phẩm Tô Hoài, nhìn chung ngôn ngữ quần chúng được nâng cao bằng nghệ thuật hóa. Anh đã trải qua quá trình lao động ngôn ngữ khá công phu, nhất là mặt trau dồi cú pháp và hình tượng ngôn ngữ.(32-99). Nhận định này phần nào giúp người viết trình bày rõ hơn chương 3 của khóa luận. 5. Trong bài viết giới thiệu tuyển tập Tô Hoài hấp dẫn của giáo sư Hà Minh Đức cũng cho thấy Tô Hoài rất được tôn trọng: “Vì vậy câu văn của Tô Hoài thường mới mẽ. Ông sáng tạo ra những quan hệ mới, cấu trúc mới trong cú pháp thi ca,… Trong lĩnh vực ngôn từ, Tô Hoài đặc biệt chú ý đến cái mới, cái đẹp của chữ nghĩa. Làm sao để trong văn mạch chữ nghĩa ánh lên màu sắc mới” (18-49). Qủa thật, ngôn ngữ của Tô Hoài xứng đáng được đánh giá như vậy. 6. Trong quyển “Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới”, sau khi phân tích một số yếu tố mới của tác phẩm, tác giả Vân Thanh đã khẳng định về vai trò kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ của Tô Hoài.) 7. Nhà nghiên cứu người Nga G.Gôlôpnép cũng rất mê cách kể chuyện của Tô Hoài. Những ý kiến của nhà nghiên cứu này giúp người viết hiểu sâu về ngôn ngữ người kể chuyện trong sáng tác Tô Hoài. Tác giả nói rằng: “Có một thời, bạn đọc của đất nước Xô Viết, lớn cũng như nhỏ không biết rằng ngoài Andecxen, Hopman, Grim và Sơ vác, còn có một nhà kể chuyện xuất sắc ở Việt Nam xa xôi, người ấy là Tô Hoài”. Ông còn dẫn thêm câu nói của Vladimia Xoolôukihin để chứng minh: “Ngay từ những trang đầu người đọc đã bị hấp dẫn bởi thể văn tâm tình và sự châm biếm tinh tế bởi lối phóng tác rất nhẹ nhàng, những chuyện phiêu lưu mạo hiểm … không còn nghi ngờ gì nữa, cuốn sách này sẽ được tái bản ở nước ta và được dịch ra nhiều thứ tiếng 4 khác, cho tới khi nó trở thành một trong những cuốn sách hay nhất, bằng tiếng loài người (45-461). 8. Đặc biệt phải kể đến những bài viết của tác giả Phong Lê trên các tạp chí. Ông cho rằng: “Trước cách mạng, truyện Tô Hoài in đậm cảm quan nghệ thuật và giọng điệu riêng của ông- Một cây bút sung sức đứng bên Nam Cao, làm nên dấu ấn đặc trưng cho trào lưu văn học hiện thực Việt Nam những năm tiền cách mạng. Bên cạnh đó, cùng với Vân Thanh, tác giả có công trình: “Tô Hoài về tác giả và tác phẩm” NXBGD năm 2001. Cuốn sách đã tập hợp các bài viết tiêu biểu về Tô Hoài. Đây là tác phẩm quan trọng giúp chúng tôi có điều kiện so sánh, đối chiếu trong quá trình tìm hiểu sáng tác của Tô Hoài. 9. Những năm gần đây, nhiều sinh viên ở các trường đại học cũng thực hiện một số đề tài luận văn tốt nghiệp về sáng tác Tô Hoài. (Ví dụ: Đề tài “Đặc điểm truyện ngắn Tô Hoài trước 1945”, tiểu luận tốt nghiệp (1994-1998) của sinh viên Phan Nhã Hằng, đề tài “Thế giới loài vật trong tác phẩm Tô Hoài” – Niên luận văn học hiện đại III, Huế, tháng 5/1999 của sinh viên Hồ Thị Tâm; đề tài: “Triết lý nhân sinh trong truyện loài vật của Tô Hoài trước 1945” của sinh viên Lê Thị Quang Tuyến,…) đây là những tài liệu quý giúp người viết tìm hiểu sáng tác của Tô Hoài được cụ thể hơn. Như vậy, nói về nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong sáng tác của Tô Hoài, các nhà nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở những nhận định khái quát, chưa đi sâu vào phân tích giá trị cụ thể của nó. Những công trình nghiên cứu trên là những gợi ý quý giá cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài này. Tuy có nói đến nhân vật văn học nhưng các công trình nghiên cứu trên chưa phân tích chi tiết về thế giới nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong các truyện ngắn của Tô Hoài. Với việc giải quyết các luận điểm trong đề tài: “ Thế giới nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong truyện ngắn của Tô Hoài”, hi vọng chúng tôi sẽ đưa đến cho bạn đọc cái nhìn đúng về bản chất của các tác phẩm truyện ngắn của Tô Hoài và giá trị của nó đối với bạn đọc nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong truyện ngắn của Tô Hoài. 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát truyện ngắn của Tô Hoài ở 3 cuốn sách chủ yếu sau: - Tô Hoài về tác giả và tác phẩm, NXB giáo dục, do Phong Lê giới thiệu và Vân Thanh tuyển chọn. - Tuyển tập Tô Hoài (Tập I), NXB văn học Hà Nội, năm 1996. - Tô Hoài, Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB văn học. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Đề tài tập trung nghiên cứu các đặc điểm về tên gọi, ngoại hình, hành động, tính cách và diễn biến tâm lý của thế giới nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật . - Nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong truyện ngắn của Tô Hoài. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài: “ Đặc điểm nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong truyện ngắn của Tô Hoài”, chúng tôi đã sử dụng 3 phương pháp nghiên cứu chính sau: 5.1. Phương pháp đọc sách và tài liệu: Phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu, tham khảo những vấn đề liên quan đến đề tài như truyện ngắn, nhân vật văn học, nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong các tác phẩm truyện ngắn của Tô Hoài. 5.2. Phương pháp phân tích- tổng hợp: Dùng để phân tích, làm rõ được nét đẹp và ý nghĩa của từng nhân vật trong truyện ngắn. Phân tích yếu tố ngôn ngữ nhân vật, góp phần làm rõ đặc điểm của các nhân vật được nhắc đến. Phương pháp tổng hợp giúp cho người viết có cái nhìn khái quát, toàn diện về nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong các tác phẩm truyện ngắn của Tô Hoài. 5.3. Phương pháp khảo sát – thống kê: Phương pháp này hỗ trợ chúng tôi khảo sát và thống kê các tài liệu đã tham khảo, các tác phẩm truyện ngắn của Tô Hoài có sự tham gia của nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật. Từ đó xác định được tầm quan trọng và vị trí của từng kiểu nhân vật trẻ em và loài vật trong truyện ngắn của Tô Hoài. Ngoài ra để phân loại nhân vật, chúng tôi kết hợp sử dụng phương pháp phân loại những nét đặc trưng của đặc điểm nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong truyện ngắn của Tô Hoài. 6 6. Đóng góp của khóa luận Từ việc phân tích đặc điểm của thế giới nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong các truyện ngắn của Tô Hoài, chúng tôi làm rõ hơn giá trị của tác phẩm Tô Hoài, góp phần giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về bản chất truyện ngắn của Tô Hoài. Nếu thành công đề tài cũng là tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên và cho giáo viên và sinh viên ngành giáo dục Tiểu học. 7. Cấu trúc đề tài nghiên cứu Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của khóa luận gồm có ba chương: Chương 1: Khái quát về nhân vật văn học và nhân vật trong tác phẩm của Tô Hoài. Chương 2: Tên gọi, ngoại hình, tính cách, hành động và diễn biến tâm lí của nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong truyện ngắn của Tô Hoài. Chương 3: Ngôn ngữ nhân vật trẻ em và nhân vật loài vật trong tác phẩm truyện ngắn của Tô Hoài 7 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA TÔ HOÀI. Tìm hiểu, nghiên cứu thế giới nhân vật trong các tác phẩm truyện ngắn trước tiên phải tìm hiểu quan niệm về nhân vật văn học, chức năng cũng như cách phân loại về nhân vật của các nhà nghiên cứu. Từ đó làm cơ sở để nghiên cứu về thế giới nhân vật loài vật và nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của Tô Hoài được cụ thể và chính xác hơn. 1.1. Nhân vật văn học và chức năng của nhân vật văn học 1.1.1. Nhân vật văn học Nhân vật văn học là phương tiện, là công cụ tinh vi sắc bén nhất để khái quát hiện thực. Việc xây dựng thành bại yếu tố này gắn liền với sự thành bại của tác phẩm văn học. Cũng nhờ nó mà tác phẩm văn học và tên tuổi tác giả trở nên bất hủ. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử thì nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Còn theo Lại Nguyên Ân trong “150 thuật ngữ văn học” thì nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Như vậy, nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật là sản phẩm của tư duy nghệ thuật, sự sáng tạo của nhà văn nhằm thể hiện một tư tưởng nghệ thuật cụ thể. Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong những tác phẩm bằng phương tiện nghệ thuật. Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình- ta trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác 8 phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật...nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người. Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan...Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: "Trong truyện ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật". Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau dường như cũng báo trước về số phận của mỗi người sau này. Hay việc giới thiệu Hoạn Thư gắn liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát triển về sau của nhân vật.Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó. 1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học Nhân vật văn học được tác giả xây dựng trong mỗi tác phẩm văn học luôn mang những chức năng nhất định, góp phần quan trọng trong việc tạo nên sự thành công cho tác phẩm văn học. Đó là đứa con tinh thần mà các tác giả muốn gửi gắm vào tác phẩm văn học. Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh vai trò nhân vật ở mỗi chức năng khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay nhiều nhà nghiên cứu đã thấy rõ nhất một số chức năng của nhân vật như: Chức năng miêu tả và khái quát các loại tính cách xã hội; chức năng tương tự chức năng của một chìa khóa; chức năng biểu hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về thế giới; chức năng tạo nên mối liên kết giữa các sự kiện trong tác phẩm. 9 Đầu tiên, có thể kể đến chức năng miêu tả và khái quát các loại tính cách xã hội: chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật cuộc sống của con người, thể hiện những hiểu biết, những ước ao và kì vọng về con người. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về các cá nhân đó. Nói cách khác nhân vật là phương tiện khái quát các tính cách, số phận của con người và các quan niêm về chúng. Tính cách, trong ý nghĩa rộng nhất, chung nhất, là sự thể hiện các phẩm chất xã hội lịch sử của con người qua các đặc điểm cá nhân, gắn liền với phẩm chất tâm sinh lí của họ. Tính cách có một hạt nhân là sự thống nhất của cá tính, và cái chung xã hội lịch sử. Nhưng người ta chỉ gọi là tính cách mà sự thống nhất kia biểu hiện một cách nổi bật các phẩm chất xã hội lịch sử của nó. Tính cách ấy là hiện tượng nổi bật đời sống của con người. Trong nghệ thuật thi ca, Aristôt viết: “ Tôi hiểu tính cách là cái lí do mà chúng ta gọi nhân vật bằng một tên nào đó”. Như vậy, tính cách được hiểu như là đặc điểm của nhân vật, khuynh hướng xã hội và là quy luật hành động của nhân vật. Đó là nhận thức chung nhất về tính cách như là nội dung của mọi nhân vật văn học. Thứ hai là chức năng tương tự chức năng của một chìa khóa: Chức năng này giúp nhà văn mở cánh cửa bước vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận những đề tài, chủ đề mới mẻ. Tuy nhiên, tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, xuất hiện trong hiện thực khách quan. Do đó, chức năng khái quát của nhân vật cũng mang tính chất lịch sử. Ví dụ trong thời cổ đại xa xưa, khi nhiệm vụ xã hội của con người là chinh phục thiên nhiên, khai phá địa bàn cư trú, tạo dựng dân tộc, chống ngoại xâm thì xuất hiện các nhân vật thần thoại như Nữ oa vác đá vá trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, hoặc các anh hùng mang tầm cỡ địa phương hay quốc gia. Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt phun lửa giết giặc Ân lại là nhân vật của thời đại muộn hơn. Đó là các nhân vật cổ tích với các tính cách kẻ giàu, người nghèo, kẻ ác người thiện, có ý nghĩa xác định những chuẩn mực giá trị trong quan hệ xã hội giữa người với người. Chức năng thứ ba của nhân vật là chức năng biểu hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về thế giới, nội dung khái quát của nhân vật không chỉ là cái tính cách xã hội lịch sử và mảng đời sống gắn liền với nó mà còn là quan niệm về tính cách và cái tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện. Sẽ rất ấu trĩ nếu hiểu nhân vật văn học như những con người thật, yêu mến và phán xét nó như những kẻ ngoài đời. Chẳng hạn, đọc truyện Thạch Sanh không nên chê trách chàng thiếu cảnh giác để đến nổi bị mẹ con Lí Thông 10 lừa dối mấy lần, hoặc đọc Tấm Cám chớ trách Tấm khờ khạo để mẹ con Cám lừa gạt, hãm hại,… Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do, công lí...Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiên. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người... Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh hùng Núp trong Ðất nước đứng lên; Chị Sứ trong Hòn Ðất...) nhưng cũng cần luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả". 1.2. Phân loại nhân vật văn học Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật được xây dựng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chất lượng miêu tả..., có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các loại nhân vật khác nhau. Ðể nắm bắt 11 được thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, có thể tiến hành phân loại chúng ở nhiều góc độ khác nhau. Thứ nhất xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật. Có thể nói đến các loại nhân vật chính diện (nhân vật tích cực), nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực). Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho lực lượng chính nghĩa trong xã hội, cho cái thiện, cái tiến bộ. Khi nhân vật chính diện được xây dựng với những phẩm chất hoàn hảo, có tính chất tiêu biểu cho tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang những mầm mống lí tưởng trong cuộc sống...có thể được coi là nhân vật lí tưởng. Ở đây, cũng cần phân biệt nhân vật lí tưởng với nhân vật lí tưởng hóa. Loại nhân vật sau là loại nhân vật được tô hồng, hoàn toàn theo chủ quan của nhà văn. Ở đây, nhà văn đã vi phạm tính chân thực của sự thể hiện. Nhân vật phản diện là nhân vật đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái ác, cái lạc hậu, phản động, cần bị lên án. Trong quá trình phát triển của văn học, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, việc xây dựng các loại nhân vật trên cũng khác nhau. Nếu như trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nôm, các nhân vật thường được xây dựng thành 2 tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng quyết liệt. Ở đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung những đức tính tốt đẹp còn nhân vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại. Trong văn học hiện đại, nhiều khi khó phân biệt đâu là nhân vật chính diện, đâu là nhân vật phản diện. Việc miêu tả này phù hợp với quan niệm cho rằng hiện thực nói chung và con người nói riêng không phải chỉ mang một phẩm chất thẩm mĩ mà bao hàm nhiều phẩm chất thẩm mĩ khác nhau, cái nhìn của chủ thể đối với sự vật nhiều chiều, phức hợp chứ không đơn điệu...Những nhân vật như Chí Phèo, Thị Nỡ, Tám Bính, Năm Sài Gòn...là những nhân vật có bản chất tốt nhưng đó không phải là phẩm chất duy nhất của nhân vật. Khi đặt nhân vật vào loại nào để nghiên cứu, cần phải xét khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời phải chú ý đến các khuynh hướng, phẩm chất thẩm mĩ khác nữa. Trong giai đoạn trước, những nhân vật như Kiều, Hoạn Thư, Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu tả ở nhiều góc độ, với nhiều phẩm chất khác nhau chứ không phải chỉ có một phẩm chất chính diện hoặc phản diện. Thứ hai xét từ góc độ kết cấu, có thể chia thành các loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ. Nhân vật chính là nhân vật giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức và triển khai tác phẩm. Ở đây, nhà văn thường tập trung miêu 12 tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, nội tâm, quá trình phát triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật chính, nhà văn thường nêu lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong tác phẩm và từ đó giải quyết vấn đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tình điệu thẩm mĩ. Nhân vật chính có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với những tác phẩm lớn có nhiều nhân vật chính thì nhân vật chính quan trọng nhất xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là nhân vật trung tâm. Trong không ít trường hợp, nhà văn dùng tên nhân vật trung tâm để đặt tên cho tác phẩm. Ví dụ: Ðông Kísốt của Cervantes, Anna Karênina của L. Tônxtôi, A.Q chính truyện của Lỗ Tấn, Truyện Kiều của Nguyễn Du... Trừ một hoặc một số nhân vật chính, những nhân vật còn lại đều là những nhân vật phụ ở các cấp độ khác nhau. Ðó là những nhân vật giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình diễn biến của cốt truyện, của việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật phụ phải góp phần hỗ trợ, bổ sung cho nhân vật chính nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có nhiều nhân vật phụ vẫn được các nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính cách riêng, cùng với những nhân vật khác tạo nên một bức tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh. Thứ ba, xét từ góc độ thể loại: Có thể phân thành các nhân vật: nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự và nhân vật kịch. (sẽ nói rõ trong phần các loại thể) Thứ tư, xét từ góc độ chất lượng miêu tả: Có thể phân thành các loại: nhân vật, tính cách, điển hình. Nhân vật là những con người nói chung được miêu tả trong tác phẩm. Ở đây, nhà văn có thể chỉ mới nêu lên một vài chi tiết về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động...cũng có thể miêu tả kĩ và đậm nét. Tính cách là nhân vật được khắc họa với một chiều sâu bên trong. Nó như một điểm qui tụ mà từ đó có thể giải thích được mọi biểu hiện muôn màu, muôn vẻ sinh động bên ngoài của nhân vật. Ðiển hình là tính cách đã đạt đến độ thực sự sâu sắc, là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái khái quát và cái cá thể...Nói một cách nghiêm ngặt, thuật ngữ này chỉ được áp dụng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về sau. Ngoài những loại nhân vật được trình bày, có thể nêu lên một số khái niệm khác về nhân vật qua các trào lưu văn học khác nhau. chẳng hạn, khái niệm nhân vật bé nhỏ trong văn học hiện thực phê phán, khái niệm nhân vậtcon vật người trong chủ nghĩa tự nhiên, nhân vật-phi nhân vật trong các trào lưu văn học hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây.. Như vậy, từ mỗi góc độ, các nhà lý luận đã có sự phân chia khác nhau về loại hình nhân vật. Tuy nhiên, khi khảo sát tác phẩm của Tô 13 Hoài từ góc độ nội dung, chúng tôi nhận thấy việc phân loại nên theo một hướng cụ thể. 1.3. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Tô Hoài Tô Hoài quan niệm chỉ viết về những điều mà ông nhìn thấy ở quanh mình, ở chính mình, viết những sự thực xảy ra trong nhà, trong làng quanh mình. Ngòi bút Tô Hoài hướng đến những con người, những câu chuyện của làng quê ông. Viết về người dân quê, nhà văn có cái nhìn giản dị và xác thực về họ. Theo ông, con người trước khi là một ai đó thì trước hết phải là chính mình, phải là mình với tất cả những gì mà tạo hoá đã sinh ra chúng ta. Có xấu, có tốt, có dở, có những thói tật của riêng mình. Con người không phải là thánh nhân cũng không phải là các gì đó siêu phàm. Bên cạnh những tính tốt con người, con người còn có những hạn chế, thậm chí những thói xấu. Con người có những phần cao cả nhưng cũng có nhiều khuất lấp ẩn sâu trong tâm hồn. Vì vậy, nhân vật trong truyện ngắn của ông không xa lạ, họ là những người nông dân, người thợ thủ công, những người trí thức sống ở làng Nghĩa Đô, ngay cả đến loài vật cũng hết sức bình thường, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày. 1.3.1. Nhân vật nông dân, thợ thủ công Nhân vật chiếm đa số trong những trang truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng là những người nông dân thợ thủ công. Họ là hình ảnh người dân làng Nghĩa Đô, là người chính người thân trong gia đình Tô Hoài. Không giống như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài viết về người nông dân, người thợ thủ công, ông không đi vào những sự kiện quan trọng, những tình huống gây bất ngờ, hay những cuộc đấu tranh giai cấp. Dưới con mắt của Tô Hoài, những người nông dân, những người thợ thủ công đều là con người bình thường, có suy nghĩ, tâm trạng vận động theo quy luật đời thường. Có lẽ vì vậy, nhân vật của ông không phải là những con người hành động kiên cường giống như chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, những kẻ quá ngờ nghệch dốt nát như con mẹ nuôi trong Đồng hào có ma của tác giả Nguyễn Công Hoan. Thực sự, nhân vật của Tô Hoài là những con người đời thường. Họ phải chịu cảnh đói nghèo, thất nghiệp vì những biến động của xã hội. Họ có mặt tốt mặt xấu, có những suy nghĩ hết sức vụn vặt, những lo toan tính toán trong cuộc sống thường nhật. Thời ấy, làng Nghĩa Đô, người dân sống chủ yếu bằng nghề dệt cửi, sự sống loanh quanh buộc vào mấy khung cửi mọt. Xung quanh Tô Hoài là cảnh sống khó khăn túng 14 quẫn của gia đình, của làng xóm nghề dệt thủ công dần dần phá sản. Tô Hoài đã ghi lại cảnh gia đình trong Tự truyện. Những ngày chợ phiên hàng ế hàng, không khí gia đình càng trở nên nặng nề: “Nhà tôi, ngày chợ không sinh chuyện này thì chuyện khác. Hàng ít lại xấu, không đều, không ai mua. Thế là xảy ra xô xát giữa bà ngoại tôi và các dì tôi. Ông ngoại tôi ngồi uống rượu. Cuối cùng, bao giờ ông tôi cũng vác gậy đuổi đánh tất cả. Mọi người chạy toán loạn đêm mới về (...) Sáng hôm sau, lại vẫn cãi vã, làm ầm cả xóm”... Những kí ức ấy đã ăn sâu trong tâm trí của cậu bé Tô Hoài. Vì vậy, chúng ta hiểu tại sao những nhân vật nông dân và thợ thủ công trong truyện ngắn của ông đựơc quan tâm nhiều nhất và đều là những con người nghèo đói, khốn khổ, cùng cực. Chẳng hạn trong Nhà nghèo cái nghèo cũng ám ảnh gia đình anh Duỵên trong Nhà nghèo. Suốt đời hai vợ chồng anh Duyện chỉ biết cắm mặt làm lụng tối ngày mà gia đình anh vẫn nghèo chẳng đủ ăn. Nhà nghèo đến mức chẳng có một cái gì đáng giá, thậm chí không có một chút lửa. “Mỗi bận thổi cơm, cái Gái vẫn phải ra tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì mọi người trong nhà đi ngủ cùng với mặt trời, không cần đèn.”. Cơn mưa mùa hạ xối xả, rào rào, trắng xoá gợi bao sung sướng. Họ nghĩ đến bữa cơm “có thịt nhái nướng thơm phức chấm với muối ớt, nhai ròn rau ráu, ngon tuyệt.” Kết thúc truyện bất ngờ khiến người đọc vô cùng đau xót, cái Gái đứa con gái đầu của hai vợ chồng anh Duyện đã bị rắn cắn chết trong tư thế “hai tay ôm khư khư cái giỏ nhái. Lưng nó trần xám ngắt. Chân nó co queo lại”. Phải chăng ngay trong lúc nguy hiểm, nó vẫn mơ tưởng đến món thịt nhái nướng, đến cảnh gia đình đầm ấm quanh món ăn này. Anh Duyện đau đớn và nghĩ đến cái khổ của con gái mình: “bấy lâu nó vào cửa vợ chồng anh, cực khổ trăm đường. Người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết cả ra”. Cái nghèo đeo đẳng cuộc sống của dân quê, đe doạ đến hạnh phúc của của họ. Trong Chớp bể mưa nguồn, anh Mi vì quá nghèo mà không đủ tiền lấy vợ. Cuối cùng một ngừơi phụ nữ đã theo về nhà, làm vợ anh. Bà Móm vô cùng phản đối vì bà cho rằng đó là người đàn bà đốn mạt, không cưới xin, lại đàng hoàng đến nằm vạ nhà bà. Nhưng bà cũng xót xa vì nhận ra hoàn cảnh gia đình mình: “Bà không có tiền ấy vợ cho nó à? Đâu bà có muốn thế. Chẳng qua là cái ông trời cay đắng kia chưa muốn cho bà khá... Ngày xưa, bà đi lấy chồng, nghèo khó lắm. Vậy mà hàng xóm cũng được nhai bỏm bẻm miếng trầu. Làng nước cũng nhận được năm chục viên gạch thay tiền cheo...” Tình huống “nhặt” vợ cũng đựơc đề cập trong truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Anh Tràng cũng không đủ tiền cưới vợ, một người phụ nữ cũng vì đói kém quá mà 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng